- On The Way Home
- Mục Lục Hợp Lưu 102
- Thư Tòa Soạn Hợp Lưu 102
- Lâu Đài Trên Bãi Cát (phần 2 A )
- Lâu Đài Trên Bãi Cát (phần 2 B )
- Truyện Hà Ô Lôi Trong Lĩnh Nam Chích Quái Và Tinh Thần Phản Biện Xã Hội Dưới Thời Vãn Trần
- Vũ Khắc Khoan (1917-1986) Tác Phẩm Là Một Thác Ngôn
- Bài Sử Khác Cho Việt Nam (kỳ 2)
- Puerto Princesa City
- Sóc Nâu Ngày Tháng Dại
- Đêm Lạ
- Mưa
- Đầu Làng Có Cây Vông...
- Đọc Thơ Di Cảo Mới Của Lưu Quang Vũ
- Thơ Lưu Quang Vũ (di Cảo 1972-1975)
- Ngoại Lệ Duy Nhất
- Có Một Tình Yêu
- Mẹ Tôi Và Chuyến Xe Bus 92
- Hành Khách Cuối Cùng
- Thơ Nghiêu Minh
Tinh thần “hủ Mác-Lênin” cũng đóng một vai trò quan trọng. Tin tưởng vào giáo điều Mác-Lênin từ những năm cuối thập niên 1920 hay trong thập niên 1930–với những tài liệu tuyên truyền kiểu “Nhời hô của Hội lao nông quốc tế,” khiến gợi nhớ những tài liệu cao rao đạo Ki-tô của các thày kẻ giảng vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, và do phản ứng trước những nghịch cảnh xã hội vừa phong kiến vừa thực dân mà các cấp lãnh đạo CSVN đã khôn lớn lên, rồi được tôi đúc thêm qua những năm tù đầy khổ sở, nhục nhã, và nhiều thập niên nằm gai, nếm mật ở chiến trường–những Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, v.. v... khó thể nhận hiểu được rằng vào năm 1975 thế giới đã đổi thay: chế độ thực dân cũ đã bị khai tử–nhân loại đã bước vào kỷ nguyên kỹ thuật và không gian–chủ thuyết Mác-Lênin lung lay từ gốc rễ, thất bại đã ươm mầm từ “thành đồng vĩ đại” là Liên Sô qua tới Đông Âu, Trung Cộng v.. v... Bởi thế, họ vẫn cao giọng cách mạng là tấn công, không tấn công là thất bại, rồi rêu rao “quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội,” thiết lập một lâu đài vàng mã trên giải đất đã bị tàn phá hơn 30 năm vì đủ loại bom, đạn, chất nổ, thuốc hóa học v.. v... Lại còn tham tâm thiết lập một “khối liên minh Việt-Kampuchea-Lào,” đóng vai “tiểu bá” ở Đông Nam Á. Kết quả cay đắng là chính sách phong tỏa kinh tế suốt 20 năm của Mỹ, cùng những “bài học luật kẻ mạnh” của Đặng Tiểu Bình. Và những tội ác chiến tranh như xua đuổi người Việt gốc Hoa cùng những thành phần mệnh danh là phản động khỏi Việt Nam bằng đường biển, khích động sự phẫn nộ của dư luận thế giới.
Sự hủ lậu, thiếu sáng tạo của những người kiêu căng, tự sắc phong làm “đỉnh cao trí tuệ” này có lẽ là một đặc tính của người Việt–tương tự như căn bệnh “hủ Nho” của triều Nguyễn ở thế kỷ XIX, hay “hủ Tây” ở những thập niên đầu của thế kỷ XX.
