- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NĂM BÀI THƠ PHƯƠNG UY

22 Tháng Tám 20163:58 SA(Xem: 31600)
hON VA NGUOI

hiện hữu

 

Khi nỗi đau cuối cùng cũng bốc hơi trước cơn giông

 anh còn gì cho sự quạnh hiu dần tới?

ở nơi chốn ngôi sao cực mới bùng cháy lần cuối

vệt sáng vút qua

 

có thể sống như thế nào sau sự xóa đi hay lãng quên đi kí ức

mùi hương của quá khứ có được phục hiện sau mỗi cơn mưa?

khi ngôn ngữ của anh đã bị nhiễm trùng như vệt lở loét trước sự di căn mới những giọt nước mắt xa lạ sẽ là khởi thủy cho những u buồn

có những ngày như vết dao

 

anh vượt qua những mùa đông bằng giấc mơ mùa hè

nơi con hồ ly ngửa mặt khóc

nơi vệt trăng xanh còn loang máu

tháng bảy nói với anh về những biến tấu

là những âm khúc dị dưỡng

 

có tiếng khóc nảy ra từ cuống họng

nước mắt cũng như nước biển đã không còn vị mặn

trước phút lâm chung của các tính từ

trầm mình và rơi về đất

trong sự vắng lặng của ngôn từ

của bầu trời và đại dương

anh thành hạt bụi

có một ngày chối từ sự hiện diện của mình

 

 

tối

 

quán tưởng trầm luân những u mê đã từng

lời nguyện đêm đã tan trên đôi môi

chiếc bóng nói với tôi về sự non dại lần sau cuối

nụ hoa không trổ mầm bằng sự không thật

đừng cúi đầu

giọt nước mắt xanh không còn tan trên tay

con hồ ly cuộn mình góc tối

khi các yêu tinh đã đi ngủ

thì phù thuỷ tuyết sẽ phục chế quả táo độc dược

ngày ám tàn trên điếu thuốc dở dang

mùa hè khóc bằng những tiếng ve cũ kỹ

trận lo lắng cho mùa mưa đã bắt đầu trên những đám mây

 không còn người hát thánh ca để tiễn đưa những màu xanh bị bức tử

mùa mưa mới cũng không thể hồi sinh cho sắc lục diệp trên những tán khô đừng khóc

dẫu có đi qua những đêm mất ngủ không còn nhau

thì lời ủi an cũng chẳng thể làm xanh được ý nghĩ

mùi hương quá nồng đậm của sự thông cảm

cũng không làm khô được những dối lừa của thế kỉ hoại tử này

đừng tin vào bất cứ

 

trong sự lặng câm của những câu thơ

cơn mưa nói với tôi về mùa lũ cũ

 

Ly


Như là màu nước ao hồ trong những đêm thanh

giấc ngủ đến và cuộn tròn

con tuần lộc non trong mù mù tuyết trắng

cô gái với đôi cánh bằng xương ở trên lưng

cuốn theo trốt lốc

 

Mùa hè đã đi qua trên những đôi mắt trong veo chứa hình hài hoa xa cúc

mùa hè đi qua những hoa hồng trong thung lũng

nơi những đồi cỏ xanh tươi chỉ còn trong trí nhớ cũ kỹ

 hạt mưa trong veo lạnh giá trước hiên nhà

nơi gió giật khan một ngày áp thấp dần qua

 

Giấc ngủ đến trong tiếng phong linh rơi bên hiên đá trắng

nơi cái chết của con ve sầu nhập xác gọi mùa

giấc ngủ bảo lưu cho những cơn mơ xa xưa

chập chùng ẩn hiện

 

như là sự hiến mình tàn dư của điếu thuốc được đốt lên đêm vắng

giấc ngủ vằn vèo tản mác rồi ám trên bàn tay

màu buồn lộng lẫy như ngày mưa em đi không lời từ giã

tôi cuộn tròn mình giữa những mây bay

 

khúc phục tang

 

để tang cho một cái chết

hay nhiều cái chết cũng như nhau

 những quặng sóng bạc màu

khóc bằng lời bọt nước

 những chàng ( hay nàng) tiên cá không hề được thông báo

 rằng cái chết sẽ thoát thai

từ những dối trá

lời nguyền thánh không báo trước tai ương

khi tiếng dương cầm được tấu lên

là phút giây vĩnh quyết

những ngày đại dương khóc bằng máu thay nước mắt

kết chung một cuộc xanh trong

 

đã qua những dụ ngôn

người rẽ lòng biển

đi sâu tìm sự sáng

sự khánh kiệt đến bằng nước mắt đỏ lửa

là tuyệt tận sinh linh

 

đã qua rồi câu chuyện về những tiếng gió hú qua vỏ ốc

ngày thả rớt theo kẻ tay

che dấu một cơn hèn mọn bất lực

câu tụng niệm cũng chỉ là lừa dối

bài kinh cầu an chỉ còn âm vang đớn hèn

khoảnh khắc mặt trời cúi mặt

 

trong buổi chiều phục tang cho những câu chuyện cổ tích

giấc mơ bật khóc xanh xao

gió giật âm âm lời bia mộ

con sóng xưa quằn một nỗi nghẹn ngào

 

THIÊN DI

cuộc thiên di đỏ
mặt trời cuốn qua vùng tóc biếc
chảy mặn tháp ngà
nụ hôn mật non xưa xa
đã khét tanh dưới tê điếng mặt trời
không thể lưu trữ cho em được gì
giọt mưa miên miết đỏ
ngày cựa mình chừng như rất khẽ
tháng bảy cạn kiệt
lời lá khô
rơi từ vực sâu.

cuộc thiên di đỏ
mặt trời đi qua vườn đêm
cứa những xót thương
tối không gió
tôi với căn ngực rỗng
sự đợi chờ là vô vọng
mãi đời sau.
những bóng đèn nê ông cúi đầu câm lặng
cơn mưa không thể ướt át mãi buổi chiều tháng bảy
dụ dỗ về một tia sáng lóe nở
giấc chiêm bao mồ côi 
hơi thở
như những đứa trẻ thành phố ngày loạn lạc
dắt díu nhau đi tìm ý nghĩa cuộc hành trình...


phương uy
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 86325)
Những cái chết sau quá khứ về sau vẫn tiếp tục tiếp diễn mãi cho đến tận bây giờ. Những cái chết trên biển, bên kia biển, và bên này đất liền.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 112368)
Tháng Mười chơi trò xếp đặt Những con rồng được tạc bằng xương người Những con rắn cong khô trên bếp than cời Dưới nền trời xám và khô Phố phường mạ bằng vàng mã Người người ướp lạnh.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 82275)
T rước năm 1975, mỗi dịp Tết âm lịch, văn gia và dân chúng miền nam thường làm lễ kỷ niệm chiến thắng Tết Kỷ Dậu (31/1/1789) của Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792). Đây là một trong những võ công vệ quốc lịch sử của dân tộc Việt chống lại âm mưu thôn tính của bắc phương từ ngày giành được độc lập năm 939–sau khi Ngô Quyền (898-944) phá quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng (theo Nguyễn Trãi, còn gọi là sông Vân Cừ), khai sinh ra một vương quốc mới, tức Đại Việt (từ năm 1054) hay Việt Nam (từ năm 1804). (1)
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 81282)
Từ xưa đến nay, tình mẫu tử luôn là đề tài sáng tác vô tận cho thơ ca nói riêng và văn chương nghệ thuật nói chung. Một cách tự nhiên, Nguyễn Xuân Tường Vy đã chinh phục độc giả bằng chính những dòng viết giản dị, chân thật về tình cảm muôn thuở ấy.
22 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 90467)
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, tháng 4/1975 như vết nước mắt loang dài của miền Trung ngắn dần đi khi dân chúng di tản vào Nam kiệt sức đến không còn nước mắt khóc cho những xác người ven đường.
21 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 86845)
Ông Nguyễn Hưng Quốc là người rất xục xạo đã lôi ra được những vấn đề văn học độc đáo. Cũng trong một bài viết blog, ông đã phát giác ra là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rất thích cái thứ chúng ta thường thả vào bồn cầu! Ông viết : “Trong các truyện ngắn, ông (Nguyễn Huy Thiệp) cho chữ (cứt) ấy xuất hiện khá nhiều, một cách trần trụi, hung hãn, đầy bạo động.
21 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 69380)
Nói như Viện Hàn lâm Thụy điển vào đúng 13 giờ thứ năm 07/10/2010, theo lời thư kí Peter Englund khi ông công bố giải văn chương Nobel 2010 trao tặng cho (Jorje) Mario (Petro) Vargas Llosa, là như sau. Nhà văn xứ Pêru này trúng giải nhờ đã: « Thể hiện và phác họa toàn diện cơ cấu quyền lực và hình ảnh sắc cạnh chạm khắc nỗ lực kháng cự, tinh thần phẫn nộ và thành bại của cá nhơn con người. » Về mặt nghệ thuật: « Ông là nhà văn đã triển khai thuật kể chuyện theo phong cách quả tình kì ảo. » Về mặt con người của mình: « Qua tác phẩm, ta biết ngay ông là một con người say sưa trong hành xử. Hễ thấy mình phản ứng rập theo bổn sắc ấy, ông tỏ ra hết sức rung động và lấy làm vui vô cùng. »
18 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 87321)
Tôi đi ở cho tộc Trần từ lâu lắm. Từ cuối đời Lý. Lúc Trần Thị chỉ vừa cắt nhau. Đêm tháo thai, sống cảnh sinh nở đầu đời nên tâm hồn tôi ngập kinh hãi. Máu từ cửa mình vợ Trần Lý chảy xối, bắn phun tung tóe như bát canh rau dền rơi vãi trên đất. Thứ canh đỏ thẫm, lợn cợn những nhau, thịt, chất nhờn. Trần Thị giẫy, vùng, đôi tay chới với cào cấu vươn tới trong động tác nắm tìm sự sống. Đã biết đi vào đời là đi vào khổ đau, nhưng tôi cũng không ngờ khổ đau to lớn tàn phá đến rách bươm cửa mình vợ Trần Lý. Mỗi cái quẫy mình là mỗi một vũng máu, trào ra, trào cho đến đầy thau. Máu bê bết chẳng khác một pháp trường.
18 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 85149)
Ngày 11/03/2011 , Bẫy rồng bộ phim Việt Nam (action movie) được chờ đợi nhất sau thành công vang dội của Dòng máu anh hùng sẽ chính thức được trình chiếu . Bộ phim được hy vọng sẽ tạo ra một diện mạo mới cho dòng phim action Việt Nam và chứng tỏ sự trưởng thành cũng như sức mạnh của một đội ngũ những nhà làm phim mới, trẻ và nhiều sức sáng tạo.
18 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 98803)
Tôi lên Mã Pì Lèng dạy học. Từ dưới chân núi, tôi cứ nhằm theo chòm bản thấp thoáng trong mỏm đá, tán cây mà leo lên. Trời nóng như đốt nương, vượt dốc, cổ họng khô rát, tưởng như mồ hôi đã cạn kiệt không thể chảy ra được nữa, thì bất chợt gặp một dòng nước từ trên núi chảy xuống, tràn qua cả mặt đường đá. Tôi hồ hởi phanh ngực áo, bỏ ca-táp, cởi dép rọ, đứng một lúc cho mát dịu lại, rồi mới thong thả rửa tay, rửa chân, xúc miệng ba lần, uống một ngụm, xong rồi mới lau mình, gội đầu...