- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

“Mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh”

15 Tháng Ba 201412:00 SA(Xem: 36215)


a_hoang_dinh_nam-content

Tháng Ba, nhặt lại một bài viết cũ

Những ngày này, năm Bảy Lăm, tháng Ba, ”Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh”. Đơn vị tôi là một tiểu đoàn Địa Phương Quân (TĐ 497/ ĐP Tiểu Khu Châu Đốc), vẫn trấn đóng trên ngọn 554 thuộc núi Giài, Thất Sơn, Châu Đốc. Bộ Chỉ Huy đặt tại Ba Xoài.


Tháng Ba, nắng và gió đẹp lạ lùng. Tôi vẫn thỉnh thoảng cùng vài người lính kéo nhau xuống chợ Ba Xoài uống café. Ở đây chỉ là một sóc Miên nghèo nàn khô khan, nên quán café duy nhất trong xóm chân núi này cũng chỉ bán cho lính trong Tiểu Đoàn, hay nói đúng hơn, chỉ bán cho đám lính trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và Đại đội Chỉ Huy. Ba đại đội khác không ở gần chợ Ba Xoài.


Ly café đắng nghét, những chiếc cốc cáu bẩn, bụi bặm. Con đường trước quán là một con đường đất duy nhất nối liền những sóc Miên sống ven chân núi Giài, chạy qua xã Ba Chúc, thuộc quận Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc. Ba Chúc, nơi bây giờ vẫn lưu giữ hàng trăm sọ người khi giặc đỏ Ponpot tràn qua tàn sát dân Việt dưới ánh sáng căm thù của chủ nghĩa Mác-Lê. Con đường bụi mù như bất cứ con đường đất nào trên quê hương nghèo khổ và chiến tranh khi một chiếc xe chạy qua hay một cơn gió tốc đến.


Ngồi đây không phải để uống café mà chỉ là ru cơn thèm khát về những chiếc quán xinh xắn nơi thị xã với những dàn máy Akai hiện đại thời bấy giờ. Và với những tình khúc TCS, “ Tình ngỡ đã quên đi nhưng tình bỗng lại về, người ngỡ đã đi xa nhưng người vẫn quanh đây. Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều như từng cơn gió lộng…….” Hay “Mưa vẫn hay mưa trên từng tháp cổ, buổi chiều ngồi ngóng những chuyến xe qua. Trên bước chân em âm thầm lá đổ….”

Vâng tôi ở đây mà hồn ở đâu đâu. Ngồi quán chân núi nhớ quán thị thành. Như bây giờ ngồi quán trên trời nhớ quán dưới đất, quán bây giờ nhớ quán năm xưa. Hồn không cùng với xác, mà hồn bay bổng, tìm về nơi đâu?


Tháng này, mùa mưa đã đi qua. Không còn cái thú nghe mưa trên đá núi, cây xanh. Những ngày mưa không xuống núi được, đành ngồi trong lều uống café nghe mưa lốp đốp trên mái poncho. Những lúc đó, mưa, nghe như từ vạn thuở, và gió, như từ vạn kiếp thổi giá buốt lòng những chàng trai phải rời xa phố thị, đi đến mọi miền đất nước, sống kham khổ chỉ vì sự an ninh của lãnh thổ, vì chiến đấu cho một nền hoà bình của phân nửa nước Việt Nam. Một thời, không đi đến tận cùng vinh quang, nhưng là một thời đầy ý nghĩa. Tháng Ba, thật ra là tháng bắt đầu cho những biển chuyển lịch sử, để rồi từ đó kéo theo vận mệnh vô cùng khốn khổ của cả một miền Nam. Tháng Ba, mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh, đâu ai ngờ chỉ hơn một tháng sau, cả một quân đội sụp đổ mà không do sự chiến đấu hèn nhát nào của binh sĩ.