Để giải thích hiện tượng “hủ”–hay cực kỳ bảo thủ này–có thể đề cập đến yếu tố “nông nghiệp” của sinh hoạt kinh tế Việt Nam. Nhưng cũng chưa hoàn toàn đúng. Tại sao Thái Lan, hay Nhật Bản, cũng là những nước nông nghiệp, đã có can đảm uyển chuyển, đổi mới? Cũng có thể đề cập đến cái gọi là “thủy chung như nhất” hay quan niệm “ngọc vỡ hơn ngói lành” của truyền thống Khổng học. Nhưng Nhật Bản chẳng từng chịu ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo đó sao? Đặc tính cực kỳ bảo thủ–và, một cách nào đó, cuồng tín kiểu Trung Cổ–là do sự thiếu kém và yếu ớt của giai cấp trí thức, chuyên viên mới, với trình độ hiểu biết hiện đại.
Quan trọng hơn nữa, Việt
Tinh thần “hủ nho” lên cao độ dưới triều Tự Đức (1848-1883). Giữa lúc nhân loại bước những bước dài vào kỷ nguyên kỹ thuật, nhà vua tập trung hết nghị lực vào việc soạn thảo bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, vui vầy xướng họa với các văn nhân, thi xã, vãi vàng bạc khen thưởng một lời ca, tiếng hát hay bộ điệu của diễn viên hát bội, hoặc truy tìm thuốc tiên để có giọt máu nối ngôi. Trong khi đó, giặc giã nổi lên khắp nơi, kể cả danh sĩ Cao Bá Quát (1809-1855)–một tay văn chương quán thế, nhưng chỉ sau chuyến đi đày qua tô giới Sư Tử Thành (Singapore) năm 1845 đã phải cảm khái đặt bút viết, “Giật mình khi ở xó nhà, văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi.”
Cuộc xâm chiếm và đô hộ của người Pháp từ năm 1858 tới 1945 mang lại cho Việt Nam nhiều biến đổi. Tinh thần “hủ nho” tàn lụn dần. Nhưng lại thêm một cái “hủ” mới mà Phó Bảng Phan Châu Trinh gọi là “hủ Tây.” Thay vì trích dẫn Tử viết, Tử vân, giới “trí thức” bắt đầu trích dẫn những Ronsard, Lamartine, Voltaire, Rousseau v. v... hay “đấng Tạo Vật.” Một người hầu cận Giám mục Nam Đàng Ngoài lộng ngôn là nắm hết mọi túi khôn nhân loại–từ thiên văn tới địa lý, quặng mỏ–nhưng chỉ bày ra được những mưu kế chọc giận Pháp sớm thôn tính toàn vương quốc. Jean Baptiste Trương Vĩnh “Key” (Ký) viết ra những tài liệu giảng dạy về sử đầu Ngô, mình Sở, khởi đầu bằng năm thứ 1 Tây lịch, khi Jesus Christ được truyền tụng ra đời. Cái tinh thần “hủ Tây” này–được tiếp tục đại diện bằng nhóm quan lại, đốc phủ sứ hay con cháu những Bà Phó Đoan và cô Tư Hồng v.. v...– giúp người Pháp củng cố được nền đô hộ. Tư bản và các viên chức ngành thuộc địa của Pháp ra sức “khai hóa” tài nguyên thiên nhiên và nhân lực Việt Nam để làm giàu cho “mẫu quốc.”
Nhưng, tưởng cần nhấn mạnh, ngay từ ngày người Pháp xâm chiếm miền
Nhờ Quốc Tế Cộng Sản trợ cấp và huấn luyện thành những “cán bộ cách mạng chuyên nghiệp” [agitprop], phe Cộng sản có thực lực hơn cả. Trong khi đó, dù đông đảo về nhân số, các phe phái chống Pháp không Cộng sản bị yếu kém đủ mọi phương diện–từ tổ chức tới nhân sự, từ chủ thuyết tới tài vật lực. Đó là chưa nói đến sự ganh ghét, đố kị, tạo cơ hội cho nhân viên tình báo Pháp hoặc cán bộ chiến lược Cộng sản đột nhập để phá hoại.
