- Thư Tòa Soạn
- Thụy Khuê: Đất Nước Và Con Người
- Mai Thảo: Nhân Cách Bình Nguyên Lộc
- Nhớ Già Ung
- Bà Mọi Hú
- Ba Con Cáo
- Nhốt Gió
- Đồng Đội
- Rừng Mắm
- Thôn Quả Phụ,tham Luận Quanh Chủ Đề "x"
- Gạn Tâm
- Nhật Kí Hành Quân Trong Chiến Trận Nguyễn -tây Sơn
- Chiều
- Hợp Âm
- Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946 (phần I)
- Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946 (phần II)
- Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946 (phần III)
- Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946 (phần IV)
- Thơ Từ Nữ Triệu Vương
- Nói Chuyện Với Lại Nguyên Ân Về Việc Sưu Tập Những Tác Phẩm Đăng Báo Của Phan Khôi
- Thảo Trường, Nhà Văn Dấn Thân Với Nỗi Ý-thức Không Rời ...
- Vương Trí Nhàn: Đồng Đức Bốn Và Chất Hoang Dại Trong Thơ
- Những Câu Thơ, Một Thuở Quê Nhà
- Góc Phố Thời Gian
- Đi / Dành Dụm
- Hiếp
- Gió Không Chốn Ở
- Trăng Giữa Ban Ngày
- Cát Bụi Bay Về
- Lục Y Nhân Truyện
- Tấm Lòng
- Phụ Trang
Tạ Chí Đại Trường
Nếu chịu khó nén tự ái chút xíu thì phải công nhận rằng những ghi chép về quá khứ của chúng ta còn lại thật là quá ít. Chẳng cần tìm những nguyên nhân xa xôi, chỉ giản dị nhìn thấy các sử quan xưa không chịu viết riêng quyển sách cho mình mà cứ “dọn” lại sách cũ thì đủ biết sự mất mát đã là to lớn dường nào. Rồi cộng thêm với sự chăm chút riêng của nhà nước đương thời về các sản phẩm chính thống đó, trong lúc họ lơ là để những “dã sử” phải huỷ hoại khiến cho người sau không còn gì để đối chiếu, phê phán. Ví dụ sách Toàn thư đã lược giản những biến động từ Lí qua Trần, hẳn là từ công trình “đao bút” của Ngô Sĩ Liên. Biến động có tính cách tổng hợp còn như vậy huống hồ là những ghi chép chi li giờ phút ngày tháng, soi đủ mọi mặt sinh hoạt của những con người tham gia vào biến cố!
Tất nhiên dù ít nhiều gì người xưa cũng có ghi chép các chi tiết mà bản thân đương thời của họ, và của người trên họ thấy là yêu cầu cần thiết. Ví dụ Toàn thư tuy đã để dành rất nhiều trang cho các trận chiến chống Minh nhưng các tài liệu liên hệ còn nhiều hơn ta tưởng. Có chuyện năm 1434, Phạm Tư Minh bồi đai bán cho người Trung Quốc bằng “giấy cũ ghi việc điểm binh” nên phải bị giáng cấp. Lượng giấy đủ dùng cho một công cuộc mua bán hẳn không phải là ít. Tuy nhiên sự kiện huỷ hoại như thế cũng bớt dần khi thời gian cách biệt đối với chúng ta ngắn lại. Ví dụ về các chiến trận Nguyễn - Tây Sơn, phần giáp ranh thế kỉ XVIII, XIX.
