- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

CHIÊM NGHIỆM TỪ ” ĐỔ TIẾNG CHUÔNG CHÙA” CỦA NHÀ VĂN VŨ ĐẢM

23 Tháng Tư 201312:00 SA(Xem: 51484)


bia_do_tieng_chuong_chua-content


Nhà văn VŨ ĐẢM vừa cho ra mắt tập truyện ngắn” Đổ tiếng chuông chùa” do NXB Thanh Niên ấn hành năm 2013. Tập truyện gồm 10 truyện ngắn đề cập đến nhân tình thế thái trong cái thời cuộc đang đầy biến động hiện nay. Không chỉ cái truyện ngắn” Đổ tiếng chuông chùa” lấy tên cho cả tập mà trong mỗi truyện, đọc xong ta như thấy ngân lên một hồi chuông do ai đó thỉnh lên để ta lắng nghe, chiêm nghiệm, lại như chính ta muốn thỉnh lên một hồi chuông để thức tỉnh chính ta.

 Ra ngõ gặp ba người, một truyện ngắn vừa đạt giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Báo Sài Gòn giải phóng và Hội nhà văn TP.HCM tổ chức năm 2012, truyện khá ngắn nhưng tư tưởng và tính triết luận lại ngân cao. Hạ Văn là một trí thức, đọc cả một bồ sách và cho rằng ta đây hiểu cái đạo ở đời, muốn giúp đời những điều to tát nhưng đời lại không hiểu mình nên suốt ngày chỉ chúi đầu vào đọc sách giải khuây, bỏ cả việc làm, bỏ cả chuyện vợ con. Rồi một ngày Hạ văn đi ra ngoài tìm thầy theo lời dạy của Khổng Tử, trong ba người gặp ngoài đường thế nào cũng có một người gặp ta. Hạ Văn đi, lúc đầu gặp một ông giáo sư, ông bảo có thể làm thầy Hạ Văn bằng cách hướng dẫn Hạ Văn làm luận án tiến sĩ; làm bằng tài năng sẽ thành nhà khoa học nhưng làm khoa học thì nghèo nên Hà Văn không theo. Còn làm tiến sĩ bằng tiền thì thể làm quan to nhưng làm quan mà dốt nát thì phải quỵ lụy ươn hèn nên Hạ Văn bỏ đi, không theo. Rồi Hạ Văn gặp một doanh nhân, bảo có thể làm thầy Hạ Văn bằng cách dạy cho Hạ Văn trở thành doanh nhân bằng nghệ thuật bán hàng, nói thách cao nhưng giảm giá lớn thì dân sẽ tham rẻ mà mua. Hạ Văn cho là lừa đảo nên bỏ đi. Rồi Hạ Văn về vùng quê, thấy cảnh sông nước yên bình lấy làm thích và nảy ra ý định về đây mua đất để thỉnh thoảng về về sống, câu cá sông, gối đầu lên cỏ mà đọc sách. Nhưng chợt nghĩ bọn dân quê vốn thất học, tham lam, lại sang vay tiền, lại sang mượn sách rồi không có giấy chùi đít lại chả tiện tay xé đi vài trang thì sao? Đúng lúc đó có đứa trẻ trâu đi qua, thấy Hạ Văn đeo nhiều vàng trên tay, trên cổ thì khuyên Hạ Văn hãy cất ngay đi kẻo lại thiệt thân. Hạ Văn cả cười bảo đến giáo sư, doanh dân còn chả làm được thầy ta chứ sá gì cái thằng nhãi ranh này? Rồi cứ thế thiu thiu ngủ, được một lúc vãi đái cả ra quần khi có hai tên cướp lăm lăm dao lột hết vàng, tiền bạc. Lúc hai tên cướp đi xa, hoàn hồn xong, Hạ Văn cắm đầu chạy vào làng, miệng lẩm bẩm:” Thầy ta, thầy ta!”. Thế đấy, đâu cứ giáo sư, tiến sĩ mới làm thầy được mà ngay một đứa trẻ trâu cũng có thể trở thành thầy ta ở trong một hoàn cảnh nào đấy!

