- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Máu chảy về tim

22 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 35048)


illustration-oil-dtc-content

 (Illustration- tranh sơn dầu- Đinh Trường Chinh)


Tôi bặt tin em đã gần chục năm. Lần cuối gặp nhau, tôi quay lưng dấu cái thổn thức, ê chề của một thằng đàn ông mới lớn bị tước lột tình yêu, lẽ sống. Từ đó đến nay, vết thương ngày càng sâu, khiến tôi thụt đầu vào mai sống khép kín, lặng lờ. Cố gắng dỗ dành cho máu bớt dồn về tim. Không tin. Không yêu. Sống dật dờ cho qua ngày qua tháng.

Chiều nay, nói chuyện với bé Nhạn xong, tim tôi trật nhịp. Buông điện thoại xuống, tôi vớ vội cái túi bỏ vào hai bộ quần áo, vài thứ vật dụng cá nhân, rồi lật đật đón xe ra phi trường, lấy chuyến bay sớm nhất về San Diego. Thành phố vào thu, chiều buông ánh vàng trên những tàn lá đổi màu. Xe băng qua những con đường hun hút, trơ trụi. Mặt trời đỏ mới đó vắt vẻo sau lùm cây đã sà xuống xuyên vào da, vào thịt, chui vào đun nóng phần hồn tưởng đã phần nào được dỗ yên. 

* * *

Trong cùng một không gian tương tự, hơn một chục năm trước, cũng trong tia nắng chiều vàng khi xe lăn bánh băng đèo ngang Lâm Đồng, chính ánh mắt em đã dọi vào da, tràn vào máu, buột chặt linh hồn tôi. Thời đó, chúng tôi một nhóm học sinh, sinh viên cùng với thầy Quang, cô Thanh theo xe bus lên Đà Lạt sinh hoạt. Chiếc xe bus bé xíu nhét không biết bao nhiêu mạng, ngột ngạt đầy mùi xăng dầu, mùi mồ hôi người, mùi phân bón… Xe chạy bon bon vượt những con đường ngoằn nghèo đầy ổ gà. Vài người bạn lớp 12, cô Thanh và tôi ngồi ở cuối xe lo cho đám học trò lớp sáu, lớp bảy, rồi đến các em lớp 8, lớp 9. Ngồi khoảng giữa xe là nhóm học sinh lớp 10, lớp 11, trong đó có em ngồi kế cạnh thầy Quang. Đôi chân tê liệt của thầy bất động. Người thầy nặng chịch. Thân hình Thầy chiếm gần hết mặt ghế. Tôi xót bụng thấy em ngồi nhín người. Mỗi khi xe dằn mạnh, tôi nín thở chỉ sợ em rớt ra khỏi ghế.

Mặt thầy Quang trắng nhợt. Mặt em xanh như tàu lá. Thỉnh thoảng em vươn chiếc cổ gầy hướng ra phía cửa sổ xe như cố tìm hít chút không khí tưởng tượng. Đường đèo ghập ghềnh đến quặn thắt. Đã có lúc tôi tưởng em không thể kham nổi. Tôi thấy em cúi xuống mở túi xách lấy khăn. Em cẩn thận mở chai dầu xả rắc vào khăn ướt, rồi một tay nâng đầu Thầy, một tay nhẹ nhàng lau khuôn mặt tái nhợt đổ mồ hôi hột của thầy. Thấy Thầy tỉnh táo hơn, em như hoàn toàn phục sức. Mắt em chan chứa cái nhìn của đứa con trìu mến nhìn ông Bố, và cũng mạnh mẽ, dào dạt như người mẹ âu yếm đứa con thơ. Tất cả chúng tôi đều yêu Thầy. Nhưng nhìn trong mắt em, tôi thấy tình yêu tôi bé nhỏ. Trong khi lòng tôi chỉ muốn gào lớn tôi yêu em nhiều hơn con đường đèo, nhiều hơn hàng thông xanh, nhiều hơn cả bầu trời đầy những cụm mây ửng tím đang phủ kín ngọn đồi.

