- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NGUYỄN DU NHƯ TÔI NGHĨ…

01 Tháng Mười Một 20154:09 CH(Xem: 34344)

KhucDauDamAmDuongHoa-tranhNgocMai

tranh Ngọc Mai- (Vietnam.net)




Bấy lâu nói về Nguyễn Du ta quen nhìn ông dưới góc độ một nhà thơ, một “nhà nho tài tử”, cho rằng ông chuyên chú nhiều cho văn chương, cuộc đời ông chủ yếu là văn chương, bàng bạc trong văn chương ông là một nỗi suy tư, nỗi buồn dằng dặc (?!). Thực ra khi hữu thời cũng như khi sa cơ ông luôn là một “nhà nho hành đạo”,  một nho quan ôm chí lớn và văn chương chỉ là một phương diện an ủi tâm sự thầm kín. Bởi vậy tìm hiểu Nguyễn Du chúng tôi muốn quay trở lại với lời nhận xét của các cụ về con người toàn vẹn của ông: Tài thư kiếm vang lừng hai vế[i], cả văn lược lẫn võ công mong thức nhận phần nào bề dày, độ lớn con người ông.  Là một nhà thơ lỗi lạc, ông còn là một võ quan nhiều mưu đồ đại nghiệp, một vị văn quan rất biết cách “chăn dân” cũng là một nhà ngoại giao xuất chúng, là một triết gia thâm thúy và cũng là một nhà nông thực tế hữu dụng.

Về văn nghiệp, Nguyễn có một sự nghiệp lẫy lừng.  Giải thích thiên tài của ông chúng ta không loại trừ nhân tố thiên bẩm, nhưng các yếu tố  truyền thống gia đình, cuộc đời riêng đầy sóng gió cũng như bối cảnh một xã hội nhiễu nhương ảnh hưởng không nhỏ.  Trong thiên tài của Nguyễn Du, ông đã thừa hưởng được cái nếp phong lưu của xứ Kinh Bắc nhờ ảnh hưởng của mẹ, đã hưởng được hào khí của đất Hồng Lam quê cha, cùng với lòng tiết nghĩa, khiếu văn chương, do gia phong truyền lại trải bao nhiêu đời.  Nhiều năm sống với bác tại Thăng Long, dấu vết đài các hoa lệ của kinh đô cũng để lại nhiều ấn tượng trong ký ức Nguyễn nhưng bao nhiêu yếu tố đó cũng chưa đủ tạo thành cái tính cách phức tạp và mâu thuẫn của ông, nếu ta không kể đến những ngày tháng loạn ly ông phải sống điền dã nơi hang cùng xóm vắng, trong sự thiếu thốn, lạnh rét như những người loạn dân thời bấy giờ, cũng như những tháng ngày bôn ba xứ người đảm đương trọng trách đại diện cho một triều đình trên đường tuế cống tiếp cận một nền văn hóa, phong tục mới lạ.  Bên cạnh nghìn lần kinh sách ông từng đọc thì nghìn lần gặp gỡ cảnh ngộ sinh dân đã tạo một nền móng cho thiên tài văn chương của Nguyễn.  Văn chương ông không chỉ là nỗi buồn mà còn mang một tâm sự khác, một tâm sự  mà câu thơ trong bài Lam giang  khi nói về nỗi khổ người dân địa phương.

“Muốn đem Thiên Nhẫn sơn, lấp bằng Sông Lam lại” đã gửi gắm.  Nhưng ý nguyện là một chuyện, hành động là một chuyện khác và kết quả lại là một chuyện khác nữa!  Tâm sự cũng như hành trạng của Nguyễn còn nhiều điều phải bàn và đối với chúng ta hôm nay không phải không còn ảnh hưởng.