Nguyễn Đức Xuyên (1758-1824), người coi Tượng cơ của Nguyễn Ánh trong chiến trận, còn để lại một tập hồi kí được đăng từng kì trên tập Nghiên cứu Huế bây giờ. Chúng tôi không thấy toàn bộ hồi kí nhưng cũng tạm cho là đủ để bàn trong vấn đề chọn lựa. Nó xuất hiện dưới tựa đề “Tập hồi kí biên niên ‘Lí lịch sự vụ’” do Trần Đại Vinh dịch và chú giải. Theo lời dẫn thì năm 1822, Minh Mạng sai các quan viết lí lịch sự vụ của mình đem nạp Sử quan để làm tài liệu. Tập của Nguyễn Đức Xuyên nạp ngày 22-6 Nhâm ngọ (1822). Trong những nhân vật lớn từng tham gia chiến trận vừa qua, đến năm 1822 thì Nguyễn Văn Thành đã tự tử (1817) vì vụ con là Nguyễn Văn Huyên mang cái ngông nghênh của nhà nho làm thơ khẩu khí. Còn sống là Lê Văn Duyệt, Lê Chất, hẳn cũng có phần ghi chép của mình nhưng hiển nhiên không thể lưu lại dấu tích vì vụ Lê Văn Khôi nổi loạn đã là dịp để các văn quan báo thù hai ông tướng từng huênh hoang “Chúng ta kéo nhau về triều, nạt một tiếng, bọn Trịnh Hoài Đức... xanh mặt ngay!” Lại cũng không thấy phần của Nguyễn Văn Trương chẳng hạn. (Tuy gốc chăn trâu nhưng làm quan nhất phẩm triều đình, từng là “tư lệnh phó” của Nguyễn Ánh, khéo léo cư xử trong ngoài, được vua tưng trọng thì thiếu gì kẻ khoe văn múa bút xin làm thay?) Sử quan khi viết Liệt truyện cũng đã nhận rằng có lấy tài liệu từ các quan tham gia biến cố cũ. Vậy mà ở đây chỉ còn lại của Nguyễn Đức Xuyên. Ta tạm bằng lòng như thế.
Chuyện chiến tranh phần nhiều là của thế kỉ trước, hồi kí bắt đầu năm 1781 nên chỉ là những điều “nhớ lại”, vì thế ta không lấy làm lạ rằng cậu thanh niên 23 tuổi này chỉ biết một biến cố quan trọng mà đương thời chắc ai cũng rõ, đó là vụ trừ khử Đỗ Thanh Nhân. Phải trải qua trong hơn mười năm, được ngoi lên trong biến cố với vai trò tham dự lớn dần, ta mới thấy Nguyễn Đức Xuyên ghi chép nhiều hơn, từ bản thân lan qua các nhân vật, sự việc liên hệ. Và cũng dễ thấy rằng những quyết định hành động của con người trong thời đảo lộn không thể cứ theo chuẩn mực bình thường.
Tuỳ theo tình hình mà người ta lột áo theo phe này phe nọ để rồi khi đứng vững ở một nơi thì lại tìm cách che giấu, biện minh cho quá khứ của mình. Ta đã thấy Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Đăng Vân... trong sử triều đình, ở đây lại thấy thêm tên Trương Tấn Bửu, “Đốc chiến Bửu thuận hầu” của Tây Sơn, từng coi 500 binh Miên, sau cũng là công thần của Nguyễn Ánh. Sau trận Hòn Chồng, thoát khỏi cuộc vây bắt của Trương Văn Đa, Nguyễn Đức Xuyên trốn về Sài Gòn làm tướng Tây Sơn, rồi nổi loạn chống đối, nấp lánh cho đến khi Nguyễn Ánh theo quân Xiêm về mới thoát ra được. Lần đầu hàng được ghi trong hồi kí là “Phụng mệnh... quy tập cựu binh theo ở với Tây Sơn để làm nội ứng”, nhưng đó là chuyện của 40 năm trước, nay Nguyễn Ánh đã mất, tha hồ viện dẫn, chưa kể công tích đã qua, chức quyền hiện tại đủ giúp cho Xuyên xí xoá một lúc yếu mềm! Người em thứ ba là Nguyễn Đức Ngữ cũng từng là Đô đốc Tây Sơn. Thời luân lạc đói khổ, bị rượt đuổi, Xuyên từng liên tiếp cướp thuyền thương khách Trung Hoa, giết người Xiêm (1783, 1784, 1785) thì chuyện đầu hàng kẻ thù cũng không lạ là mấy!