Vào những năm đầu thập niên 80, chúng tôi lũ học sinh thành phần con Mỹ Nguỵ cũng phần nào ổn định đời sống trường lớp trở lại. Lớp nào bị tống ra khỏi Sài Gòn đã hoàn toàn mất tích. Lớp còn lại rồi cũng quen dần với cuộc đổi đời, trở lại với sinh hoạt học hành, trường lớp. Một số Thầy Cô Giáo thời xưa dạy các môn toán lý hoá còn được giữ lại, vì các chị em dân quân được cách mạng hoá phép trở thành hiệu trưởng, hiệu phó, thầy cô giáo chỉ kiêm nỗi việc giảng dạy các bộ môn đạo đức, chính trị, địa lý, lịch sử v.v… Cách mạng “khoan dung” nhường lại các bộ môn cần kiến thức, kỹ năng thật sự cho một số giáo viên “mỹ nguỵ”. Cô Thanh, Thầy Ẩn, Thầy Quang thuộc về thành phần này. Cô Thanh dạy vật lý lớp 6,7,8 trường Võ Trường Toản. Thầy Ẩn chồng Cô Thanh dạy Chuyên Toán Lê Hồng Phong. Thầy Quang em trai cô thời xưa dạy triết, sau này dạy môn hình học. Những năm gần đây Thầy bệnh liệt hoàn toàn hai chân, nên học sinh thường tụ tập lại ở căn nhà trệt nhỏ xíu của Thầy Cô cùng học, cùng sinh hoạt.

Thầy Quang nằm trên giường bệnh đã hơn 2 năm nay, dạy cho đám học sinh do cô Thanh đem về. Toàn là các con em Mỹ Nguỵ. Gia đình ai cũng có cha học tập cải tạo, mẹ bị chính quyền gây khó quấy nhiễu. Ai cũng khó khăn không có tiền đóng học phí. Các em đều nghèo như nhau, chỉ giàu ở mỗi cái gốc gia thế mà cô Thanh thường nói đó chính là gia sản quý báu để xây dựng lại tương lai đất nước sau này.

Thầy Quang còn rất trẻ, năm 78, Thầy bị Việt Cộng bắt nhốt liệt vào lớp kẻ thù chính trị và kẻ thù tư tưởng. Khi thầy được thả về nhà, phổi thầy đầy chất nước vàng, miệng khạc ra từng ngụm máu đỏ. Cô Thanh chăm sóc chữa trị cho Thầy, nhưng hai chân bị cùm lâu năm của Thầy trở nên tê liệt. Nhà tôi trong căn hẻm nhỏ, đối diện nhà Thầy. Tuy tôi không có duyên làm học trò trong lớp của Thầy Ẩn hay Cô Thanh, nhưng tôi ghiền ngồi ở góc nhà một tuần hai buổi chiều nghe thầy Quang ngồi dựa lưng trên tấm phảng gỗ giảng giải và đọc cho chúng tôi nghe những cuốn sách văn chương thầy thuộc lòng trong đầu. Trong căn phòng bé xíu nóng như thiu đốt ở sát chợ Tân Định, chúng tôi ngồi yên, nín thở lắng nghe, nuốt vội từng lời của thầy. Bọn chúng tôi một sàn từ lớp 11 trở lên. Lớp tuổi của mộng mơ, say mê, tìm tòi. Lớp tuổi giàu chí hướng, khát khao, đầy tin yêu vào cuộc đời.

Tôi cũng không có tiền góp học phí, nên tôi trả lễ bằng cách giúp thầy Quang dạy toán, dạy lý cho các em nhỏ lớp bảy, lớp tám. Nhờ đó tôi được gặp em. Ngày cô Thanh đưa em vào nhóm dạy kèm của tôi, em nói, em cần học vật lý và hình học. Em đi vượt biên về, nhảy từ lớp sáu lên lớp tám, mất căn bản, cần học gấp rút chương trình một năm lớp bảy trong vài tuần. Tôi phì cười trả lời, được rồi, tôi sẽ dạy cho em, nhưng không phải là vài tuần, mà sẽ là vài tháng… Em chớp mắt quả quyết nhìn tôi nói em không có thì giờ, buổi sáng đi học, buổi chiều em phải lo phụ mẹ buôn bán, rồi phải chăn 4 đứa em nghịch phá, làm sao có vài tháng đi học. Tôi nói đùa, thì tuỳ vào trí thông minh của em hết.

