- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

HƯƠNG VÔ HƯƠNG

18 Tháng Hai 20156:51 SA(Xem: 28284)
ChoHoa-BW


Tết thường được nhắc đến với những món ăn đặc trưng “thịt mỡ dưa hành,” và những mùi hương gây nhớ “thoảng mùi khói pháo thoảng mùi nhang.”  Nhưng mỗi đứa trẻ mang theo nó một món ăn một hình ảnh một mùi hương riêng, không hẳn giống như những gì chúng ta thường gợi nhắc.

 

Với tôi, hương Tết bắt đầu từ mùi khói củi của bếp nhà hàng xóm nấu bánh chưng.  Mượn cái tường nhà lân cận, chỗ nhà thụt ra thụt vào thành góc, má thằng Lù sẽ đặt nồi nấu bánh chưng.  Kê cái thùng phi đã được chế biến thêm 2 quai lên 3 chồng gạch, xếp bánh chưng vào, đổ nước và nổi lửa.  Nhúm một bếp củi không phải là dễ, củi ướt: không cháy, củi có mắt: không cháy, củi gỗ: mau tàn, hay gẫy.  Nhưng má thằng Lù là người đàn bà đảm đang, chỉ một loáng là lửa đã cháy ngỏn ngoẻn.  Thằng Lù phe phẩy đứng bên, chờ Bố với Má sai canh chừng nồi bánh thì kể như trúng mánh được thức đêm, nhưng má nó đã xua tay đuổi nó vào nhà.  Cái mối canh bánh chưng là của anh Hùng tôi cùng lũ bạn nhân dân tự vệ như Ba Gà, anh Ngọc, Khánh băng, Thắng Đinh tiệm (tôi quên chưa bao giờ hỏi anh ý nghĩa cái tên này).  Khi lửa đã cháy ngọt, nồi bánh bắt đầu sôi, má thằng Lù coi đồng hồ và giao lại cho anh tôi dặn dò cách châm thêm nước.  Bên cạnh cái bếp to đùng đó phải có một bếp nhỏ nấu nước sôi sẵn, để khi nồi bánh chưng cạn nước thì châm thêm vào.

 

Anh Hùng bắt đầu dạo đàn.  “Tôi thường đi đó đây…” anh hát một lèo 3, 4 bài nhạc lính, hát rất ngọt và giọng rất chuẩn, anh vẫn còn nói được giọng Bắc chứ không lai căng như lũ em.  Bây giờ đàn chuyển qua tay anh Ngọc, anh Hùng ngồi hút thuốc.  Anh Ngọc thường thích hát những bài nhạc tình nhẹ nhàng, “tôi đưa em sang sông, chiều xưa mưa rơi âm thầm…”  Anh nói giọng Nam nhưng gốc Bắc và cũng hát rất êm.  Lửa bùng tỏa hơi ấm, đã bắt đầu có than, anh Hùng sai Khánh băng đi mua bắp và khoai lang về lùi vào đống than để ăn chơi cho thơm râu!  Đám trẻ ham vui từ từ kéo vây quanh để nghe hát, để hóng mấy anh lớn cợt đùa.  Thằng Lù đứng trên ban công ngó xuống thèm thuồng, nhưng Bố nó canh nó dữ lắm, sợ nó lêu lổng nên không cho đàn đúm bao giờ (kết quả: vừa hết lớp 12 má nó phải lật đật đem trầu cau tới hỏi cô nữ sinh chung lớp vì nàng đã có bầu).

 

Đã qua một đợt củi, một đợt châm nước.  Bây giờ nhà nào cũng đã gọi con về đóng cửa tắt đèn, ban văn nghệ bánh chưng phải hạ đàn sợ bà con chửi.  Các anh bắt đầu thay phiên nhau đứng lên đi đây đi kia, đi mua cà phê thuốc lá, về qua nhà cho ông bà bô thấy mặt, v.v…  riêng anh Hùng tôi ngồi nguyên chỗ, vì nhà tôi sát vách nhà thằng Lù, ngay sau lưng nồi bánh chưng.