Về võ công, một điều mà bấy lâu ta ít nhắc đến.  Võ công, hiểu theo nghĩa rộng, như các cụ nói tài thư kiếm, tài thao lược của Nguyễn không phải không làm cho người đời nể trọng.  Đặc điểm này thể hiện qua hành trạng, trách nhiệm, cùng những việc làm, đặc biệt qua tâm trạng, qua ý chí lập thân, cũng như qua tính cách “văn võ song hành”, tư chất văn sĩ, tráng sĩ luôn được nuôi dưỡng và thể hiện trong ông ở những thời điểm quan trọng của đời người.  Có nhà văn khi găp một người là cháu xa đời của Nguyễn Du, người cao lớn, ông liên tưởng đến Nguyễn Du cho là cụ  “có lúc mang gươm làm võ tướng” và nghĩ rằng vóc dáng của “Nguyễn Du cũng không phải là vóc dáng thư sinh mảnh khảnh, yếu đuối”, cũng phần nào thể hiện cốt cách “con nhà võ” đó[ii].

Quả vậy, những năm niên thiếu của Nguyễn là những năm đầy biến động.  Năm 1783, Nguyễn Du thi hương đậu Tam Trường, sau đó ông không tiếp tục thi lên nữa mà sung vào một chức quan võ công cán duới trướng của cha nuôi.  Có việc này là vì lúc bấy giờ Nguyễn Khản, là anh cả của Nguyễn Du đồng thời là thầy dạy chúa Trịnh Tông đang tại chức Thượng thư bộ Lại kiêm trấn thủ Hưng Hóa, Thái Nguyên.  Khản bố trí các em giữ quyền trấn thủ các vùng dưới quyền: Nguyễn Điều, Nguyễn Nễ trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Trứ, Nguyễn Nghi vùng Hưng Hóa, trong đó Nguyễn Du và cha nuôi nắm giữ đội binh hùng hậu nhất (Chánh thủ hiệu quân Hùng hậu hiệu) trấn thủ ở Thái Nguyên.  Nguyễn Du, theo tác giả Phạm Trọng Chánh, từng học võ, kết nghĩa với Nguyễn Đại lang một võ sư người Tàu dưới trướng Nguyễn Khản.  Sau này lúc về sống ở Thái Bình trước khi gặp Gia Long, Nguyễn còn dạy võ và chiêu tập thủ hạ lập đội binh ở vùng quê vợ (Phạm Trọng Chánh - Nguyễn Du từ Thái Nguyên sang Vân Nam -Tạp chí Thơ số 10-2014- tr39).

Ở Bắc dưới thời các chúa Trịnh Giang, Trịnh Doanh và Trịnh Sâm giặc giã nổi lên tứ tung vì tệ tham nhũng, bè phái.  Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương chưa tan, thì Hoàng Công Chất nổi lên từ năm 1739 ở miền Hưng  Hoá và Thanh Hoá,  Lê Duy Mật nổi lên từ năm 1738 đóng giữ miền Trấn Ninh.  Các cuộc khởi nghĩa mới tạm yên thì lại diễn ra cuộc đánh Nguyễn ở miền Nam, dưỡng phụ ông cũng nhiều lần xuất chinh, ông phải trị nhiệm giúp cha.  Rồi nạn Kiêu binh năm 1782, loạn quân giết Hoàng Đình Bảo, phá nhà quan Tham tụng Nguyễn Khản (anh cả Nguyễn Du) cùng là giết quan Thủ hiệu Nguyễn Triêm ngay trước phủ chúa.  Bấy giờ cũng như sau này, khi quân Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Khản và Nguyễn Điều hai anh của Nguyễn Du nhiều lần chạy lên phương bắc để gọi quân các trấn về trừ kiêu binh hoặc chống Tây Sơn.  Những cuộc binh biến này không thể không ảnh hưởng gì đến Nguyễn Du, và Nguyễn không  thể không cùng hai anh mưu đồ bàn bạc kế sách dẫu có nhiều lý do để việc không thành?