Đúng bốn tuần, em cảm ơn tôi và từ giã các bạn học trong nhóm. Cô Thanh cho tôi biết em đứng đầu lớp trong đợt thi vật lý vừa rồi. Tôi nửa vui, nửa buồn, nhìn em chào tạm biệt mà lòng thấy lòng hụt hẫng. Em dắt xe đạp quay ra, tôi tiễn em đến đầu ngõ, hỏi bâng quơ, em thích đọc sách không, tôi cho em mượn. Em quay ngược đầu xe vào nhà tôi ngồi lì mấy tiếng đồng hồ quên cả giờ về. Em tham lam lựa một chồng cao không bưng nỗi. Tôi mượn cớ đạp xe theo giúp em chở sách về nhà. Trên đường về, em giải thích, nhà em thuộc thành phần văn hoá đồi truỵ phản động, công an ghé thăm đều đều nên có cuốn sách nào là bị tịch thu cuốn đó. Có lần Mẹ em nổi giận gom sách vở đốt hết để khỏi bị tịch thu nữa.

Ngày hôm sau, em gõ cửa nhà tôi trả lại cuốn sách đầu tiên. Tôi rủ em sang nghe Thầy Quang đọc sách, từ đó, em không bao giờ vắng mặt tuần hai lần ngồi cùng tôi ở góc nhà Thầy. Cả bọn toàn là các anh chị lớp 11, 12, em vừa vào lớp tám, bé xíu, nhưng Thầy giảng đến đâu em thông đến đó. Em có trí nhớ đặc biệt như Thầy, em nhớ thuộc lòng từng đoạn văn, bài thơ, từng cuốn sách. Thỉnh thoảng thấy Thầy mệt, em tình nguyện đọc thơ thế Thầy. Tôi sống hạnh phúc nhất một tuần hai lần khi ngồi nghe Thầy giảng có bóng em bên cạnh. Khi em không hiểu, em liếc sang tôi giả bộ mặt ngơ ngác. Tôi cũng tức thì đóng vai chú cuội ngu ngơ. Khi em đắc ý lời thầy, em nhìn sang tôi nheo mắt cười. Tôi nghe lòng reo ngàn nốt nhạc. Có lần em thì thầm nói với tôi, em yêu Thầy hơn yêu những cuốn sách, những bài thơ, lý thuyết Thầy giảng, tôi chạnh lòng tự hỏi em có biết tôi yêu em hơn tôi yêu thầy.

Em bước vào năm cuối trung học, tôi vào năm thứ ba đại học bách khoa. Ngoài giờ ở trường, chúng tôi sống, học hành, sinh hoạt bên nhau, gắn bó riêng và gắn bó chung dưới mái nhà của cô Thanh. Thầy Quang ngày càng yếu dần, cô Thanh và chúng tôi muốn có một thời gian riêng biệt với thầy, nên tổ chức cho cả nhóm đi Đà Lạt. Tôi mừng thầm trong bụng, tôi nhất định sẽ dựa vào phong cảnh trữ tình của phố núi này để ngỏ lời tỏ tình với em.

Xe băng băng trên đường quốc lộ 20, vượt đèo Prenn rồi rẽ trái đường Trần Hưng Đạo, tiến sâu vào lòng thung lũng. Đêm trong vắt chằng chịt sao trời. Sau khi thả hết hành khách ở khu chợ Đà Lạt, xe đưa chúng tôi lên một khu đồi tối vắng, ngả rẻ ngoằn nghèo. Xe đỗ lại nơi có căn biệt thự cũ kỷ, nằm chèo queo trơ trụi trên đỉnh ngọn đồi đìu hiu hút gió. Chúng tôi xúm lại giúp đỡ thầy Quang xuống. Và lăn xe đưa Thầy vào nhà.

Cả bọn mệt nhoài. Ai cũng tự tìm chỗ thay đồ, cất hành lý, tìm chỗ nghỉ ngơi. Một ngày đi đường là quá sức chịu đựng của Thầy. Mặt thầy tái mét, da lạnh ngắt, người run lên từng hồi. Em rủ tôi xuống hầm tìm củi đốt lò sưởi cho Thầy. Trong khi tôi nhen lửa, em vào bếp đun nước, pha trà, nấu cháo. Các bạn cùng lớp với em thay đồ vào phòng nghỉ ngơi, em nhất định trải chiếu ngồi bên cạnh cái tràng kỹ phòng ngoài nơi sẽ là giường ngủ của Thầy. Nhìn ra cửa sổ, những bóng đen chằn chịt lượn qua lượn lại theo tàn lá gió đưa, em chỉ tay bảo chỗ của tôi là ở kế bên em cạnh cửa sổ. Rồi yên tâm có tôi bên cạnh, em lăng xăng đút cháo, dâng trà, mắt em không rời Thầy một phút.