 

Tôi cũng phải vào nhà giắt mùng đi ngủ, nhưng không ngủ được.  Tiếng củi lách tách, tiếng các anh nói lao xao nhỏ nhỏ trong đêm vắng như một tiếng gọi, như một khoảng trời, một đời sống mà tôi không biết nên ước ao.  Mà bé như vậy thì biết cái gì là cái gì mà ước ao.  Tôi ngủ ngon lành trong cái ấm áp của khói củi, và dường như một lúc nào đó trong đêm vắng tôi thức giấc vì mùi thơm của lá tỏa ấm áp quanh xóm nhỏ. 

 

Sáng dậy, tôi chạy liền ra cửa.  Trong hơi sương sớm, khói củi chỉ còn vương nơi những tấm cạc tông che bếp, nhưng mùi lá nồng ấm trong gió thoảng.  Cả xóm như hớn hở dù bánh là của nhà thằng Lù chứ đâu phải của chung.  Mấy anh lấy một cái đòn xiên qua 2 cái quai ở miệng thùng phi để khiêng thùng bánh ra gần nắp cống chắt bớt nước và để dẹp bếp.  Má thằng Lù bắt đầu lùa 8 đứa con ra để sai vặt, nói cho đúng chỉ có 4 đứa lớn sai được, còn thì lấn quấn một lát bị đuổi vào hết.  Má thằng Lù dọn trống cái hè trước, trải giấy báo thật dầy, rồi bắt đầu xếp bánh ra thành 2 dẫy dài.  Bà đè một cánh cửa lên rồi sai thằng Lù và em nó xếp mấy khối gạch vuông lên tấm cửa để ép bánh chưng cho ra hết nước.  Đến chiều, chị Thảo chị Hương ra gỡ giây lạt sũng nước từ những chiếc bánh mới luộc xong.  Bây giờ tới phiên bà Thảo “lao động.”  Bà lấy mớ giây lạt đã cắt sẵn và ngâm mềm cột mỗi cái bánh bốn sợi dây trông tươi mới và vuông vức như một bàn cờ tí hon; bánh chưng thoắt chốc như có tấm áo mới, mỗi cái bánh hoàn tất để qua một bên đều như là một đóa hoa mai nở trong mắt tôi.  Tôi ước ao nhà mình cũng gói bánh nấu bánh như nhà thằng Lù, trong khi nó thì dành môi ra vẻ ngao ngán.

 

Nó chẳng ngao ngán được lâu, tôi chẳng bao giờ được thỏa nguyện, vì chỉ qua một năm là qua một chặng khốc liệt của chiến tranh.  Nhà nào cũng lo lắng bị pháo kích phải tản cư thì còn ai đâu để gói bánh.  Tôi chẳng còn được ngửi mùi khói củi, mùi lá nấu chín, mùi nồng ấm của bếp lửa trong đêm khuya… 

 

Nhưng đang tuổi lớn người ta chóng quên vì có quá nhiều thứ mở ra trước mắt, tôi đã bước vào trung học và đã biết săm soi rộn ràng ngày Tết được sắm quần áo mới.  Má dắt lũ chúng tôi đi mua vải ở chợ Bến Thành.  Giá cả đắt đỏ, má kỳ kèo so đo trả giá từ chút, đi từ sáng 10 giờ đến trưa vẫn chưa mua được một món hàng, vì khi mua là phải mua cho cả 2 đứa con gái giống nhau, 2 đứa con trai giống nhau; một thói quen đáng yêu (nhưng tôi không thích mấy) của mấy ông bà già xưa là cho con ăn mặc đồng loạt _ không biết vì mua nhiều tiết kiệm được chút ít hay vì thích “cúc vạn thọ” ?