Những năm tập chức của cha nuôi, làm Chánh thủ hiệu  ở Thái Nguyên, cùng hai anh chống loạn kiêu binh, rồi chống quân Tây Sơn đã chuẩn bị cho ông ít mưu đồ võ nghiệp, để khi thời thế đổi thay sau này vẫn tiếp tục.  Khi về lánh nạn ở quê vợ làng Hải An huyện Quỳnh Côi xứ Sơn Nam (bây giờ là tỉnh Thái Bình) trong lúc người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn  ra làm quan với Tây Sơn thì ông bí mật tập hợp hào mục tuyển mộ dân binh mưu đồ khôi phục nhà Lê, nhưng chung quy thất bại phải về quê nhà ở Tiên Điền.  Không yên lòng với đại cuôc, một thời gian lại toan kiếm đường vào Gia Định giúp chúa Nguyễn Ánh, nhưng việc tiết lộ, ông bị  tướng Tây Sơn là Thận Quận Công bắt giam.  Đấy là cái tư cách  võ công “muốn hùng binh mấy vạn rắp phen Trương Tử phục Hàn gia” như người đời sau nói về ông.  Sau khi được tha, ông tự thấy mình không làm được người nghĩa sĩ đem thân hy sinh cho chúa đành làm kẻ bình dân giữ trọn tiết trung trinh.

Bên cạnh thể hiện không đậm đặc trong thơ văn, nhưng cũng thoáng ẩn hiện ở nhiều thi tiết đủ cho người đọc kết nối lại đúc thành một nhân vật song toàn thư kiếm. Đó là hình ảnh người tráng sĩ với thanh kiếm dài được nhắc đi nhắc lại chứa chất biết bao tâm trạng.  Hình ảnh người tráng sĩ với thanh kiếm dài khi nói về mình không phải là hình ảnh khoa trương để ám chỉ một kẻ “hào hoa phong nhã” , mà chính là hình ảnh thực của con người Nguyễn với đầy đủ “hai nghề văn võ”  với bao tâm sự trong nhiều hoàn cảnh.  Nguyễn Du mong hành đạo nhưng không đạt ý nguyện!  Đấy là cái tâm tình chua chát của ông  trong những ngày khó khăn Tựa kiếm dài ngạo nghễ ngắm trời xanh, Lăn lộn trong đám bùn dơ ba mươi năm  (Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên, Triển chuyển nê đồ tam thập niên - Khất thực), cũng như tấm lòng nặng trĩu âu lo vì thế sự  Kiếm dài đeo lưng trước gió thu, Đứng lặng trước sân nhìn khóm trúc (Yêu gian trường kiếm quải thu phong , Vô ngôn độc đối đình tiền trúc - Ký hữu).

Và đây là lời bộc bạch chân thành  khi ông tự ngắm lại đời mình:

Hết xuân lại thu đầu bạc thêm, Nghề văn nghề vỏ thảy không thành..

(Thư kiếm vô thành sinh kế xúc , Xuân thu đại tự bạch đầu tân -Tự thán)

Bao ngày tháng trôi đi, bao ước muốn trở thành vô vọng vì sinh kế:

Tráng sĩ bạc đầu than với trời xanh/ Thật khó cho chí lớn với đời nghèo

(Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên/ Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên)

Và phải chăng nhờ cái khí chất tráng sĩ  cũng như cái ý đồ  “Trương Tử phục Hàn gia”( khôi phục cựu triều) này ở trong tính cách, trong tâm hồn mà Nguyễn đã viết một cách đồng cảm sâu xa các thành bại, được mất nơi sự nghiệp của các anh hùng dũng tướng trong Bắc hành tạp lục (Sở Bá Vương, Liễu Hạ Huệ, Chu Lang, Nhạc Vũ, Hàn Tín, Liêm Pha, Kinh Kha…) cũng như Truyện Kiều (Từ Hải), khiến người đời xúc động.

Phất cờ trăm vạn lính qua sông

Dưới đất Yên giao có giáo đồng

Việc trước hai ngàn năm vắng vẻ

Bên thành một bãi cát mênh mông.

(Nơi Hàn Tín luyện binh - bản dịch Lê Thước )

Qua thơ văn, Nguyễn hiện lên như một kẻ “thư-kiếm” luôn song hành, trong một vài tình huống có khi cái khí phách tráng sĩ lại mạnh hơn!  Cho đến sau này khi về ở quê nhà trong các cuộc vui săn bắn trên núi Hồng Lĩnh, cáí tư chất “tráng sĩ” dũng mảnh của ông càng thể hiện rõ mà bình thường ta ít hình dung ra, nó thường bị che lấp sau những câu văn quá ư trang nhã, uyển chuyển!

Việc chăn dân (văn trị): Khi thời thế thay đổi, nhà Tây Sơn thất bại, Nguyễn Ánh thống nhất được Bắc Nam, vua Gia Long xuống chiếu triệu tập những người dòng dõi cựu thần nhà Lê.  Sau nhiều lần lữa, phân vân cuối cùng ông quyết định ra làm quan với nhà Nguyễn.  Tháng tám năm đầu hiệu Gia Long (1802), ông được bổ tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam, tháng mười một được thăng Tri phủ Thường Tín.  Tháng giêng năm sau được thăng hàm Đông Các Học Sĩ và phong tước Du Đức Hầu.  Tháng tư năm Gia Long thứ tám, ông được bổ chức Cai bạ  Quảng Bình, rồi thăng hàm Cần chánh điện Học sĩ.

Những năm làm tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam, tri phủ Thường Tín, rồi cai bạ Quảng Bình, cũng như những năm làm việc tại kinh ông đã nêu một tấm gương mà trong văn tế các cụ đã tổng kết lại.

Khi thủ hiến Tiên châu, khi Thần kinh lĩnh doãn, đức thanh cần thấm thía đến muôn dân.  Ông đã nêu một gương sáng về đức trị dân của một ông quan thanh liêm có một tấm lòng “ái dân” cũng như một chủ trương hành sự rất cần mẫn, hữu dụng.  Qua một số thơ văn nói rõ điều đó.  Ông rất quan tâm đến đời sông dân quê, Quê hương hạn hán làm hại công việc nhà nông (Cố hương cang hạn cửu phương nồng – Ngẫu hứng),  thấy rõ tầm quan trọng của việc nông tang thời kỳ sau chiến tranh  Trong buổi thanh bình không chinh chiến , Trâu bò cáy cuốc  trọng việc nông (Thanh bình thì tiết vô tranh chiến, Ngưu độc ưu sừ chính trọng nông - Pháo đài).

Nổi bật là đức thanh liêm, làm quan lớn mà trong nhà lương thực chỉ đủ ăn:

Hoa vàng, trúc xanh nhìn không nói,

Thu hoạch hàng năm cơm gạo đủ,

Cháu thơ bồng bế tuổi thêm già …

(Hoàng hoa lục trúc lưỡng vong ngôn

Tuế thu truật mễ kham cung khách

Thiên giả tùng niên cập bão tôn.

Tái thử nguyên vận).

Có khi con cái còn lo đói “thập khẩu đề cơ Hoành lĩnh bắc”.

Tại nhiệm tám năm, nhờ thực hiện các chính sách nghiêm minh, đời sống rất là giản dị thanh liêm, chúng dân đều yêu mến.  Nhờ vậy làm quan địa phương chẳng bao lâu thì được về Kinh, phong tước cao, chức lớn lại còn được hai lần cử đi làm sứ thần đại diện triều đinh đi giao thiệp với Trung Hoa. Chúng ta cần hiểu rằng, những năm Nguyễn Du ra làm quan triều Nguyễn là những năm mà trong triều nhiều phe phái ghét ghen, kìm hại lẫn nhau.  Vũ Trinh anh rể Nguyễn Du bị án“trảm giam hậu” cũng nằm trong cái bối cảnh Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc (Những con oanh đẹp trong vườn thượng uyển hay ghen ghét nhau - Tống nhân).  Đó là chưa kể Nguyễn lại thuộc cái phái cựu thần nhà Lê luôn bị chèn lấn nghi kỵ.  Ấy thế mà đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn hình như chẳng có mấy trở ngại, ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng.  Có thể Gia Long trọng tài ông, hoặc tỏ ý rộng rãi để thu phục nhân tâm kẻ sĩ Bắc Hà, đặc biệt đám cựu thần nhà Lê, nhưng cái chính cũng phải dựa vào “đức thanh cần”, năng lực “chăn dân” bao năm của Nguyễn.