Nhưng những người Cộng sản–giống như những “Hồ nhân” thời Sĩ Nhiếp, phe đảng Lý Phật Tử thời Lý Nam Đế, hoặc các thiền sư đời nhà Đinh, những hủ nho của thời Hậu Lê và nhà Nguyễn, hay những hủ Tây như “cha” Lục (Trần Xuân Triêm), Trần Bá Lộc, Petrus Key, Ngô Đình Khả, Nguyễn Thân, Nguyễn Hữu Bài, Lê Hoan, v.. v... vào hạ bán thế kỷ XIX–cũng mắc phải căn bệnh cuồng tín–cuồng tín vô thần, hay, “hủ Marxist-Leninism.”
Họ tự sắc phong cho mình cái sử mệnh truyền giáo, phất cao ngọn cờ “chuyên chính vô sản” ở Đông Dương; tuyên chiến với đủ loại “ma túy” tôn giáo khác. Ai thuận theo thì sống; ai chống lại thì diệt. Sự hủ lậu này biến thành ác tính qua 5 đợt gọi là “cải cách ruộng đất” từ 1952 tới 1956–nhằm tiêu diệt hệ thống tư hữu phong kiến–với những tòa án nhân dân, đấu tố mà chữ nghĩa khó thể mô tả. Nạn nhân bị đấu tố đầu tiên là Nguyễn Thị Năm, tức bà Cát Hanh [Thành] Long, một phụ nữ đã đóng góp hăng say cho “cách mạng” và “kháng chiến”–kể cả việc cưu mang những lãnh tụ Cộng Sản. Rồi đến phong trào chỉnh cán, chỉnh quân trong ba năm 1953-1955, để tiêu diệt và loại bỏ hàng chục ngàn người không Cộng Sản từng dày công hãn mã trong 8 năm chống Pháp.
Dù dữ kiện lịch sử thường ít khi lập lại giống hệt nhau, từ năm 1960, Hà Nội lại tung ra chiêu bài “mặt trận thống nhất” [united front] đã áp dụng ngày nào để đánh chiếm miền Nam–tức khai sinh ra tổ chức “ma” Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam cùng quân đội thường được biết như “Việt Cộng.” Mặc dù cả Mat-scơ-va và Bắc Kinh đều muốn tạm thời duy trì hai thực thể chính trị Bắc và
Bởi thế, dù đã ở thời điểm 1975, khi Liên Sô đang thương thảo với Mỹ về một Hiệp ước giới hạn vũ khí nguyên tử; khi Bắc Kinh và Oat-shinh-tân bắt đầu hoà hoãn với nhau–Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, v.. v... vẫn quyết thực hiện cho bằng được cuồng vọng “quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội” mà không cần trải qua “khâu tư sản.” Một mặt lừa dối bóc lột tận cùng xương tủy nhân dân miền Bắc. Mặt khác, quyết tâm đánh chiếm miền Nam, biến tài nguyên nhân vật lực của hai miền Bắc-Nam thành công cụ xây đắp tân đế quốc Liên Sô và Trung Cộng–trong một “ảo giác tự do, độc lập.”( 29)
Cuộc sụp đổ của VNCH ngày 30/4/1975 khiến Lê Duẩn không cần che dấu bạo lực cách mạng nữa, loại bỏ dần Chính phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam cùng hai tổ chức ngoại vi MT/DT GPMN và Liên Minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình (tức Mặt Trận II, thành lập từ năm 1968). Trong men say chiến thắng, Hà Nội còn ngạo mạn đốt sách vở miền
Trong khi đó, phần do lệnh cấm vận kinh tế của Liên bang Mỹ, phần do thiếu khả năng quản trị và thiết kế, và hậu quả của những kế hoạch tiêu thổ kháng chiến, “đánh cho thật mạnh, phá nát hậu cứ” của VNCH từ chiến dịch Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa Mậu Thân 1968–phần vì sự tàn phá của bom đạn, thuốc khai quang mà Ngô Đình Diệm thúc dục chính phủ Kennedy thực hiện từ năm 1962–tình trạng kinh tế trong nước suy sụp thảm hại. Việt
Mọi biện pháp đưa ra trong Đại Hội thứ V tổ chức vào tháng 3/1982 để chỉnh đốn hàng ngũ cầm quyền, cũng như đổi thay chiến lược phát triển kinh tế đều thất bại. Việt Nam phải trở lại với chính sách tài chính thời 1946-1949, tức Lê Văn Hiến ra công in tiền không bảo chứng–hay bảo chứng bằng “nguồn sản vật của dân chúng”–để phát lương cho công nhân, viên chức.