Đêm xuống, khi chắc là Thầy đã ngủ yên, em rụng xuống ngủ say như chết. Tôi nằm cạnh bên em, nghe hàng thông già lao xao tán tỉnh. Lần đầu tiên máu huyết trong người tôi rần rật chảy. Tai tôi nghe tiếng gió hú từng hồi. Mắt tôi sợ hãi nhìn ánh trăng sà xuống vuốt ve khuôn mặt sáng ngời trong giấc ngủ bình yên của em. Tôi thức trắng đêm cố gắng tự kiềm chế cái cảm giác lạ kỳ đang hung hăng xâm chiếm, tràn ngập.

Những ngày sau đó, Thầy Quang có vẻ khoẻ hơn, vui vẻ hơn. Chúng tôi chia ra từng nhóm sinh hoạt, em lúc nào cũng một tay nắm chặt tay tôi, một bên đeo sát Thầy. Buổi chiều cuối cùng, sau 2 tuần đọc cho chúng tôi nghe những đoạn chính trong Những Người Khốn Khổ, Thầy dựa lưng vào ghế, nói Thầy muốn được xem đám học trò diễn lại một đoạn trong câu chuyện. Ai cũng lắc đầu, le lưỡi. Em nhanh nhẹn đứng dậy đạo diễn mọi người, rồi em đóng vai nàng Fantine vào những giờ phút cuối đời. Bắt tôi một bên làm Jean Valijean nhìn em từ giã cõi đời.

Thầy Quang qua đời ba ngày sau khi từ Đà Lạt trở về. Em như người mất trí. Khi quan tài hạ huyệt, em lao người xuống theo Thầy. Tôi ghì giữ chặt em trong tay. Người em không còn chút sinh lực, lao lên rồi ngả xuống như sợi dây đàn bị căng đứt. Sau đó, em bỏ ăn bỏ học, bỏ cả những sinh hoạt thường ngày. Em không nói, không cười, cũng không muốn gặp ai. Có khi em trông lạ lẫm, xa vắng. Có khi em quấn quít, lẽo đẽo đeo tôi từng bước không rời. Tôi và Cô Thanh tìm cách đưa em trở lại cuộc sống bình thường. Chúng tôi nhờ em thay thế Thầy dạy nhóm Việt Văn. Em gật đầu.

Ngày đầu tiên em ngồi tay không dựa tường, trông em hệt như hiện sinh của Thầy. Em chậm rãi đọc thuộc lòng đoạn truyện “Người Cầm Quyền Khôi Phục Uy Quyền” của Victor Hugo Thầy vừa đọc cho chúng tôi nghe đôi tuần trước ở Đà Lạt. Giọng em nhẹ bổng, đứt quãng. Đọc đến đoạn “Chúng ta ai cũng cùng một bà mẹ: đất. Người ta trả Fantine lại cho bà mẹ ấy…”, em nghẹn lời, giải tán cả nhóm, rồi em phóng xe ra ngoài. Tôi chạy theo em dỗ dành, em theo tôi về nhà. Em khóc cả buổi chiều, tối đến em mệt lả ngủ trên giường của tôi.

Khi ánh trăng leo song dọi vào phòng, tôi thấy em tỉnh táo. Mắt em sáng nhìn tôi quả quyết nói em yêu tôi. Rồi em ôm chặt như sợ tôi biến mất. Tôi say sưa với tình yêu, không phân biệt được mình đang mê hay tỉnh. Em cuốn quít, tan vào trong tôi. Trong đêm thơm nồng, chúng tôi tan trong nhau như trăng tan trong nước.