Ghi chép của Xuyên có thêm những điều sáng tỏ, đồng thời thêm thắc mắc cho ta ố đây là chuyện kéo dài vô tận của việc tìm hiểu quá khứ. Trong lúc đầu hàng Tây Sơn, Xuyên được “nguỵ Cai cơ Trí” sai đấu côn với “Cai cơ Dũng”, người mà Xuyên quả quyết là tướng Võ Văn Dũng nổi danh về sau. Điều này hẳn là xác thực bởi vì khi tàn cuộc, Xuyên còn gặp Võ Văn Dũng (xem sau). Vậy là Dũng đã có mặt trong hàng ngũ Tây Sơn từ lâu, nghĩa là sự việc đủ để giải thích quyền lực của ông ta về sau nhưng lại gây thắc mắc về nguồn gốc Hải Dương của ông theo Hoa Bằng phác giác, và về tước Chiêu Viễn hầu của Quang Trung phong cho. Cũng ngay từ 1782, Nguyễn Ánh, theo Nguyễn Đức Xuyên, đã có bộ phận “quân / quan quân Bắc Hà” và “quân Cao Miên” được kể chung với toán “quân cấm binh ‘hầu điếu’” trung thành. Bộ phận Bắc Hà trên là của quân lính Trịnh ở Phú Xuân đào ngũ hay là lưu dân Bắc chưa đồng hoá với địa phương, còn cho thấy rõ là thuộc thành phần riêng biệt? Trong 200 năm phân chia, dân khai khẩn vùng cực nam là của Đàng Trong, vả lại chữ “quan quân Bắc Hà” đã chỉ rõ xuất xứ của họ. Họ hẳn là của quân Trịnh chuyển qua trung gian Tây Sơn trong những trận đánh Cẩm Sa (1775) và những tiếp giáp Trịnh Tây Sơn sau đó. Lại cũng là chuyện bình thường của thời thế, nhóm quan quân đầu hàng, tù binh kia của Trịnh đi qua phía Nguyễn Ánh, vẫn còn một bộ phận ở lại phía Tây Sơn trong đó hẳn có Võ Văn Dũng. Về phần lính Miên, trong những trận chiến về sau trên đất Tây Sơn đều được gọi là “Xiêm binh” tuy có dấu hiệu có thành phần Miên, như bộ phận dưới tay Nguyễn Văn Tồn, người Trà Vinh, hay bộ phận “lính Xiêm” dưới quyền Ốc nha Dong ố Ốc nha là quan chức Miên.
Tuy nhiên phần lớn đó cũng chỉ là hồi ức. Sự việc được kể như có căn cứ ghi chép đương thời là từ lúc Nguyễn Đức Xuyên rời vị trí hầu hạ Nguyễn Ánh ra chỉ huy quân riêng: bộ phận tượng binh thành lập để đối phó với Tây Sơn. Chính từ đây ta mới thấy được tính chất thời sự của biến động. Tất nhiên việc ghi chép này có đi đến độ tỉ mỉ xác thực cũng phải đòi hỏi thời gian theo với vai trò thăng tiến, đẩy đưa yêu cầu hành động của ông. Năm 1793, khi đi đánh Quy Nhơn, Xuyên chỉ ghi những con số tròn trịa “quân dò thám tiền phương 10 người... thêm 100 người đánh phá ‘thành mới của Nguyễn Nhạc’”. Đến lúc theo quân đánh Phú Yên, Thi Nại 1794, 95 thì Xuyên ghi chi tiết ở Nha Trang với tên các tướng mặt trận, các tướng Tây Sơn, việc bàn định tấn công, kể cả việc Lê Văn Duyệt lấy tư cách tướng mặt trận, đánh trước tâu sau... Rồi trong chuyến công tác đưa sứ Xiêm về nước, nhân dịp đánh cướp biển, Xuyên ghi việc từng ngày một, kể cả giờ khắc đến hòn Tre (“giờ dậu”), tấn công Đồ Bà (“canh hai”).
Vai trò Xuyên càng lớn lên với chiến dịch đánh Đồ Bàn 1799-1802. Điều này là do hai nguyên cớ bổ túc cho nhau: tính cách thân thuộc của Xuyên và vai trò quan trọng của tượng binh trong chiến cuộc. Xuyên vốn có gốc họ “Nguyễn Phúc...” của chúa cho nên trong chiến dịch, tiếng là dưới quyền Nguyễn Văn Thành mà lệnh tiến quân, điều binh, báo cáo đều là trực tiếp với Nguyễn Ánh. Trong trận đánh thất lợi ở Kì Sơn (nam Bình Định), trong báo cáo thẳng với Nguyễn Ánh, Xuyên nhận rằng có “nặng lời” với quan Điều bát không phải chỉ vì cậy thế thần mà cho rằng Thành đã quá sơ suất trong việc phòng thủ ở vị trí của ông ta. Những loại xung đột hàng ngày theo kiểu này vẫn có ảnh hưởng dai dẳng nên chính Xuyên, cũng như Lê Văn Duyệt, sẽ có dính dấp đến việc kết tội chết cho Thành về sau. Và tất nhiên giữa cảnh tên đạn sống chết, kẻ thấp hèn hơn cũng không mấy quan tâm đến chuyện hoàng thân quốc thích, còn vua thì cũng khó mà bênh vực. Cho nên chúng ta thấy Xuyên phải phân trần với Nguyễn Ánh về việc tướng sĩ dưới quyền tranh công, tranh thưởng, khởi tố cấp trên, chửi Xuyên là “thằng hát bội, làm tướng sao nên!”