Trên con đường hoạn lộ đáng kể nhất là những năm được triều Nguyễn trọng dụng, cử làm Chánh sứ đi tuế cống triều Thanh.  Những ngày tháng đua tài với các sứ thần Hàn, Nhật, tâu trình đối đáp với nhà vua được triều Thanh nể trọng, về sau nhà Nguyễn khen thưởng, tất cả đó đâu phải ở tài văn thơ của Nguyễn mà cái chính là ở cái mưu lược, tài ngoại giao, phẩm cách chính trị  của ông, cố nhiên trong lĩnh vực này chắc cái sở học uyên bác của Nguyễn có góp phần không nhỏ.  Cái đáng quí là trong thời gian đi sứ, Nguyễn Du đã được tận mắt chứng kiến nhiều nỗi oan trái và cuộc sống khổ ải của dân nghèo, sau này đã được tập hợp lại trong tập thơ mang tên Bắc hành tạp lục.  Cũng trong thời gian này Nguyễn Du đã có dịp tìm hiểu sâu nền văn hoá Trung Quốc và với vốn sống đa dạng và tài năng kiệt xuất của mình, hấp thụ tinh hoa hai nền văn hóa để sau khi về nước, ông đã hoàn thành tác phẩm Truyện Kiều, lấy cảm hứng từ tập truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, viết nên một kiệt tác thơ ca trong lịch sử văn chương Việt Nam và thế giới.

Trong chuyến công cán lịch sử này, với đầu óc thực tế của một người làm vườn và một tình yêu thiên nhiên ông cùng người em trai, đã chọn được giống cây hồng quý đem về trồng ở nhà vườn An Hiên (Huế) và ở miệt vườn quê Hà Tĩnh, hiện vẫn  được người dân nâng niu chăm sóc.  Về giống cây hồng mà sứ đoàn Nguyễn Du mang về, tương truyền giống hồng này được nhiều gia đình ở Nghi Xuân, quê hương Nguyễn, nhân giống phát triển nhanh,  trở thành một giống hồng khá nổi tiếng, ngày trước là món quà hàng năm tiến kinh dâng vua gọi là “hồng tiến” (Nghi Xuân hội nhập và phát triển- Đặc san Đảng bộ Nghi Xuân lần 19, tr17).

Nguyễn như đã phân tích, là một đại quí  tộc, một đại thần qua hai triều đại cả võ công, văn trị đều thành tựu, ông còn là một nho sĩ – một trí thức chân chính.  Trong ông như có hai con người: Người quí tộc sống qua hai triều đại tận mắt chứng kiến nhiều hệ lụy phi lý vẫn là người tôn thờ lý tưởng“trung quân ái quốc”, vừa là người trí thức nho sĩ trong khuôn khổ “nhà nho hành đạo” thông cảm nỗi đau nhân quần, thấy nhiều phi lý trong cuộc sống, có lòng tự tôn dân tộc và trách nhiệm cộng đồng.  Nỗi buồn bã u uất trước những bất công của cuộc đời xen lẫn tinh thần trách nhiệm công dân cũng như nỗi chán ghét quan lại triều đình nhưng không xa lìa lý tưởng trung quân ái quốc là những mặt vừa phân ly vừa thống nhất trong con người Nguyễn đã được thể hiện rất rõ trong thơ văn cũng như trong hành xử thường nhật của ông, tạo nên những điều kỳ khu, những mâu thuẫn không dễ giải thích mà người đời hay nhắc đến và riêng ông còn muốn gửi gắm đến ba trăm năm sau.

Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du, sự bất tử, tình yêu của mọi người đối với Nguyễn được ghi lại khá trọn vẹn trong bài bia sau đây nhân dịp kỷ niệm 120 năm ngày mất của cụ:

Hồn vẫn đi về, cảo thơm sực nức

Kiếm gác bên đền, gió mưa vẫn sắc

Bút tựa mặt hồ, trăng sao vằng vặc

Cảnh ấy bia này, nghìn thu dằng dặc [iii].

Cuộc sống, lý tưởng, hoài vọng, tâm trạng của Nguyễn Du nhiều sắc thái, cung bậc, ngắm nhìn bức chân dung tinh thần của ông nếu chỉ nhìn một phía chắc khó nhận ra, chúng tôi nghĩ bức chân dung đó chắc còn nhiều ảnh hưởng, gợi nhiều suy cảm cho giới văn nhân hôm nay.

 

Yên Nhi

 



[i]    Đào Tử Minh - Văn truy điệu Nguyễn Du -   Hội Tri Tân - ngày 10/8 Giáp thân (1944)

[ii]   “...Đến Tiên Điền thì đoàn có gặp được chắt Châu (?) là cháu xa đời cụ Nguyễn Du. Cụ người cao lớn (có thể suy ra là Nguyễn Du cũng không phải là vóc dáng thư sinh mảnh khảnh, yếu đuối nên có lúc mang gươm làm võ tướng!).”

     Nguyễn Văn Hoàn - Hồi ức về việc kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du ( 1965).

     Vĩ thanh ( Mai Quốc Liên) - Tc Hồn Việt số 80, 2014

[iii]  Phó bảng Ưu Thiên Bùi Kỷ bái thảo - Văn bia - Ngày rằm tháng hai năm Kỷ Tỵ , niên hiệu    Bảo Đại thứ tư, Hội Khai trí Tiến Đức cẩn chi .