Những người lính, những người trai gần như quên mình, cận kề cái chết, nhưng hồn vẫn phiêu bồng, hồn nhiên chiến đấu mà dấu thù hận chưa hề làm thành nếp gấp trong tâm hồn họ như những chiến binh Bắc Việt được trang bị bằng máu lửa hận thù với người anh em của họ trong Nam.
Tháng Ba, những người bạn tôi trên MGP này ở mọi nơi trên thế giới, có lẽ đang bắt đầu những hoài niệm về một giai đoạn biến chuyển, để rồi sau đó tháng Tư, đẩy chúng ta tan tác như một bầy chim trong cơn giông bão.


Chúng ta vẫn còn được sống sót để bây giờ ngồi quán trên trời trong khi đó bao người đã bỏ mình dọc những con đường di tản mà lớp lớp thân xác rã mục dưới nắng, mưa. Những đứa trẻ lạc mất cha mẹ. Những người vợ mất chồng, mất con dưới họng súng AK vô tình và lạnh lùng đáng sợ. Những tinh hoa đất nước chôn đời mình trong các trại tập trung cải tạo, kinh tế mới, dưới lòng biển sâu.
Chúng ta vẫn còn bao may mắn.


Mời những bạn tôi, một ly café, uống cho những hoài niệm, cả vui lẫn buồn.


16/03/08 Tháng Ba, có đôi ngày vẫn se sắt lạnh, nhưng Tháng Ba là đã chớm vào Xuân. Cây Đào sau vườn đã đơm hoa tươi thắm. Những cánh hoa thật mong manh, dịu dàng. Tháng Ba. Mất Huế, Đà Nẵng. Nhớ lại hồi ký Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy mà thấy chạnh lòng.


Tôi đã đọc trên báo địa phuơng đăng lại tập hồi ký đầy máu và nước mắt này của Cao Xuân Huy. Đọc một lần và không bao giờ dám nhìn đến lần nữa, bởi những bi thảm không thể tưởng tượng nổi đã được tác giả là người trong cuộc ghi lại. Bàng hoàng, tê tái cõi lòng. Không ngờ cuộc di tản của Quân và dân miền Trung trong Tháng Ba Bảy Lăm đầy bi kịch như vậy. Đọc xong xót thương cho thân phận con người, thấy đau quay quắt cho một quân đội đã một thời anh dũng. Và kinh tởm chiến tranh. Kinh tởm những kẻ đã gây ra cuộc chiến tranh vô cùng không cần thiết, dưới chiêu bài hoàn toàn ngụy lý.


Từ đó, cứ mỗi Tháng Tư, báo chí hay đăng lại những bài viết, tường thuật về cuộc chiến đang hồi kết thúc năm 75, tôi không còn dám đọc nữa.
… Tháng Ba, mọi sinh hoạt vẫn bình thường ở Miền Tây. Những tà áo trắng vẫn tung bay trong nắng xuân, trong sân trường Nữ Trung Học Châu Đốc. Ghe thuyền vẫn tấp nập trên bến sông trước Bưu điện thị xã. Chợ vẫn đông đảo, sầm uất, người người vẫn bình thản làm ăn buôn bán.


Và tôi, vẫn an nhiên tự tại cùng đơn vị trấn đóng trên ngọn 554. Vẫn mỗi sáng cùng vài ba người lính thân cận bày café nước trà trên những mặt đá còn lạnh hơi đêm. Lính tráng chẳng ai theo dõi thời sự. Huế mất, Đà nẵng mất, mà tôi và những người lính chẳng ai buồn biết tới. Chỉ biết rằng nếu vị trí phòng thủ của mình bị tấn công, thì chống trả để tồn tại. Suy nghĩ đơn giản của một người lính chiến là như vậy.
Tháng Ba, những cụm mây trắng lờ lững trên bầu trời trong xanh. Buổi sáng chim vẫn hót líu lo trên cành cây cao. Những cô con gái Miên vẫn thỉnh thoảng lên núi đốn củi. Họ đi thành toán năm bảy người nói cười vui vẻ, cũng e thẹn mắc cỡ khi bị các anh lính trêu ghẹo. Họ cũng như những người lính trấn thủ chúng tôi, không ai quan tâm tới Miền Trung đang hấp hối, và hàng trăm ngàn người di tản vào Sàigòn. Sàigòn thì xa quá với Thất Sơn. Quá xa vùng biên giới với những cánh đồng ngút mắt, với rừng tràm bạt ngàn. Người dân nghèo ở đây, có khi còn chưa bao giờ đặt chân tới Ninh Kiều Cần Thơ, nói chi Sàigòn, nói chi Huế, Đà Nẵng.


Chiến tranh có từ khi mình chưa chào đời, và mình cũng là người nhập cuộc cuộc chơi máu lửa đó, thì chuyện bom đạn có chi là lạ thường. Người lính quả thật cũng xem thường những chuyện mặt trân này đánh, mặt trận kia tan.


Nhưng người lính thật chẳng ngờ chuyện thường tình của chiến tranh đó đã có ngày kết thúc sau đó một tháng. Một kết thúc đầy bi phẫn. 18/03/08 Tháng Ba, những ngày nắng đẹp, cây lá xanh tươi. Những người lính thay phiên nhau xin dù vài ngày về thăm nhà, thăm vợ con. Quê nhà của họ cũng chẳng đâu xa, ở ngay trong tỉnh. Họ xuống núi rồi từ chân núi, băng qua cánh đồng lúa nhỏ có những mô đất, có những bụi rậm xen lẫn với những cây thốt nốt vươn cao. Men theo bờ ruộng, ra tới đường lộ đất, sẽ có xe Honda ôm chạy về tới nhà. Nếu xa hơn, họ có thể đón xe đò Chi Lăng -Châu Đốc để về thị xã. Rồi họ qua phà Châu Giang về Tân Châu, Hoà Hảo, …. Tôi yêu họ, những người thanh niên nông dân hiền hòa. Họ, có người đã có vợ con, cũng mơ một mái ấm gia đình hạnh phúc, nhưng vì chiến tranh, họ cũng phải gia nhập quân đội. Tuy nhiên họ cố chọn một con đường dễ đi nhất, là đi lính cho địa phương của họ, để tháng tháng họ xin dù về nhà, có khi chỉ 24 giờ hú hí với vợ trẻ, để nựng nịu con thơ. Tôi thường qua mặt cấp trên, giấu diếm cho họ chuồn về nhà. Đôi khi tôi cũng bị cấp trên quở la vì chuyện này. Nhưng tôi thật sự không buồn phiền.