Trong các chiến dịch trên bộ, vai trò quan trọng của tượng binh Tây Sơn là điều đã từng nói tới, nhất là khi người ta muốn nêu cao danh vị một nữ tướng: Bùi Thị Xuân. Cho nên đối trọng từ phía Nguyễn cũng phải là tượng binh. Tuy có bộ phận voi của “Xiêm binh”, nhưng chính quân của Xuyên đã góp phần quan trọng trong các cuộc tấn công, kềm giữ quân Tây Sơn khiến cho trong các trận thua cũng không phải chịu nhiều tổn thất. Chứng cớ rõ ràng là phán đoán từ phía địch thủ. Sau khi bỏ Đồ Bàn rồi bị bắt ở phía thượng du, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng nghe tin Nguyễn Đức Xuyên được phong trấn thủ Thanh Hoá, liền nằng nặc đòi gặp. Té ra hai tướng Tây Sơn chỉ cần thấy tận mặt người đã cùng mình đối đầu suốt ba năm trên chiến trận mà thôi!
Nguyễn Đức Xuyên nắm lượng quân số rất chặt. Đầu năm 1801, báo cáo lính tác chiến là 2128 người, ốm đau sai phái là 393 người. Qua các trận, thấy báo cáo còn 1319 người, bị thương 50, bệnh 94, chết 13 còn mạnh 1162, thật sít sao. Rồi một lúc sau lệnh bổ sung, báo cáo cho thấy số người cũ, mới của từng cơ trong 4 vệ dưới quyền, tổng cộng 2268 người (1650 cũ, 618 mới). Ngày về Phú Xuân, quân số tăng lên 2566 người. Báo cáo thiệt hại cũng rất kĩ. Trận Kì Sơn bị thương 258 người, “thất trận” (mất tích [trốn, đầu hàng]?) 157 người, chết 26 người, voi bị thương 32 con, mất tích 6 con. Với tình hình nắm chặt quân số của một đơn vị trong thời tranh chiến như thế khiến ta khá tin vào số quân của L. Barizy đưa ra, tính cả toàn bộ lực lượng của Nguyễn Ánh. Lẽ tất nhiên không thể nào có tài liệu về phía Tây Sơn, nhưng dù có cũng có thể tin rằng phía Tây Sơn không nắm vững quân số như Nguyễn Ánh được. Cứ xem cách Quang Trung cuối năm Mậu thân 1788, dẫn quân qua Nghệ An dùng chó săn người trốn, lấy dao xỉa vào đống rơm, “chốc lát được hơn một vạn” thì thấy ngay là sự nói phỏng chừng .
Số lượng trên là tính cho “nội dinh” 4 vệ của Xuyên, chứ còn riêng binh tượng thì thu hẹp hơn, chỉ có 270 người nhưng với những chi tiết đáng kinh ngạc: hạng nhất 102 người (trưởng chi 5, phó 4, cai đội 10, phó 7, đội trưởng 26, ngũ trưởng 14, lính 36); hạng nhì 79 (cai đội 3, phó 5, đội trưởng 13, ngũ trưởng 19, lính 39); hạng ba 36 ( đội trưởng 2, ngũ trưởng 9, lính 25). Như vậy tính theo tổ chức quân sự ngày nay thì binh tượng của Xuyên là quân thiết giáp, lúc hành quân không phải là đơn độc mà có cả một bộ phận tùng thiết đi theo. Tên của các voi rất là nôm na: voi Rạp, Kèo Nhỏ, Bích, Nhảy, Vân của Xuyên, voi Ngẫu, voi Tiêu của Tây Sơn. Sự quan tâm của Xuyên không phải chỉ với binh lính mà tất nhiên còn đối với voi nữa. Ta thấy Xuyên kể chuyện voi Kèo Nhỏ thất lạc trong chiến trận, gần cả năm sau lại trở về trong lúc quân đã dời đi nơi khác! Chúng ta thấy chuyện chữa cho voi mắc bệnh “ăn đất”, với các chuyên viên đã đành mà cũng có cả các lương y bất chợt theo tình hình chiến trận khiến voi phải chết ố “hạ thổ”.