Không đầy 10 năm sau chiến thắng Xuân 1975, Việt Nam bị phũ phàng đặt trả lại vị thế đích thực–một quốc gia có nền kinh tế của tiền bán thế kỷ XIX, với nhu cầu tiêu thụ của thế kỷ XX. Không kém phũ phàng, số tiền vay nợ để “cách mạng” lên tới hàng chục tỉ Mỹ Kim, bao nhiêu dầu thô và hải sản phải bán lúa non hàng thập niên vẫn chưa đủ trả nợ. 55 ngày và 55 đêm “đại thắng” phải trả giá bằng hơn 20 năm ác mộng trong cảnh huống “bầy thợ săn già nua và đàn hươu đói lả trên cánh đồng cỏ cháy.” Và, từ vị thế “chiến thắng,” suy sụp xuống vị thế “đại bại”–bại ngay với khối quốc dân cả hai miền Nam và Bắc.
Bi thảm hơn nữa, tham vọng “tiểu bá” Đông Dương–hay thiết lập khối liên minh ba nước Việt-Lào-Kampuchea–đưa đến việc xâm lăng, chiếm đóng Kampuchea, rồi dẫn đến những “bài học” của Đặng Tiểu Bình từ ngày 17/2 tới 19/3/1979, và kéo dài đến năm 1991. (31) Dư luận thế giới bắt đầu quay lưng lại với Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tảng lờ những lời tố cáo của Hà Nội và Mat-scơ-va về kế hoạch bá quyền nước lớn của Bắc Kinh tại vùng Đông Nam Á.
Áp lực thế giới chỉ giảm xuống sau cái chết của Lê Duẩn ngày 10/7/1986, đưa Trường Chinh lên chức Tổng Bí thư lần thứ ba, và nhất là Đại Hội thứ VI (12/1986) mệnh danh là Đại hội Đổi Mới. Tại Đại hội này, Nguyễn Văn Linh (1914-1997) được cử làm Tổng Bí thư. Nhóm miền
Sự sụp đổ của khối QTCS và sự ngừng hiện hữu của Liên Sô trong thời khoảng 1989-1991 mở ra cho Việt
Tuy nhiên, ảnh hưởng Bắc Kinh ngày một nặng nề. Hàng tiêu dùng Trung Hoa tràn ngập Việt Nam, và bắt đầu có những cuộc hội thảo “trao đổi kinh nghiệm đổi mới” giữa hai nuớc “vừa là láng giềng, vừa là anh em.” Cuối năm 1997, tại Hội nghị thứ 4 (khóa VII), Đỗ Mười từ chức Tổng Bí thư cho Lê Khả Phiêu lên thay. Phan Văn Khải cũng thay Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng. Bộ Chính trị thêm một số khuôn mặt mới. Nhưng việc ký Hiệp ước biên giới đất liền và biển với Trung Hoa năm 1999 và 2000 gây bất mãn trầm trọng tại quốc nội cũng như quốc ngoại. Lê Khả Phiêu (1997-2001) bị mất chức; Chủ tịch Quốc Hội là Nông Đức Mạnh thay. Nhưng Mạnh, trên thực chất, chỉ có hư vị.