Đôi khi, được thông báo, tình hình nghiêm trọng, hay có thanh tra, phải từ chối sự xin xỏ của họ, tôi thật cũng không vui. Tôi chỉ là sĩ quan chỉ huy nhỏ nhất, và gần gũi nhất của họ, người chỉ có thẩm quyền cho họ đi phép miệng, nghĩa là không có giấy phép cho họ cầm tay. Nhưng họ cũng chỉ mong có vậy thôi, xin và được trung đội trưởng cho phép kèm theo câu thòng, nhớ trở về đúng hẹn, là họ vui lắm rồi. Còn tôi, không có nhu cầu như họ, tôi thèm về thành phố thị xã chỉ là để đi uống café, nghe nhạc. Thành phố Châu Đốc, thuộc loại đi dăm phút đã về chốn cũ, chỉ có dăm quán café nhạc đáng để ngồi. Tôi và bạn bè cũng là lính, thường đến quán Thanh Hà, bên hông chợ Châu Đốc, ngồi hàng giờ, nghe hết băng nhạc nầy đến băng nhạc khác.Tôi cũng không có thói quen gợi chuyện với cô hàng café xinh xắn kia mà chỉ thích ngồi quay lưng lại quầy nhìn ra đường. Con đường với những chiếc xe lôi đạp, xe lôi gắn máy và người qua lại lúc nào đông đúc.Tôi luôn có cảm giác bình yên, thanh bình. Chiến tranh dường như chưa bao giờ làm thị dân xôn xao. Những tin tức di tản Vùng 2, Đà Nẵng, Huế cũng không làm ai bận tâm. Tôi nhìn về hướng núi Giài Thất Sơn, nơi trung đội của tôi với những người lính thân yêu đang chờ tôi về, thật mịt mờ xa xăm. Những người lính của tôi, không có tôi, dưới quyền của ông trung sĩ trung đội phó, họ vẫn biết phải canh gác như thế nào, tối đến họ biết phải mang mìn Claymore gài chung quanh vị trí phòng thủ như thế nào, và sáng ra đi thu gỡ lại như thế nào. Tháng Ba, về thị xã, tôi lang thang một mình, nhưng không tìm đến T.N. cô nữ sinh vẫn viết thư cho tôi đều đều, vẫn màu mựt tím trên giấy học trò, vẫn gọi tôi bằng ông và xưng nhỏ, vẫn ngày hai buổi cắp sách đến Nữ Trung Học Châu Đốc, vẫn tâm sự rằng thỉnh thoảng cô bị thầy ném phấn vì lơ đãng trong khi ghe giảng. Tôi vẫn nhận thư và viết thư cho cô. Đôi khi cô gửi kèm theo thư những con tem vì sợ trên núi tôi không có tem để gửi thư cho cô. Tháng Ba, về thị xã, vào hậu cứ Tiểu Đoàn, tình cờ thấy thư của cô. Thư chưa kịp chuyển vào tiền cứ cho tôi. Trong thư, kèm theo một cặp hoa mai thêu trên vải, đó là cặp lon thiếu úy cô tặng tôi để may lên cổ áo lính, khi tôi thăng cấp thiếu úy đương nhiên thực thụ vào Tháng Giêng và quyết định từ Tổng Tham Mưu về từ tháng Hai. Tháng Ba, gần một năm thư từ với nhau, nhưng tôi vẫn chưa bao giờ gặp người nữ sinh đã viết thư trước cho tôi. Cô nói trong thư là cô tình cờ thấy tôi đâu đó trên phố, rồi nhìn phù hiệu mà cô biết được Đơn vị và dĩ nhiên biết được KBC không khó. Trong một lá thư, cô cho biết cô 16 tuổi, học lớp 9 Nữ Trung Học Châu Đốc, ngôi trường rất gần nơi tôi đi, về trong cái thị xã bé nhỏ này.


Tôi vẫn gọi cô là nhỏ, xưng tôi. Nếu tôi muốn biết cô là ai, chỉ việc vào thẳng nhà cô, cũng rất gần nhà một người bạn tôi, nhưng tôi muốn để dịp đó hoàn toàn cho một tình cờ đưa đẩy. Tôi vẫn đi về cái thành phố thị xã nhỏ bé hiền hoà đáng yêu đó không như một khách lạ, cũng không như một khách quen, từ gần 2 năm rồi . Vẫn nhìn chiếc bắc qua lại sông Tiền Giang đưa người qua Tân Châu, Hồng Ngự. Vẫn nhìn cảnh rộn rịp ghe thuyền trên bến sông với tình cảm đậm đà dành cho cư dân miền sông nước. Nhưng tôi không tìm đến em.

“Thành phố đó tôi đi về bao bận
Nhìn Tiền Giang ngày nước lớn nước ròng
Nhưng chinh chiến mấy ai tròn ước hẹn
Em bao giờ mới hiểu được tình sông?”