Sự kiện được ghi về một phía của tranh chiến ố phía Xuyên, của Nguyễn Ánh ố khiến ta dễ tưởng lầm chỉ có chuyện ba hoa công tích. Thật ra điều này chỉ xảy ra lúc các sử gia “dọn lại”, chứ người đương thời trong sống chết gang tấc phải cần ghi sự thật để kịp ứng biến có hiệu quả cho nên ta gặp những chi tiết khá thất lợi cho quan niệm phe phía về sau mà Nguyễn Đức Xuyên may thay không xoá bỏ. Đã thấy chuyện các thuộc hạ của Xuyên chửi chỉ huy trưởng của mình là “thằng hát bội”. Xuyên cũng kể chuyện quân tướng ở lại giải vây cho thành Bình Định, nghe tin lấy được Phú Xuân liền không chịu đánh nữa, các quan thì “bàn ra”, còn lính lâm trận “chưa thấy giặc đã chạy”.
Vấn đề xung đột ý kiến trong việc thu dụng tướng Tây Sơn về đầu cũng được bàn rất chi tiết, dài dòng, với ý kiến phản đối của Xuyên lấy lí lẽ “Chừng nào thần và Thành tướng quân bỏ chúa thượng thì chúng nó mới bỏ chúa nó...”, và những lời Nguyễn Ánh bày tỏ khéo léo mà không giấu vẻ quyền uy trong việc bênh Lê Chất, Lê Văn Phong cùng việc xử trí đối với các hàng thần.
Trong những biến cố dồn dập vẫn thường có những chi tiết thoảng qua tưởng chừng không quan trọng nhưng đối với người đọc tinh ý sẽ thấy như một bằng chứng lớn lao, hoặc ít ra là gây được thích thú bất ngờ. Việc có người Âu giúp Nguyễn Ánh với người đọc sử ngày nay đã trở thành bình thường nhưng không ít người vẫn nghĩ rằng “Tây là Tây, Ta là Ta, Tây đánh theo Tây, Ta đánh theo Ta”, nhất là khi thấy các sử quan kể chuyện tiến công, lui quân, bắt lính, thâu thuế... không khác chuyện chiến trận hàng trăm năm trước. Nhưng Nguyễn Đức Xuyên cho một chi tiết không thấy tương tự ở bất cứ nơi nào trong sách của Quốc sử quán, khiến ta phải đặt vấn đề ảnh hưởng Tây Phương đối với quân Nguyễn Ánh sâu đậm hơn là ta tưởng. Đó là chuyện Xuyên đánh đồn Kì Sơn “tay phải cầm súng kíp, ngón tay vô danh và ngón giữa bị trúng đạn”, và nhờ có ống dòm khiến cho Xuyên thấy được toán quân của Trần Quang Diệu từ xa nên lui quân kịp thời khỏi chịu tổn thất.
Vậy thì trở lại với những chi tiết về quân ngũ như đã nói, sự kiện Xuyên biết mà ghi lại đó có phần nào chịu ảnh hưởng theo cách tổ chức quân sự rành rẽ của Tây Phương không? Tổ chức đó rõ ràng là khác với lối đánh “truyền thống” đến đâu bắt lính tới đó (như Nguyễn Huệ ở Nghệ An đã nói) tuy cũng có tướng, binh nhưng không giấu được tính chất hỗn độn từ cung cách tập họp người dưới cờ. Kiến thức đến từ người Pháp, có Trần Văn Học biết cách vẽ bản đồ, xây thành trì, như vậy ông quan này thật có nhiều điều khiến ta phải suy nghĩ hơn là chỉ dựa trên những dòng chữ của sử quan để lại. Trong chuyện kể của Xuyên, ta cũng gặp một phương thức truyền tin theo kiểu “tân cổ giao duyên”: Khi muốn báo tin cho bên trong thành Bình Định biết, quân Nguyễn đã “đốt 5 cây hoả hổ và 3 nhà dân”! Đọc lịch sử có những chuyện này thật lí thú hơn là nghe tiếng văn chương trầm bổng, hay những ngợi ca về thành tích chiến tranh, trị nước của các bậc “anh hùng”, “minh quân”. Cùng một chiều hướng thích thú đó, ta nghe Xuyên kể chuyện “nguỵ Đô đốc Điềm đem khoảng 700 người (lính nam và) phụ nữ 50 người đánh Phú Yên”. Hay, như đã nói, chuyện Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng làm thân bại tướng với cái chết cầm chắc mà đòi gặp Nguyễn Đức Xuyên chỉ vì một lí do thật hào hùng của con nhà tướng: Muốn thấy tận mặt kẻ từng là đối thủ trong suốt ba năm qua! Quá khứ từ những chi tiết đó hiển hiện dồi dào màu sắc, linh động như cuộc sống phải có, là lịch sử người sau muốn thấy, đúng như của một khoa học lịch sử mong muốn đạt tới, xuyên qua sự mai một của thời gian, qua những sửa đổi, gạt bỏ bôi xoá của phe phái.