Từ năm 2001, kinh tế Việt
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn đối diện nhiều khó khăn: chưa thu hút được vốn đầu tư ngoại quốc, kế hoạch công nghiệp hóa vào năm 2020 khó đạt chỉ tiêu; kinh tế trên cơ bản vẫn còn là nền kinh tế sản xuất tài nguyên thô, dịch vụ và kỹ nghệ nhẹ (hàng tiêu dùng), tình trạng nghèo khổ chung của đám đông, nạn thất nghiệp và/hoặc làm việc không đúng khả năng, khoảng cách biệt ngày càng lớn giữa đô thị và nông thôn cùng vùng rừng núi, khiến gợi nhớ đến những tệ đoan xã hội ở Trung Cộng trong những thập niên 1950-1960.
Kế hoạch cải cách luật pháp cũng nặng về hình thức hơn thực chất. Đại đa số dân chúng không tin rằng họ được hưởng công lý. Luật sư đoàn quá mỏng, và chưa được thủ diễn vị thế đích thực như một phần tử của hệ thống luật pháp. Ý định sẽ đào tạo thêm 20,000 luật sư vào năm 2020 khó đạt mục tiêu.
Vấn đề tư tưởng và lý luận cũng chưa giải quyết xong–khoảng cách biệt quá lớn giữa giai tầng cai trị và bị trị, guồng máy nhà nước nặng nề, chằng chéo, chưa thấy một ánh hy vọng sẽ thăng hoa hay tan biến đi như Marx ảo vọng. Hội nghị về lý luận Văn hóa-Thông tin-Nghệ thuật vào đầu tháng 3/2006, do Nguyễn Khoa Điềm chủ tọa, phản ánh sự khủng hoảng của lý luận Marxist hiện nay. Cũng có dấu hiệu cho thấy BCT có thể sử dụng lực lượng Đoàn Thanh niên Cộng Sản để thực hiện kế hoạch chỉnh đốn vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN. Trong khi đó phe đổi mới ngày một mạnh. Nhân dịp thăm dò ý kiến dư luận về Dư thảo Báo cáo chính trị từ ngày 3/2 tới 3/3/2006 (mô phỏng theo kinh nghiệm cuối khóa VI), nhiều người đòi dân chủ hóa, như hủy bỏ điều 4 Hiến Pháp 1992, tức điều khoản dành cho Đảng CS độc quyền cai trị. Có người còn đòi bỏ lý luận Marxist-Leninism. Trong số những người chống đối có cả cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Giáo sư Hoàng Minh Chính, v.. v... Ngày 6/4/2006, 116 người vận động dân chủ ký tuyên cáo yêu cầu Đại hội X thực thi dân chủ, đa đảng và tự do cơ bản đã qui định trong Hiến Pháp.
Quốc nạn tham nhũng càng khiến tình hình phức tạp hơn. Tiêu biểu nhất là vụ tham ô “PMU 18.” Phó Chủ nhiệm văn phòng Phủ Thủ tướng, và một số viên chức cao cấp trong ngành công an, tư pháp cũng bị dính líu, theo lối giứt giây, động rừng. (Người hiểu rõ nội tình Việt
Tham nhũng, thực ra, là một phản ứng tiêu cực hiển lộ và mạnh mẽ nhất với giáo điều “diệt tư hữu” của thuyết Marx. Vì con người còn là con người chăng khi không còn tư hữu? Ngay đến các nhà tu đạo hạnh–lập lời nguyện hiến dâng tâm thân mình cho tiếng gọi của Đấng Tối Cao–cũng đang khiến bao giáo phận ở Mỹ tuyên bố phá sản vì tiền bồi thường cho hành động lợi dụng chức vụ và quyền thế để xâm phạm tình dục, v.. v... (Xin đừng vội kết luận đây là hiện tượng đặc thù Mỹ. Thực ra, chỉ có nước Mỹ mới đủ can đảm đưa ra ánh sáng “tội tổ tông” trên. Tại những quốc gia khác, kể cả Việt Nam, người ta nỗ lực che đậy, dấu giếm những tội ác của loài sâu của bông hoa tôn giáo này. Trong chuyến viếng thăm Mỹ đầu tiên từ 15 tới 20/4/2008, Gíáo hoàng Benedict XVI phải công khai xin lỗi và bày tỏ lòng ân hận.) (33)
Thật tự nhiên và dễ hiểu là một cán bộ Cộng Sản tinh tuyền khó thể thoát khỏi sự cám dỗ của quyền chức và lợi nhuận, rất tư hữu, do độc quyền cai trị và lãnh đạo gây nên. Thực trạng xã hội-kinh tế nội địa nói chung cũng tạo nên môi trường dung dưỡng và phát triển quốc sỉ tham nhũng.