 Con chim lạ, một truyện ngắn lấy từ hình ảnh con chim cu gáy ở ngoài đời, loài con chim này có đặc tính khi gáy nó hay chúc đầu xuống, chổng đít lên. Một hình ảnh tự nhiên, đời thường của loài chim cu gáy nhưng nó đã được nhà văn Ký, nhân vật trong truyện biến thành vị cứu tinh cho ông B cán bộ tỉnh về hưu. Khi còn đương chức, ông B được nhiều người đến nhờ cậy, khom lưng, cúi lạy để ông ban phát cho bổng lộc dự án, cấp tiền ngân sách, thăng quan tiến chức nhưng đến khi ông về hưu rồi thì chả có ma nào đến lạy lục ông nữa. Đó là lẽ đương nhiên vì xưa kia họ đến lạy lục ông theo kiểu mua- bán sòng phẳng chứ không phải tình người giúp đỡ lẫn nhau cho nên ông về hưu chả ai đến mau ông nữa thế nhưng ông không hiểu điều này lại cho là thiện hạ ăn ở bạc bẽo với mình thế nên ông mắc chứng trầm uất, và mấy lầ toan tự tử. May sao bà vợ ông biết được nhà văn Ký có con chim cu gáy, nó không những hót hay mà còn có động tác cúi đầu chổng mông giống như hình ảnh nhiều kẻ đã quỳ lạy ông B ngày xưa. Bà vợ ông B hỏi mua con chim, giá trăm triệu cũng mua, nhà văn Ký không bán mà tặng bà. Quả nhiên khi bà vợ đem con chim cu gáy về treo trước của phòng ngủ của ông B, khi thấy nó vừa gáy vừa gập đầu, chổng đít, ông B đã phụ họa theo:

- Cúc cù cu, cu!

- Tuyệt, rất tuyệt!

 Đây không phải là âm thanh của tiếng chuông chùa, chỉ là tiếng đối thoại của chim và người nhưng nó xoáy sây, ngân nga không kém gì tiếng chuông trong tâm trí bạn đọc về cái bi, cài hài sâu sắc của những kẻ bị quyền lực ám ảnh, chi phối ngay cả khi đã bước khỏi chốn quan trường.

 Nếu trong truyện Con chim lạ, ông quan tỉnh B bị ám ảnh bởi sự lạy lục của kẻ dưới thì trong truyện ngắn Tây Thi tỉnh lẻ, ông quan huyện Hứa Bình lại bị sự ám ảnh, hành hạ trong từng bữa ăn, giấc ngủ về cặp vú của vợ mình. Xuất thân từ một gia đình bần nông nghèo khổ, nghe theo lời bố, ông Hứa Bình cưới con ông cán bộ xã giàu có, quyền thế, tất nhiên cô vợ ông rất xấu nên mới chấp nhận làm vợ một kẻ cùng đinh như ông. Cái mà ông Hứa Bình kỳ vọng nhất trên thân thể cô con gái ông cán bộ xã chính là đôi gò bồng căng mẩy của cô, chả là thủa bé, ông đã nhìn trộm ngực của một người đàn bà có cặp vú đẹp, trắng nên nó ám vào tâm trí ông. Thế nên đếm tôn hôn khi cô vợ cởi bỏ chiếc xu- chiêng cứng như mo lang ra để lộ cặp vú nhão nhoét vì bị mấy thằng chăn trâu hồi bé giày vò thì ông đã điên tiết tát cho cô một cái và đuổi về nhà bố mẹ. Chỉ một lúc sau, gia đình bố vợ đã cho giai nhân đến đè ông Hứa Bình ra đòi xẻo cái của quí của ông, ông sợ hãi xin tha lỗi và sang đón vợ về. Từ đó cho đến khi ông bước vào chốn quan trường rồi trở thành cán bộ chủ chốt của huyện nhưng sự ám ảnh bởi cặp vú của vợ vẫn mãi đeo bám ông, ông thèm khát được ngắm nhìn đôi gò bồng còn trinh nguyên căng cứng. Rồi cơ hội đó cũng đến khi mà huyện ông có cô Ái Linh là người trong huyện đã đạt giải Á khôi một cuộc thi hoa hậu. Nhìn thấy ảnh cô chụp trên trang bìa một tạp chí, có bộ ngực hở hang, đẹp hút hồn ông đã mê mẩn và ra lệnh cho Nguyễn Bâu là phó văn phòng tuyển cô về làm tạp vụ cho ông với ý đồ ông sẽ ngắm bằng được cặp vú trinh nguyên của cô để rồi chết ông cũng hả lòng hả dạ. Thế nhưng sau bao tháng chăm chút cô, đưa cô Ái Linh vào được khách sạn, ông Hứa Bình khóc nấc lên, quỳ xuống nói cho cô biết sự thật về nỗi ám ảnh cặp vú của vợ và nỗi thèm khát được một lần trong đời nhìn thấy cặp vú trinh trắng và xin cô cho ngắm đôi vú cô thì hỡi ôi hai vú cô đã thâm sì vì cô bị anh phó văn phòng Nguyễn Bâu lừa phỉnh làm cho cô có thai. Ông Hứa Bình ngã vật ra giường, đôi môi ông úp vào chiếc xê-chiêng trắng muốt của cô Ái Linh. Cái đoạn kết bằng hình ảnh úp mặt của ông Hứa Bình vào chiếc xê- chiêng của cô nhân viên đã lột tả lên được một hình ảnh của một người đàn ông làm quan cả đời chỉ đi tìm cái đẹp, ngắm được một lần thôi mà cũng không được. Thật là bi hài.