Tôi mất em từ đêm trăng đó. Hôm giỗ 49 ngày của Thầy, tôi trông mãi, chỉ thấy bé Nhạn, đứa em kế của em đến đặt hoa trên bàn thờ của Thầy. Không bao lâu sau, cô Thanh báo tin em lấy chồng. Ngày cuối cùng tôi gặp em là ngày em lên xe hoa. Sài Gòn mùa nắng khô đến cháy họng, tôi nuốt xuống chút cảm xúc mặn chát còn lại, nhìn em xa lạ trong chiếc áo trắng. Mặt em vô cảm nhìn tôi. Nhưng trong đôi mắt sâu thẳm quen thuộc, tôi bắt gặp cái nhìn tuyệt vọng, hệt như ánh mắt em vĩnh biệt Thầy Quang ngày nào. Tôi quay lưng. Đi mãi. Đi hoài. Chẳng biết đi đâu. Về đâu. Chỉ biết cuộc đời mình từ nay sẽ mãi là chuyến tàu đêm. Không có bến đỗ.

* * *

Tôi đặt chân xuống San Diego dưới màn trời u ám. Gió rít từng cơn gọi bão. Những lằn mây vần vũ, khúc xám xịt, khúc đỏ rực, từng cụm, từng mảng, thịnh nộ kéo về phủ kín một bầu trời đè nặng trên đầu. Xe ngừng ở bệnh viện UC San Diego. Nhạn đón tôi ở cửa. Lượt qua tình hình sức khoẻ của em, rồi Nhạn đưa tôi vào một căn phòng ở khu tim mạch. Em nằm yên, ngước nhìn tôi với cặp mắt sâu hóm. Em mở vòng tay… tôi ôm ghì lấy em như đứa trẻ lạc tìm ra mẹ.

Chúng tôi quấn quít bên nhau như chưa hề xa cách. Em luồn tay trong tóc tôi vuốt ve. Mặt em sát mặt tôi. Mắt em âu yếm. Tôi nghe em thở mạnh, hít từng hơi dài, như thể đang cố tìm lại hương vị xưa cũ. Tôi ở lại bệnh viện. Trời đêm không trăng sao. Không gian dày đặc ký ức. Em không ngủ, nhưng hơi thở từ từ yếu dần. Tôi giữ chặt em trong tay, nghe bóng đêm rình rập.

Sáng hôm sau, Nhạn đưa bé An, con gái em vào thăm mẹ. Đứa bé gái độ chừng 10 tuổi nhìn tôi chằm chằm. Em nắm tay bé An. Rồi nắm tay tôi. Nụ cười mãn nguyện hiện trên khoé mắt. Tay em bóp chặt tay tôi, như thể muốn nói điều gì. Ngay trong khoảnh khắc đó, tôi gặp lại cái nhìn chan chứa tình yêu trong mắt em, như ánh mắt chan chứa mây trời buổi chiều xe đò băng ngang ngọn đèo ngày nào. Em thầm thì trút vào tai tôi lời cuối: “Anh có biết là, em yêu anh hơn yêu Thầy.”

Giờ đưa tiễn em, trời đất mủi lòng rải xuống những giọt mưa thu, làm dậy lên mùi đất tươi xen mùi cây lá. Gió đưa mùi hương cỏ dại. Tôi nghe mùi hương ký ức đêm trăng ngày xưa. Quan tài hạ xuống, gió tung cơn bụi mù cùng đám lá vàng. Tôi nhìn bé An níu chặt tay cô Nhạn, chợt nghe máu ấm trong tim. Tôi cuối hỏi Nhạn, Bé An sinh ngày nào. Rồi tôi lẩm nhấm đếm ngày, đếm tháng…

NGUYÊN YÊN

 