Hiện nay, Việt
Hơn nữa, uy tín HCM đã bị khai thác cho những mục tiêu giai đoạn của những người cầm quyền, hơn thực tâm tôn trọng tư tưởng HCM. Chỉ một nguyện vọng nhỏ nhoi của HCM thôi–tức được hỏa táng để phát động nền văn hóa hỏa táng ở Việt Nam–đã bị tảng lờ. (Xem Di chúc HCM, ấn bản năm 2001 của BCHTƯĐ) Chẳng mấy ai còn nhắc đến Bản thỉnh nguyện năm 1919 của Nguyễn Ái Quốc và nhóm người Việt yêu nước, đòi hỏi những quyền tự do cơ bản như tự do tư tưởng, ngôn luận, v.. v....
Những cuộc cải cách điền địa tại Việt
Viễn ảnh tối tăm nhất là nếu chui vào đường hầm Hán hóa chủ nghĩa Marxist lần thứ hai, chẳng hy vọng có lối ra trong một tương lai gần.
Quốc dân Việt sẽ có tiếng nói cuối cùng–chấp nhận là người thua cuộc–hay sẽ âm thầm, nhưng vô cùng can đảm, kiên cường, liên lũy tranh đấu cho nhân và dân quyền cơ bản và một tương lai tốt đẹp hơn.
Đáp án của câu hỏi “Tương lai Việt Nam sẽ về đâu?” tùy thuộc ở quyết tâm của người Việt trong nỗ lực giải quyết cấp bách tinh thần hủ Mác-Lênin cùng tàn dư của mọi hình thái văn hoá thực dân-phong kiến, tức hủ Tây, còn sót lại.
Chính Đạo
Phụ chú (II):
19. Ngày 17/6/1954, Dulles gửi công điện cho phái đoàn Mỹ ở Geneva, lưu ý Pháp [Chauvel] về điều kiện di tản quân Pháp, và giáo dân Ki-tô Việt; The Pentagon Papers (Gravel), I:531 [Doc. 190]) Ngày 18/7 và rồi 21/7/1954, tại Hội nghị Geneva, Ngoại trưởng Đỗ cũng nêu lên vấn đề hai giáo phận Bùi Chu-Phát Diệm; SHAT (Vincennes), 10H 246. Về vai trò Ki-tô giáo trong cuộc xâm lăng và “bảo hộ” của Pháp, xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, 1883-1945, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1999-2000); Cao Huy Thuần, Les missionnaires et la politique coloniale francaise au Vietnam (1857-1914) (New Haven: Yale Center for International & Asia Studies, 1990); Patrick J. N. Tuck, French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam, 1857-1914: A Documentary Survey. (London: Liverpool Univ. Press, 1987).
20. Dụ số 10 ngày 6/8/1950 do Bảo Đại ký từ
21. Etudes vietnamiennes, No. 53 (1978), tr. 108.
22. Phiếu trình số 077QP/CTTL/CTĐB/K ngày 21/2/1964; Đại tá Nguyễn Văn Chuân, Giám đốc Nha Kỹ Thuật Chiến Tranh Tâm Ly, gửi CT/HĐQNCM; TTLTTƯ II (TP/HCM), Phủ Thủ Tướng [PhThT], Hồ sơ [HS] 29383.
23. Đại sứ Lodge nhận xét rằng Diệm mang quan điểm Trung Cổ về độc tài gia đình trị, và họ Ngô là những kẻ dối trá và tội phạm [liars and criminals]; FRUS, 1961-1963, IV:143, 67. Cố vấn An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy ví những hành động cuối triều Ngô như “cơn điên cuồng tập thể của một gia đình cai trị chưa từng thấy từ thời các Nga Hoàng” [This was the first time the world had been faced with collective madness in a ruling family since the day of the tsars”] Ibid., IV:175. Xem thêm báo cáo của Đại sứ Pháp Lalouette ngày 10/3/1962 & 30/8/1962; AMAE (Paris), CLV, SN, d. 14 & 46; lược dịch Việt ngữ trong Chính Đạo, Việt
24. Hoàng Đức Ninh, em họ Thiệu, là trường hợp tiêu biểu nhất. Khi Ninh giữ chức tỉnh trưởng Bạc Liêu, Cố vấn John Paul Vann của Quân đoàn IV nhận xét nếu có thể móc đất Bạc Liêu bán cho Việt Cộng, Ninh cũng không từ. Thiệu bèn đưa Ninh lên nắm Biệt khu 44 (sát
25. Xem Hữu Mai, Ông Cố Vấn, 3 tập (Hà Nội: 1987-1989). Nhân vật “Năm Sang” trong cuốn Ông Cố Vấn tức cấp chỉ huy trực tiếp của Vũ Ngọc Nhạ, là Trương Văn Sang, cựu Bí thư Sài Gòn.
26. Mâu từng tập trung “bọn tăng ni phản loạn” vào các trại giáo huấn, và những người “tốt nghiệp” phải ký tên vào kiến nghị nhớ ơn Tổng thống, hứa tuyệt đối trung thành với chế độ. Xem chi tiết trong Chính Đạo, “Mùa Phật Đản đẫm máu;” Hopluu.net, Phụ bản đặc biệt tháng 5/2008.
27. Cho tới nay, biến cố 1966 chưa được nghiên cứu tường tận, dầy phủ những cảm nhận sắt máu hận thù, hay bi phẫn.
28. Xem Nguyên Vũ, Sau Bảy Năm Ở Lính (Sài Gòn: Đại Ngã, 1970).
29. Mãi tới năm 1982, Trường Chinh–người được coi như thân Bắc Kinh–mới lên án tư tưởng Mao Trạch Đông là “phi vô sản, phản động,” “chống chủ nghĩa Mac-Lênin,” “chống CNXH,” là “chủ nghĩa bành trướng và chủ nghĩa bá quyền đại Hán tộc, sô vanh nước lớn, dân tộc tư sản mang đậm màu sắc phong kiến,” “đã rất xảo quyệt sử dụng Việt Nam như một con bài để vươn lên địa vị cường quốc . . ., kiềm chế và gây áp lực khi viện trợ cho Việt Nam, tìm mọi cách khống chế Việt Nam, kéo Việt Nam vào quĩ đạo để họ nắm Việt Nam, từ đó nắm cả Đông Dương và tràn xuống Đông Nam Châu Á. . . . họ đã giữ cho Việt Nam không thắng, không bại, bị chia cắt lâu dài, làm nước đệm giữa Trung quốc và chủ nghĩa đế quốc, không bao giờ mạnh lên được và luôn luôn lệ thuộc vào họ.” Trường Chinh, “Nhân Dân Việt
30. Nguyễn Văn Linh, Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm (Sài Gòn: 1985), tr. 92-93.
31. Ngày Thứ Bảy, 17/2/1979, đúng ngày Phạm Văn Đồng ký Hiệp ước Hợp Tác và Hữu Nghị với
32. Nguyễn Phú Trọng, “Xây Dựng Đảng Cầm Quyền: Một số kinh nghiệm từ thực tiễn đổi mới ở Việt
33. “Highlights of Pope Benedict’s US visit;” AP, 5/4/2008.