Một bộ phận khá lớn những ghi chép của Nguyễn Đức Xuyên lại đưa đến một vấn đề quan trọng hơn chuyện tranh chiến cấp thời thường nhật: Đó là các thư từ quan lại (chỉ dụ, lời tâu, báo cáo) giữa chiến trường và trung tâm chỉ huy. Thư viết bằng chữ nôm, bởi vì người ta phải thông báo nhau bằng tiếng nói thường nhật. Đến thế kỉ này thì người ta chắc đã hết tán tụng chuyện Quang Trung nâng đỡ chữ nôm như một sáng tạo độc đáo của vị vua anh hùng xuất thân áo vải cờ đào ố người nào còn khư khư với chân lí đó thì không có thể tranh biện gì được nữa. Lí do xuất hiện của các bản văn chữ nôm thường được coi như là chứng tích thăng tiến của tinh thần dân tộc Việt, nhưng cụ thể hơn, vốn là do tình hình thực tế có quân nhân, tướng sĩ (và thường dân) ít học dưới quyền mà người cầm quyền phải lưu tâm sử dụng đến nó (Hoàng Xuân Hãn).
Tuy nhiên tình hình thực tế này lại có nguyên nhân lớn rộng hơn mà người ta ít nói tới. Đó là do sự mở rộng quyền lực của các vương triều, nên càng lúc càng có một bộ phận lớn người dân nói-tiếng-Việt tham gia vào biến cố. Không phải chỉ chứng cớ nằm trong bản văn thề Lũng Nhai, lời thề với Lê Lai tận trong rừng núi Lam Sơn, cùng với lời truyền của Trịnh Kiểm đã phai lạt dấu vết Thái Lào của thế kỉ XV, XVI mà đã đến tận Đồng Nai, Gia Định, nơi Minh Mạng có nhận xét là dân “ít học” (chữ Hán). Vì vậy thế kỉ tranh chấp Nguyễn Tây Sơn đã khiến xuất hiện nhiều bản văn chữ nôm hơn lúc nào hết.
Với sử gia thì những thư từ qua lại này thật quan trọng không những chỉ vì chúng là bằng cớ đương thời của biến cố mà còn vì chúng đã sử dụng thứ ngôn ngữ thường ngày của thời đại và địa phương nữa. Với phần cuối thế kỉ XVIII qua XIX, L. Cadière đã đưa ra những bức thư của Nguyễn Ánh nhưng chính trong hồi kí của Nguyễn Đức Xuyên này mới có dấu vết nhiều đến ngộp. Người dẫn hồi kí chưa phải làm việc của một chuyên viên Hán Nôm cho nên các tài liệu vẫn còn đó để mở ra một hướng khảo sát, miễn là nhà khảo cứu bỏ được thói quen cố đi tìm những gì thật “xưa”, bớt quanh quẩn ở các công trình kiểu “song viết” tuy có dáng khoa học khảo chứng nghiêm chỉnh nhưng không giấu được tính chất tầm chương trích cú trì trệ còn rơi rớt đâu đó. Quá khứ không phải chỉ của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, cố níu thêm một ông Nguyễn Huệ nông dân cho ra vẻ hiện đại mà sẽ còn là lối nói của người dân thế kỉ XVIII, XIX uốn nắn qua văn từ của ông quan, ông vua để diễn tả tư tưởng biểu hiện tình thế cấp bách trên tầm mức quốc gia đương thời. Điều đó không ít thì nhiều có thể thấy trong các bản văn nôm của Nguyễn Đức Xuyên giữ được vậy.
TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG