- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

TẢN MẠN VỀ “HẠ ĐỎ CÓ CHÀNG TỚI HỎI”

09 Tháng Tám 20245:10 CH(Xem: 19017)

huyen kieu (2)
Hình 1- bản chép tay

TẢN MẠN VỀ

“HẠ ĐỎ CÓ CHÀNG TỚI HỎI”
NP phan

 

 

 

 

TÌNH SẦU là bài thơ nổi tiếng nhất và hay nhất của nhà thơ Huyền Kiêu.

 

Ông tên thật là Bùi Lão Kiều (Có lẽ bút danh Huyền Kiêu xuất phát từ tên của ông là Kiều: Kiêu huyền thành Huyền Kiêu), sinh năm 1915, nguyên quán ở tỉnh Hà Đông (cũ). Ngoài viết văn, làm thơ ông còn cộng tác với nhiều báo ở Hà Nội. Ông công tác ở tạp chí Văn Nghệ (HNV), nhà xuất bản Văn học (HLHVHNTVN).

 

Những tác phẩm của Huyền Kiêu: Sang xuân (1960), Mùa cây (1965), Bầu trời (1976).

 

Sau 30 Tháng Tư năm 1975 ông vào Sài Gòn sinh sống. Ông mất ngày 8 tháng 1 năm 1995 (Ất Hợi), hưởng thọ 80 tuổi.

 

Bài thơ “Tình sầu” đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc mang tên Ngày Xưa Một Chuyện Tình Sầu do ca sĩ Duy Quang trình bày. Nhạc sĩ Việt Dzũng cũng phổ bài thơ thành nhạc phẩm Thu Vàng Có Chàng Tới Hỏi.

 

Đáng tiếc là bài thơ “Tình sầu” hiện nay có khá nhiều dị bản. Theo tôi tìm hiểu thì ít nhất có đến ba (bốn) dị bản.

 

Thứ nhất là bản chép lại từ bản viết tay (Hình 1), được cho là thủ bút của nhà thơ Huyền Kiêu, có ghi địa điểm, thời gian sáng tác và chữ ký của tác giả (bằng mực đỏ), như trang mạng thica.net ghi nhận bản này. Tạm gọi là Bản 1.

 

Tình sầu

 

Xuân hồng có chàng tới hỏi:

– Em thơ, chị đẹp em đâu?

– Chị tôi hoa ngứt cài đầu

Đi hái phù dung trong nội.

 

Hè đỏ có chàng tới hỏi:

– Em thơ, chị đẹp em đâu?

– Chị tôi khăn thắm quàng đầu

Đi giặt tơ vàng trong suối.

 

Thu biếc có chàng tới hỏi:

– Em thơ, chị đẹp em đâu?

– Chị tôi khăn trắng ngang đầu

Đi hát tình sầu trong núi.

 

Đông xám có chàng tới hỏi:

– Em thơ, chị đẹp em đâu?

– Chị tôi hoa phủ đầy đầu

Đã nghỉ trong lòng mộ lạnh.

 

Hà Nội mùa thu 1938

 

Bản thứ hai là bản do hoạ sĩ Suối Hoa, con gái của cố thi sĩ Huyền Kiêu công bố. Trang dutule.com dẫn lại trong mục Một bài thơ cũ. Tạm gọi là bản 2.

 

Tình sầu

 

Xuân hồng có chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu?

Chị tôi hoa ngát cài đầu

Đi hái phù dung trong nội

 

Hè đỏ có chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu ?

Chị tôi khăn thắm quàng đầu

Đi giặt tơ vàng trong suối

 

Thu biếc có chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu ?

Chị tôi khăn trắng ngang đầu

Đi hát tình sầu trong núi

 

Đông xám có chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu?

Chị tôi hoa phủ đầy đầu

Đã ngủ trong hầm mộ lạnh

 

1940

 

Bản thứ ba, cũng là bản phổ biến nhất, có trên hầu hết các trang mạng. Tạm gọi là bản 3.

 

 

Tình sầu

 

Xuân hồng có chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu?

Chị tôi tóc xõa ngang đầu

Đi bắt bướm vàng ngoài nội

 

Hạ đỏ vẫn chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu?

Chị tôi hoa trắng cài đầu

Đi giặt tơ vàng bên suối

 

Thu xám cũng chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu?

Chị tôi khăn trắng ngang đầu

Đi hát tình sầu trong núi

 

Đông xám lại chàng tới hỏi

Em thơ, chị đẹp em đâu?

Chị tôi hoa phủ đầy đầu

Đã ngủ trong lòng mộ tối

 

1943

 

So sánh giữa bản 1 và bản 2 thì thấy không có sự khác biệt nhiều, ngoài mấy điểm sau đây:

- Bản 1 có dấu (-) đánh dấu lời đối thoại, bản 2 thì không.

- Bản 1: hoa ngứt; bản 2: hoa ngát.

- Bản 1: Đã nghỉ trong lòng mộ lạnh

  Bản 2: Đã ngủ trong hầm mộ lạnh

- Bản 1: năm sáng tác 1938; bản 2: 1940

 

Tôi tìm hiểu thử “hoa ngứt” là hoa gì thì không có kết quả mà chỉ có “hoa ngấy”, “ngấy hương”, họ hoa hồng, một vị thuốc nam.

 

Bản thứ 3, bản phổ biến nhất thì có nhiều khác biệt so với bản 1 và 2:

- Từ “có” trong “có chàng tới hỏi” được thay bằng “vẫn”, “cũng”, “lại” ở câu đầu các khổ thơ sau.

- “Tóc xoã ngang đầu”, “bắt bướm vàng ngoài nội”

- “Hạ đỏ” chứ không phải “Hè đỏ” (?)

- “Đi giặt tơ vàng bên suối” thay vì “trong suối”

- “Thu xám” thay vì “Thu biếc”

- “Đã ngủ trong lòng mộ tối”

 

Tôi nghĩ rằng đã có một sự tam sao thất bản ở đây. Có thể người yêu thơ đã không được tiếp xúc với bản gốc (chính thức) nên đã tự ý đọc hoặc chép thơ theo cảm nhận của riêng mình, hoặc căn cứ vào một bản nào đó trên báo chí rồi truyền cho nhau. Khổ một nỗi là bản này lại là bản phổ biến nhất, nhiều người thuộc nhất.

 

Nhưng mà…

 

Tôi cứ băn khoăn điều này: “Hạ đỏ” hay “Hè đỏ”? Theo như bản gốc của tác giả thì rõ ràng là HÈ ĐỎ, chứ không phải HẠ ĐỎ.

 

Lâu nay vẫn nghe “Hạ đỏ có chàng tới hỏi” giờ thử sửa thành “Hè đỏ có chàng tới hỏi” nghe hơi… sốc, nghe nó không hay, nó thế nào ấy. Vả lại, người ta thường nói Xuân Hạ Thu Đông (Mùa Xuân em đi chợ Hạ, mua cá Thu về chợ hãy còn Đông - Ca dao), chứ ít khi nói Xuân Hè Thu Đông. Thật không hiểu vì sao HÈ ĐỎ hoá thành HẠ ĐỎ…

 

Trước năm 1975, ở miền Nam, thật sự không có nhiều người biết đến Huyền Kiêu. Khi còn tại thế, nhà thơ Đinh Hùng (bạn thân của Huyền Kiêu) có giới thiệu hai bài thơ của Huyền Kiêu là “Tình sầu” và “Tương biệt dạ” nhưng cũng không mấy người yêu thơ biết, không hẳn là vì ông là người của “phía bên kia”, mà thời gian ấy, nhiều tác giả tác phẩm ngoài Bắc, nhất là các nhà văn, nhà thơ tiền chiến vẫn được đưa vào chương trình học, các tác phẩm vẫn được in ấn, phổ biến; mà có lẽ Huyền Kiêu chưa phải là nhà thơ thật sự có tiếng tăm.

ha do (1)

 

Mãi cho đến khi nhà văn Viên Linh, một nhà văn có tiếng thời ấy lấy một câu thơ của Huyền Kiêu trong bài “Tình sầu” là câu “Hạ đỏ có chàng tới hỏi” làm nhan đề cho một cuốn truyện dài của ông thì bạn đọc mới tìm hiểu và biết được phần nào nguồn gốc của tên cuốn truyện.

 

Viên Linh tên thật là Nguyễn Nam, sinh ngày 20-1-1938 tại Phủ Lý, Hà Nam. Từ năm 1950, ông sống tại Hà Nội. Tác phẩm đầu tiên ông được trả nhuận bút viết năm 14 tuổi, đăng trên Nhật báo Tiếng Dân ở Hà Nội. Ông di cư vào Nam năm 1954.

 

Ông trưởng thành tại Sài Gòn, hoàn toàn sống bằng nghể cầm bút từ 1962, là Tổng thư ký Tòa soạn nhiều tuần báo chuyên về văn học nghệ thuật như Kịch Ảnh, Nghệ Thuật, Khởi Hành, Thời Tập... Là tác giả của hơn hai mươi cuốn sách trước 1975. Ông đạt giải nhất Giải Văn học Nghệ thuật toàn quốc của VNCH năm 1974 với tác phẩm “Gió thấp”.

 

Nhà văn Viên Linh mất ngày 28 tháng 3 năm 2024 tại Virginia, Hoa Kỳ, thọ 86 tuổi.

 

Tôi là một trong những người hâm mộ nhà văn Viên Linh (mặc dù lúc đó tôi chỉ mới khoảng 15, 16 tuổi). Tôi rất thích thơ ông trong tập “Hoá thân”, đặc biệt là thơ lục bát, đọc truyện ngắn của ông trên các tạp chí thời ấy, một số truyện dài. Năm 1973, tôi mua cuốn “Những mái nhà thấp” của ông, đọc hết mà không có ấn tượng gì (hic). Đến năm sau (1974) thấy công bố ông được giải thưởng Văn học Nghệ thuật toàn quốc với tác phẩm “Gió thấp”. Thì ra, “Những mái nhà thấp” được tái bản với tên “Gió thấp”. Đọc lại thì mới thấy… hay (hic).

 

Năm 1973, nhà văn Viên Linh đã ký hợp đồng độc quyền với nhà xuất bản Khai Hoá và đã in bộ tác phẩm gồm ba truyện dài: “Hạ đỏ có chàng tới hỏi”, “Lòng gương ý lược” và “Tới nơi em ở”. Tôi chỉ mới đọc được “Hạ đỏ có chàng tới hỏi”, thấy rất hay. Hình như cuốn này đã được tái bản ở Việt Nam vào năm 2017.

 

Trong các ca khúc do Phạm Duy, Việt Dzũng phổ nhạc bài thơ này đều là Hạ đỏ có chàng tới hỏi”.

 

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng có cuốn truyện dài “Hạ đỏ” xuất bản năm 1991.

 

HÈ ĐỎ CÓ CHÀNG TỚI HỎI đã thành HẠ ĐỎ CÓ CHÀNG TỚI HỎI.



 

Vẫn chưa có câu trả lời.

 

NP phan

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
02 Tháng Chín 20252:55 SA(Xem: 5584)
Chiều tàn nháng lửa nét cuối Đông / Mây từ biển nọ đến nơi này / Tấp vào đất lạ ôm giăng núi / Cây cỏ làm thinh mắc mắc sầu
01 Tháng Chín 202510:04 SA(Xem: 3764)
Chẳng biết học trò ở Cali có để ý không, khi những cây jacaranda bắt đầu nở rộ những chùm hoa mặn mà, đằm thắm, đó là dấu hiệu của mùa thi cuối khoá ở các trường học Mỹ, và một mùa hè rực rỡ đang đón chờ chúng phía trước. Một người Việt nào đó đã gọi tên loài cây này là phượng tím, nghe hay hay và gần gũi, gợi nhớ đến loài phượng đỏ của chúng ta ở quê nhà. Vốn là người ưa để ý đến chữ nghĩa, tôi lẩn thẩn tra cứu xem cây phượng vĩ trong tiếng Anh nói làm sao. Hoá ra—ngoài những tên khoa học khó nhớ—hoa phượng còn có nhiều tên bình dân như flamboyant flower, royal poinciana, peacock flower, flame of the forest và phoenix flower (tên này nghe giống như trong tiếng Việt!)
31 Tháng Tám 20251:46 SA(Xem: 4240)
Anh đứng ở đầu đường / Một buổi chiều rất lạnh / Một buổi chiều rất xanh / Một buổi chiều mưa tạnh
31 Tháng Tám 202512:36 SA(Xem: 3522)
Đó là một trường hợp trong vô số những ca khúc nổi tiếng, nhầm lẫn tựa đề lẫn tác giả. Điều này rất đáng tiếc và cảm thấy thật buồn. Khán thính giả từ trong nước đến hải ngoại từng rung động trước những ca khúc như: Tình nào trong mắt em, Người tình không đến, Nối lại tình xưa, Chờ đông,… Ca khúc Chờ Đông thì bị gắn tên tác giả Trần Thiện Thanh. Đường Tình Đôi Ngã gắn cho nhạc sỹ khác. “Đêm buồn phố thị” lại cho là sáng tác của Ngọc Sơn. Còn tệ hơn nữa có những trung tâm băng đĩa không hề ghi tên tác giả hoặc ghi Vũ Như Cẩn (vẫn như cũ). Những bài hát bị gán nhầm tên tác giả hoặc đổi tựa và rồi khi sự thật, người thật bị vùi lấp quá lâu, người đi sau lại ghi lại cái sai của người đi trước. Nhạc sỹ Ngân Giang từng bị xóa tên khỏi bài hát do ông đổ mồ hôi và nước mắt để viết nên nó. Đó là sự nhập nhằng, vô tâm, tắc trách trong thị trường âm nhạc. Người ta có thể thuộc và hát say sưa một ca khúc nhưng lại không biết tác giả là ai.
31 Tháng Tám 202512:19 SA(Xem: 5018)
Khi cúi xuống đã nghe đời tận tuyệt / những linh thần quá tải với mênh mông / làm sao biết chiều quay nào chong chóng / điểm non tơ đột quỵ của sương hồng
30 Tháng Tám 20259:54 CH(Xem: 3975)
Một lần, khi bước lên tam cấp bằng gạch tàu xưa của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô Sài Gòn, tôi cảm thấy rất sống động, bóng ba tôi trong bộ quần áo màu mỡ gà của ngày ông ra đi, cầm một cây gậy tre đứng dưới bóng cây, tôi nghe rõ như hồi tôi 19 tuổi, ba sẽ làm một hòn non bộ dưới gốc cây này, và tôi đã viết, ở đó, câu thơ … hãy bước lên bậc-tam-cấp-thời-gian, quá khứ-hôm nay-và ngày mai. Và chọn một giấc mơ … đó là điều gắn bó tôi với ba bậc thềm tam cấp. Không phải vì cái ý nghĩa của ba chủ thể Trời – Đất – Con Người trong tri giác tam sinh, để nhắc nhở vô thường Sinh Lão Bệnh Tử, mà tôi cảm giác ba bậc thềm ấy như một dòng thời gian hư ảo. Khi bước lên nó như thể bước vào ngưỡng của giấc mơ. Nó là kinh nghiệm tôi có được khi cảm giác ấy được lặp đi lặp lại, thành một quy ước vô thức mà tôi cho rằng chỉ những ai sống thường trực trong nó mới cảm biết.
25 Tháng Tám 20251:38 SA(Xem: 5069)
“Em, Tháng Chín” – một khúc hát được phổ từ thơ Đặng Hiền, như hơi thở mùa thu San Francisco, nơi ký ức hòa cùng tiếng sóng và hàng thùy dương rì rào phố biển. Lời thơ mang đến nỗi hoài niệm dịu dàng: mùa hè vừa khép lại, tiếng trăng se lạnh, tiếng gió khúc khích tan trong men rượu.
24 Tháng Tám 20253:19 SA(Xem: 5269)
Có những buổi chiều, những đêm cô đơn, và cả những tiếng cười của ngày cũ… tất cả được gói lại trong ly rượu vang, trong lời thơ của nhà thơ Đặng Hiền. Với giọng hát khói sương, trầm ngọt của Ngọc Tuấn, ca khúc “GIÓ TRONG LY RƯỢU VANG – Special Version” ngân lên như một khúc tình ca blues rock đầy tâm trạng.
19 Tháng Tám 20255:49 CH(Xem: 4107)
Trương Vĩnh Ký (1837–1898) từ lâu đã là một nhân vật nhiều tranh cãi trong lịch sử và văn hóa Việt Nam. Ông là trí thức Tây học sớm nhất, thông thạo nhiều ngoại ngữ, có đóng góp nhất định cho việc phát triển chữ Quốc ngữ. Nhưng đồng thời, ông cũng là viên chức phục vụ trực tiếp cho bộ máy cai trị của thực dân Pháp. Giữa hai cực sáng – tối ấy, giới nghiên cứu và văn học Việt Nam đã có những cách đọc rất khác nhau. Một số nhà phê bình văn học, tiêu biểu như Nguyễn Vy Khanh, xem ông là “tinh hoa văn hóa” và là niềm tự hào của dân tộc. Trong khi đó, sử gia Vũ Ngự Chiêu, dựa trên tư liệu gốc và phương pháp khoa học, đã khẳng định Trương Vĩnh Ký là một trí thức bản xứ cộng tác với ngoại bang. Câu hỏi lớn được đặt ra: chúng ta cần văn học để dựng nên huyền thoại, hay cần sử học để nói sự thật?
16 Tháng Tám 20254:58 CH(Xem: 4039)
Giáo sư Trần Ngọc Ninh đã ra đi thanh thản ở tuổi 103 vào ngày 16 tháng 7 năm 2025 tại Bệnh viện Hoag, thành phố Newport Beach, miền Nam California. Tin tức về sự qua đời của giáo sư chỉ được gia đình thông báo hai tuần sau đó, theo đúng nguyện vọng của thầy về một tang lễ Phật giáo vô cùng đơn giản, được tổ chức riêng tư trong phạm vi gia đình. Không có cáo phó, không có điếu văn, và gia đình đã thực hiện đúng những gì thầy mong muốn. Thầy được an táng tại nghĩa trang Loma Vista Memorial Park, thành phố Fullerton, cách Little Saigon khoảng 20 km, bên cạnh phần mộ của người vợ quá cố, mất vào năm 2020 trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Bia mộ của thầy rất giản dị, không ghi học hàm hay danh hiệu – chỉ khắc tên thầy và pháp danh “Orgyen Karma, biểu tượng cho hoạt động giác ngộ”.