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
05 Tháng Mười Một 201112:00 SA(Xem: 116993)
N hà thờ vắng vẻ. Những hàng ghế trống im lìm. Chúng tôi đứng cạnh nhau sau hàng ghế cuối, tôi bảo nàng nhìn lên tượng Chúa và im lặng. Rất trang trọng, mấy phút sau tôi hỏi nàng, Kim có biết tôi vừa nói gì với Chúa không. Nàng gật đầu, mắt long lanh ướt. Tôi thầm cám ơn Chúa và nắm tay Kim rời nhà thờ. Tôi đã cầu hôn nàng như thế đó.
25 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 91661)
H ợp Lưu 115 đến với quí độc giả và văn hữu vào những ngày cuối tháng Mười khi “Cuộc cách mạnh Mùa Xuân Ả Rập” ở Lybia đã thành công bằng sự ra đi vĩnh viễn của Gaddafi, một tin ngắn của Reuters cho biết: “Ông Gaddafi và con trai đã bị thương, bị bắt sống nhưng sau đó đã chết. Theo truyền thống Hồi giáo, người chết phải chôn cất trong vòng một ngày, nên việc trưng bày xác chết cho người xem trong nhiều ngày đã làm cho nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng […]mọi người và các nhà lãnh đạo Libya đều đến xem xác Gaddafi để rút bài học và đừng bao giờ đàn áp người dân.” Đoạn tin trên khiến cho chúng ta liên tưởng đến nhiều việc...
23 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89144)
C uộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 , trên bối cảnh liên hệ ngày một xấu đi giữa Bộ Ngoại Giao Mỹ và chính phủ Ngô Đình Diệm trong hai năm 1962-1963. Mặc dù chỉ nhấn mạnh vào cuộc tự thiêu bi tráng của Thượng tọa Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963 [...] “Vài Ý Nghĩ Về Thượng Tọa Thích Quảng Đức” công bố lần đầu tiên một số tài liệu văn khố Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa và Phủ Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa, giúp vùi chôn một lần và mãi mãi loại sử văn suy tôn, nhớ ơn và đào mộ. Tạp Chí Hợp Lưu
23 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 105706)
D ưới tiểu tựa Vài Vấn Nạn Lịch Sử Thế Kỷ XX, tác giả đưa ra hai vấn nạn từng bị xuyên tạc trầm trọng bởi các hệ thống tuyên truyền của nhiều hơn vài ba thế lực chính trị. Vấn nạn thứ nhất là vai trò nhà ngoại giao của ông Hồ Chí Minh (1892-1969), Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ 1945 tới 1969, trong giai đoạn 1945-1946, một giai đoạn cực kỳ quan trọng cho sự sống còn của nhà nước Việt Nam hiện nay [...] Vấn nạn thứ hai là cuộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, trên bối cảnh liên hệ ngày một xấu đi giữa Bộ Ngoại Giao Mỹ và chính phủ Ngô Đình Diệm trong hai năm 1962-1963...
16 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89009)
H iệp ước sơ bộ 6/3/1946 [Convention priliminaire de 6 mars 1946] là văn kiện ngoại giao đầu tiên ký giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] với đại diện Cộng Hòa Pháp tại Đông Dương, qua trung gian chính phủ Trùng Khánh. Mặc dù chỉ có tính cách tạm thời, văn kiện này công nhận sự hiện hữu của VNDCCH. Nó chính thức cải biến, nói theo các viên chức Bri-tên và Pháp, một thực thể chính trị “sinh ra trong hỗn loạn” thành một chính phủ lâm thời, của một “nước tự do” [un état libre] “có quốc hội, quân đội, tài chính và ngoại giao riêng,” nằm trong Liên Bang Đông Dương và Khối Liên Hiệp Pháp.( 1)
15 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 101566)
N hạc sĩ Phạm Duy có cái nhìn xuyên suốt, không rào cản so với nhạc sĩ cùng thời. Người lắng nghe giao thoa những tiến triển nền âm nhạc Việt so với thế giới từ những năm 1930 cho đến nay.Từ cái bắt gặp đầu tiên trên bộ đồ bà ba xanh, đôi mắt sáng trên vành tai thính âm tài hoa ấy. Nhạc sĩ Phạm Duy chợt cười, nụ cười nhéo mắt luôn điểm lại con người ấy từng nốt nhạc vượt không gian thời gian. Hồn nhiên Phạm Duy cười nói: : “Tôi có hai con mắt, một con trái mắt tỉnh tảo thực tế với dòng đời. Và mắt phải luôn làm việc sáng tạo.” Cuộc phỏng vấn sau đây ghi lại một vài nét về cuộc đời nhạc sĩ Phạm Duy với thế hệ trẻ tại Việt Nam đang muốn cùng ông bày tỏ tâm sự.
14 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 96591)
T rong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết có bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89421)
T rần Hoài Thư đến với văn chương rất sớm, sớm hơn truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1965. Và nếu phân chia các giai đoạn văn học miền Nam theo cách của Võ Phiến (xem Văn Học Miền Nam, tập tổng quan, nxb Văn Nghệ, Hoa Kỳ 2000) thì Trần Hoài Thư được xếp vào ( Những Cây Bút Trẻ , theo cách gọi thời đó) giai đoạn 1964-1975 giai đoạn mà chiến cuộc bắt đầu bùng nổ dữ dội.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 118985)
Đ ó là Tetbury, một thành phố thơ mộng nằm về phía nam Luân Đôn khoảng 200 cây số (?).Tôi chỉ nhớ phải mất ba giờ lái xe để đến nơi. Thành phố nhỏ, những con đường dốc, hẹp. Nhà với mái xuôi nhọn hoắt, nằm liền nhau, phần lớn mở shop bày bán đồ cổ, quán ăn uống, tiệm cà phê.
08 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 105286)
... k ể từ hôm nay(Oct 8-2011) , người ta không còn mua vi cá ở California được nữa. Thống Đốc tiểu bang California đã ký ban hành luật cấm thủ đắc và bán vi cá nhập cảng vào California. Trong bản tuyên bố sau khi ký ban hành luật, Thống Đốc Jerry Brown nói rằng việc cắt những vi của những con cá mập còn sống và ném thân chúng xuống biển không những là hành động tàn bạo mà còn làm ô nhiễm nước biển.