 Nhà văn Vũ Đảm thường có những kết của truyện rất ấn tượng và để lại trong tâm trí bạn đọc một sự khắc khoải, suy ngẫm nối tiếp cái tư tưởng của nhà văn. Trong truyện Tiến sĩ tập đếm cũng có cái kết độc đáo như vậy. Một tiến sĩ trẻ- xưng tôi trong truyện, bỗng nhiên vào một ngày đẹp trời được ông viện trưởng nhấc lên ghế viện phó để bồi dưỡng tài năng trẻ kế cận vì ông vừa đưa cháu vào thăm Văn Miếu- Quốc tử giám và ông đã đến tấm bia khắc lời của tiến sĩ Thân Nhân Trung, triều Lê:” Hiền tài là nguyên khí quốc gia...”. Ông muốn học tập cha ông, trọng dụng nhân tài, quyết định bổ nhiệm đã được ông ký cho tiến sĩ trẻ, có tài có đức nhưng đợi mãi chả thấy vị tiến sĩ này có thái độ gì nên cuối cùng ông viện trưởng đã bổ nhiệm cho một ông sắp về hưu, dốt nát nhưng lại có tiền. Vị tiến sĩ trẻ lên phòng tổ chức, chất vấn ông trưởng phòng tại sao lại không trao quyết định cho anh mà lại trao cho ông sắp về hưu thì được ông trưởng phòng nói rằng dến đứa cháu ngoại của ông muốn vào được trường Mần non điểm cũng phải cạnh tranh biết đếm bằng tiếng Anh nữa là. Anh tiến sĩ đi ra ngoài rồi chả hiểu sao anh lại đếm bậc cầu thang:” Một bậc, hai bậc, ba bậc”. Có vẻ như ngây thơ nhưng đằng sau bước chân đếm cầu thang của anh tiến sĩ là hồi chuông buồn về tệ nạn mua quan bán chức hiện nay. Dù anh có tài, có đức nhưng không có ô dù, không có tiền thì cũng đừng hòng mơ đến một chức vụ quan trọng nào đó để cống hiến, để phụng sự nhân dân.