Có bao giờ em hiểu được, như con sông đi mãi không về, thì tình trong thời chinh chiến tự ngàn xưa đã cổ lai chinh chiến kỹ nhân hồi.
HĐN





Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 32167)
...toàn cảnh các quốc gia trong lưu vực Sông Mekong từ Trung Quốc xuống tới Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam cho dù mang những tên gọi khác nhau nhưng đó vẫn là những đất nước chưa có dân chủ, vẫn là những “xã hội hình tháp – social pyramid” nói theo ngôn từ của nhà xã hội học Miến Kyaw Nyein, với đỉnh tháp là thiểu số thống trị và dưới đáy vẫn là đa số những người dân nghèo khổ bị khai thác và bóc lột.
16 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 32047)
t ôi thấy có sự màu mè giả dối những đóa ny-lon bày tràn đìa ngoài chợ bức bình phong bận đại cán ngay đơ gỗ que loe ngoe chòm râu tủm tỉm cười trên đầu trẻ thơ những tấm vé số say xỉn mua giùm mua giùm đi đất nước tôi sắp sửa trúng xịn lô hàng giát vàng giát bạc
15 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 32733)
Ô ng vẫn ngồi im như bức tượng đồng nguyên thủ. Cháu liếc ngang nhìn ông. Ông có vẽ anh hùng chán mà chẳng được phong anh hùng. Cái kháng chiến trường kỳ của đời ông được ghi lại trong một cuốn sách với hai mươi lần nhắc tên ông. Bây giờ cuốn sách đó vẫn nằm ở đầu giường cháu. Tên ông được nhắc vào những trang nào với công trạng gì cháu thuộc lầu lầu hết.
15 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 33076)
E m là bờ môi không biết nói dối Là nỗi thầm kín tôi Là lời ru rớt nhẹ vào tim Là dịu dàng và tế nhị
09 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 35199)
- Chú nói mai em phải đi trường, vậy mai đi nha! Thằng bé không đáp, giương mắt nhìn tôi như nó đang cố đọc trong mắt tôi những gì tôi nghĩ. Tôi cũng tìm trong ánh mắt nó ý nghĩ của nó nhưng chịu, không tài nào tìm được, không biết nó nghĩ gì, muốn gì, chỉ biết nó không muốn đến trường. Nó ở nhà một mình đã mấy ngày nay trong khi chị nó phải đi làm.
07 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 36232)
Mưa có về ngang qua phố Má không? Ở đây cứ tầm chiều con nghe đất trời hoang hoải Tháng 7 mùa Ngâu Mưa lên mắt con màu dĩ vãng
07 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 34272)
e m ơi chiều đã lưng đồi mà cây xế bóng còn ngoi giữa rừng khi nào trăng thệ rưng rưng ngấn mi cho một cuộc tình đã xa trăm năm. ừ. trăm năm là mây bay dưới trán tóc xòa viễn khơi
07 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 33754)
Tháng 6, khi những cơn gió Lào khô rốc từ Vịnh Bengan thổi vào dãy Trường Sơn đem hơi nóng ngùn ngụt lửa phả vào mặt, đó là lúc các tin buồn tới tấp bay về bên tôi. Từng người, từng người bạn thay nhau giã từ cuộc chơi. Cái nóng hực lửa bên ngoài, và cái nóng trong lòng tôi ngày một dâng cao. ..Mới tuần trước thôi, anh Nguyễn Xuân Hoàng vẫn còn email trả lời, anh nói bài viết này anh thích quá cho anh post trên Voa đi, tôi còn đùa anh mệt như vậy mà vẫn còn làm việc sao, tùy anh thôi...
04 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 34273)
đến một lúc nào đó em quên hoặc nhớ nhầm hôm nay đã ngồi bên lề đường để thương về những hạt bụi thì hương bay cũng quyện lại dấu ngày
03 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 35960)
Em đã ra đi trong một sáng chủ nhật trời mưa vĩ cầm lanh canh giấc ngủ thậm chí một tiếng giã từ anh còn chưa thổ lộ mùa mưa lấm lem chiều không xanh trên gió.