(*) Bài đăng trên Hợp Lưu với sự đồng ý của tác giả

Và bài đã được đăng lần đầu ở damau.org (27-11-2012)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 105207)
D ưới tiểu tựa Vài Vấn Nạn Lịch Sử Thế Kỷ XX, tác giả đưa ra hai vấn nạn từng bị xuyên tạc trầm trọng bởi các hệ thống tuyên truyền của nhiều hơn vài ba thế lực chính trị. Vấn nạn thứ nhất là vai trò nhà ngoại giao của ông Hồ Chí Minh (1892-1969), Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ 1945 tới 1969, trong giai đoạn 1945-1946, một giai đoạn cực kỳ quan trọng cho sự sống còn của nhà nước Việt Nam hiện nay [...] Vấn nạn thứ hai là cuộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, trên bối cảnh liên hệ ngày một xấu đi giữa Bộ Ngoại Giao Mỹ và chính phủ Ngô Đình Diệm trong hai năm 1962-1963...
16 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 88638)
H iệp ước sơ bộ 6/3/1946 [Convention priliminaire de 6 mars 1946] là văn kiện ngoại giao đầu tiên ký giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] với đại diện Cộng Hòa Pháp tại Đông Dương, qua trung gian chính phủ Trùng Khánh. Mặc dù chỉ có tính cách tạm thời, văn kiện này công nhận sự hiện hữu của VNDCCH. Nó chính thức cải biến, nói theo các viên chức Bri-tên và Pháp, một thực thể chính trị “sinh ra trong hỗn loạn” thành một chính phủ lâm thời, của một “nước tự do” [un état libre] “có quốc hội, quân đội, tài chính và ngoại giao riêng,” nằm trong Liên Bang Đông Dương và Khối Liên Hiệp Pháp.( 1)
15 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 101216)
N hạc sĩ Phạm Duy có cái nhìn xuyên suốt, không rào cản so với nhạc sĩ cùng thời. Người lắng nghe giao thoa những tiến triển nền âm nhạc Việt so với thế giới từ những năm 1930 cho đến nay.Từ cái bắt gặp đầu tiên trên bộ đồ bà ba xanh, đôi mắt sáng trên vành tai thính âm tài hoa ấy. Nhạc sĩ Phạm Duy chợt cười, nụ cười nhéo mắt luôn điểm lại con người ấy từng nốt nhạc vượt không gian thời gian. Hồn nhiên Phạm Duy cười nói: : “Tôi có hai con mắt, một con trái mắt tỉnh tảo thực tế với dòng đời. Và mắt phải luôn làm việc sáng tạo.” Cuộc phỏng vấn sau đây ghi lại một vài nét về cuộc đời nhạc sĩ Phạm Duy với thế hệ trẻ tại Việt Nam đang muốn cùng ông bày tỏ tâm sự.
14 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 96181)
T rong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết có bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89117)
T rần Hoài Thư đến với văn chương rất sớm, sớm hơn truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1965. Và nếu phân chia các giai đoạn văn học miền Nam theo cách của Võ Phiến (xem Văn Học Miền Nam, tập tổng quan, nxb Văn Nghệ, Hoa Kỳ 2000) thì Trần Hoài Thư được xếp vào ( Những Cây Bút Trẻ , theo cách gọi thời đó) giai đoạn 1964-1975 giai đoạn mà chiến cuộc bắt đầu bùng nổ dữ dội.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 118416)
Đ ó là Tetbury, một thành phố thơ mộng nằm về phía nam Luân Đôn khoảng 200 cây số (?).Tôi chỉ nhớ phải mất ba giờ lái xe để đến nơi. Thành phố nhỏ, những con đường dốc, hẹp. Nhà với mái xuôi nhọn hoắt, nằm liền nhau, phần lớn mở shop bày bán đồ cổ, quán ăn uống, tiệm cà phê.
08 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 104922)
... k ể từ hôm nay(Oct 8-2011) , người ta không còn mua vi cá ở California được nữa. Thống Đốc tiểu bang California đã ký ban hành luật cấm thủ đắc và bán vi cá nhập cảng vào California. Trong bản tuyên bố sau khi ký ban hành luật, Thống Đốc Jerry Brown nói rằng việc cắt những vi của những con cá mập còn sống và ném thân chúng xuống biển không những là hành động tàn bạo mà còn làm ô nhiễm nước biển.
07 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 103213)
T in Stockholm - Thi sĩ Tomas Transtromer của Thụy Điển đã được chọn trao giải Nobel Văn chương. Đây là lần đầu tiên trong vòng 30 năm giải Nobel Văn chương được trao cho một người Bắc Âu.
07 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 112342)
T in Stockholm – Thi sĩ nổi tiếng Tomas Transtromer đã được chọn trao giải Nobel Văn chương sau khi bị đứt mạch máu não cách nay 20 năm. Tai biến đã làm giới hạn khả năng nói chuyện của thi sĩ, nhưng không làm giảm khả năng viết lách.
07 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 98284)
K hi đánh giá về ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tác giả đã đẩy ngôn ngữ bình dân lên ngôn ngữ bác học. Nhận định này đã gián tiếp phân cấp ngôn ngữ ca dao hò vè với ngôn ngữ thơ.