 Cõi người, ôi cõi người mênh mông, phức tạp, nhân văn lắm nhưng độc ác cũng không ít đẩy con người vào vòng xoáy của cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn. Cõi người trong truyện ngắn Cõi người của nhà văn Vũ Đảm đã được đẩy đến đỉnh điểm về sự mưu mô, ham hố danh vọng, mê tín đến mù quáng của những kẻ lắm tiền; và cả bi kịch của những người nghèo. Kẻ lắm tiền, trọc phú muốn có danh với đời đã nghe theo lời một tay thầy địa lý xui mua đất của vợ một người nông dân nghèo rồi đặt mộ mẹ mình vào đất ấy thì sẽ trở thành người nổi tiếng hoặc làm quan to. Việc thi nhau xây mộ người thân thật to, thật đẹp; việc nhờ thầy tìm đất đặt mộ để phát quan phát lộc đang là cái mốt thời thượng. Người nông dân nghèo đã buộc phải bán chỗ đất với giá cao như đất mặt phố đang là nơi an nghỉ của vợ để chuyển mộ vợ ra chỗ khác, lấy tiền cho con trai ở Hà Nội mua nhà. Và để che mắt được dân làng, ông đã giả điên vì mồ mả bị động. Cả họ ông sợ đàn ông trong họ bị điên như ông đã hô hào con cháu trong họ di dời mộ ông ra chỗ trũng gần bờ sông. Thật đau lòng, xót xa và cõi người chỉ ấm áp lại khi hình ảnh nén hương trên ngội mộ mới của vợ người đàn ông bùng cháy như muốn nói rằng người vợ sẽ phù hộ cho chồng cho con về việc làm khổ tâm của mình.

 Đổ tiếng chuông chùa, truyện ngắn lấy tên cho cả tập là một truyện rất hiện thực trong đời sống hiện nay. Một ông cục trưởng tên Hộ có quyền lực, giàu có luôn luôn được các đối tác săn đón để được ông ban bố ngân sách, các dự án làm ăn béo bở. Họ quà cáp, lại quả cho ông bằng nhiều triệu đô la, bằng những bữa tiệc sang trọng và bằng cả những cô chân dài xinh đẹp. Trong một lần, cục trưởng được một đối tác dâng cho người đẹp gạo trắng nước trong miền sông nước còn trinh tiết với mục đích cái” ngàn vàng” của người đẹp sẽ đổi lấy mảnh đất ngàn vàng ở tỉnh nọ để làm khu du lịch cao cấp. Nào ngờ bị bọn Tú Bà dâng hàng rởm, người đẹp đã vá lại cái ngàn vàng của mình năm lần. Vì nạo thai nhiều lần, bác sĩ cảnh báo nếu cô nạo thai thêm một lần nữa sẽ vĩnh viễn không có con nên trước khi ân ái, người đẹp bắt cục trưởng phải viết giấy cam đoan, có thai sẽ bỏ vợ để cưới cô. Bị sắc đẹp trong trắng hút hồn, cục trưởng viết mấy chữ cam đoan. Người đẹp có thai, cục trưởng định dùng tiền mua chuộc cô nạo thai nhưng cô bay từ TP.HCM ra tận phòng làm việc của cục trưởng ở Hà Nội, bắt ông quỳ gối hứa bỏ vợ ngay để cưới cô nếu không cô sẽ mở cửa phòng làm việc, vạch váy cho thiên hạ biết cái thai trong bụng cô là tác giả của ông. Thật là khủng khiếp, cục trưởng Hộ đã quỳ gối, thỏa hiệp. Ngay sau đó ông đã quỳ gối van xin vợ cho ly hôn. Bà vợ vì chồng vì con đã đồng ý ly hôn và bỏ vào một ngôi chùa hoang ở ngoại thành để tu hành. Cục trưởng sau đó lên được chức thứ trưởng nhưng cô vợ trẻ đã cuỗm hết tiền bỏ đi với nhân tình, bỏ lại hai đứa con trai sinh đôi cho ông, và đau đớn hơn là để lại cho ông cả căn bệnh thế kỷ HIV. Cục trưởng đã đến chùa, van xin vợ quay về nuôi hai đứa con cho ông, may mà chúng không bị HIV, ông quỳ gối cầu Phật trong tiếng chuông chùa mà vợ ông vừa thỉnh. Tiếng chuông chùa ngân vang, thức tỉnh trong ông thứ trưởng sự ăn năn , hối cải muộn màng. Tiếng chuông chùa cũng cảnh tỉnh nhân gian về sự tha hóa của đạo đức, sự xuống cấp của văn hóa trong cuộc sống chốn quan trường hôm nay.

Trần Văn


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 99177)
LTS: "Nhà Có Cửa Khoá Trái" là truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Trần Thị Ngh. trước 1975 của nền văn học Miền Nam. Sau mấy thập niên, đọc lại, truyện vẫn rất mới, gần gũi như khí hậu của Việt Nam. Hợp Lưu trân trọng mời quí độc giả và văn hữu vào thăm "Nhà Có Cửa Khoá Trái" của Trần Thi Ngh.
26 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 113577)
Và thuở ấy chuyện lũ gà cổ tích Trò ú tim thú vị đến không ngờ Ai có biết về sau viên ngói vỡ Mây lỡ thì vẫn sấp ngửa trong thơ.
22 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 89678)
...Câu nói đó là một định mệnh. Tôi gọi định mệnh là hệ quả của một chuỗi liên tục những điều bất ngờ nhỏ dẫn đến một thay đổi đột ngột thật lớn. Chuỗi liên tục bắt đầu từ việc nhóm Hợp Lưu chọn chủ đề Yêu, bắt sang việc họ rủ rê tôi khá muộn màng, kéo theo việc tôi nhận lời tham dự trong khi tôi có toàn quyền từ chối. Chuỗi liên tục lại tiếp nối với chuyện tôi và anh cùng có mặt ở Coffee Factory sáng nay, rồi tình cờ anh ngồi cạnh tôi...
20 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 108711)
sau những đụn cát những làng mạc sát biển gió muối đang đánh phới trắng biển rộng rãi xanh muối chát đậm và những lượn sóng thăm thẳm kỳ cùng đang sắp bay lên trên đầu những chiếc mái lá, những căn nhà rông, những vạch chữ đã vạch bằng que ổi những hạt cát cắt rát
20 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 108691)
những đợt sóng xô đẩy khi gần tới bờ liền nắm tay nhau không có giá trị nào theo phép đo lường biển choàng ôm một thực thể trinh nguyên thể hiện tình yêu tuyệt đối với đất không cần phải xác tín về điều thiêng liêng và huyền thoại
20 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83120)
“Giấc” là tập thơ đầu tay của tác giả Lữ thị Mai. Nó - tập thơ đã nhắc với tôi rằng: Cuộc sống quanh chúng ta được bao bọc bởi hình ảnh. Chúng ta cần nó như cần ánh sáng để nhìn, không khí để thở. Hình ảnh chính là sự sống phản ánh vào trong con mắt ta, đó là một nguồn thông tin quý báu và cần thiết trong cuộc sống.
20 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92682)
Thử hình dung một con tàu đang rẽ sóng…Du khách tụ họp trên boong ngắm biển ngắm trời, thay phiên chụp những pô hình solo hay tập thể trên cái nền lô nhô đảo nhỏ đảo to dưới bầu trời đang bừng sáng vì vầng dương vừa lấn được mấy lớp mây mù để phết nhanh lên mặt nước từng mảng rộng đủ các cung bậc của màu lam.
20 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 94054)
...Người khách đầu tiên tìm đến là một gã đàn ông lùn tè lùn tẹt, gã hỏi mẹ chị đi ”tàu nhanh” giá bao nhiêu? Mẹ chị ngớ người không hiểu, hỏi lại gã tàu nhanh là gì? Gã văng tục:” Đ... mẹ, làm đĩ mà không biết tàu nhanh!”. Mẹ chị nói với gã lần đầu tiên đi bán mình nên chưa biết, gã giảng giải cho mẹ chị, đi tàu nhanh nghĩa là “làm” một cái thôi, giống như ăn bánh trả tiền, còn đi” tàu chậm” là qua đêm, “làm” bao nhiêu cái thì “làm”...
20 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 113303)
đêm phố cổ tạ ơn một nàng thơ cuối cùng vẫn còn biết giật mình trước mắt đêm chai lì như mắt loài chuột cống
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 87334)
“Theo Trần Trọng Kim nhận rằng thơ là của Lý Thường Kiệt. Nhưng nói chắc là Thường Kiệt làm được thơ thì không có gì làm bằng cứ”[15]. Sau này, Bùi Văn Nguyên phân tích các cứ liệu và đoán định rằng: “Như vậy tác giả bài thơ “thần” này là khuyết danh”[16]. Bùi Duy Tân tiếp tục hướng này và chủ trương rằng “bài thơ này nên để khuyết danh tác giả”[17]...