 

Mua xong được vải may quần áo thì tôi đã ngửi được mùi chiếc áo mới còn đang nằm ở tiệm may!!!  Ngày ngày đi học về tôi đều phải lượn qua nhà may Thành đầu chợ Vườn Chuối chỉ để ngó vào tiệm dõi xem bà chủ hay các cô thợ may có ai đang cầm đang cắt tấm áo má đã gửi may cho chúng tôi; nhưng tôi luôn thất vọng, năm này qua năm khác, chả bao giờ bắt gặp được món quà Tết của mình đang lúc thành hình.  Đến ngày thử áo, tôi ngõm ngọi đợi chờ, mong sao chóng xong bữa cơm chiều để nhắc má dẫn ra tiệm lấy áo.  Đi bên má tôi thầm cầu sao má hài lòng không bắt thợ sửa đi sửa lại, để tôi được ôm về tấm áo mới mà hít hà.

 

Tấm áo mới, riêng với mũi tôi vẫn còn mang hương vải mới chưa một lần giặt, và dường như thoảng chút mùi phấn vạch, dù tôi vẫn cho rằng phấn thợ may chả có mùi gì.  Tôi sung sướng đặt gói áo bên cạnh lúc ngủ, vì ngày mai má sẽ bảo giặt đi cho hết lằn phấn, xem vải có rút không vân vân…  Khi tấm áo đã ủi xong chờ ngày mùng một Tết mới được mặc, dù lòng tôi vẫn rộn ràng nô nức, mùi hương Tết bỗng đã có chút lạt phai. 

 

Mỗi năm qua đi mỗi lạt lẽo.  Bây giờ ở đây, cây trái to dòn ngon mắt mà hương vị chả như xưa, bánh mứt đủ đầy mà hương Tết dường chỉ là hơi gió lạnh, tôi  thèm ước sao cái mùi khói cay nồng năm cũ, tôi thèm mùi vải của tấm áo mới hàng năm.  Hương kỷ niệm hình như chỉ là thứ hương vô hương trong lòng.

 

 

Lưu Na

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
26 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 99056)
Á Nam Trần Tuấn Khải sinh năm 1894 tại làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, mất năm 1983 tại Sài Gòn, thọ đúng 90 tuổi ta. Cuộc đời ông trải qua hầu hết những giai đoạn thăng trầm nhất, chứng kiến hầu hết những biến cố quan trọng nhất của lịch sử cận hiện đại Việt Nam. Ông cũng chứng kiến hầu hết những cuộc đổi thay của văn học hiện đại Việt Nam, từ sự ra đi của thơ Cũ đến sự xuất hiện của Phong trào thơ Mới, của Tự lực văn đoàn, đến các trường phái, trào lưu, khuynh hướng, chủ thuyết văn học cả tư bản và cộng sản gần suốt thế kỷ XX.
25 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 106003)
... T ôi cảm thấy mình như Từ Thức trở về, không còn ai biết mình, nhớ ra mình là ai, đôi khi lại còn bị đối xử một cách bất thường. Những lưu luyến với quê hương càng ngày càng như những rễ cây khô cố bám víu vào nền đất phù sa hai bên bờ sông, chưa biết ngày nào bị nước cuốn trôi đi...
21 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 91287)
“Đến bây giờ tôi còn thương mấy con ếch báo thức; chúng là những con ếch đầu đàn, ngủ đông trong hang, nấc lên tiếng gọi đầu tiên đánh thức đàn ếch chui ra khỏi hang mà vào cuộc sinh nở với mùa xuân. Nhưng các nhà "tiên tri ếch, kẻ đánh thức đồng loại" dậy đón xuân kia đã bằng tiếng ồm ộp của mình báo rằng: lạy ông tôi ở bụi này. Mấy tay bắt ếch chuyên nghiệp nghe tiếng kêu thức tỉnh đồng loại của dũng tướng ếch cách mạng kia bèn chộp chú liền, cho vào giỏ về thịt; vào giỏ rồi mà chú vẫn uôm uôm! Vẫn báo cho đồng loại dậy mau mà chạy đi, mà vọt xuống ao kịp trốn ... . " (Trần Mạnh Hảo)
21 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 105467)
LTS : Nguyễn Thi Quyên, hiện là Nghiên cứu sinh ngành Văn học so sánh tại Đại học Strasbourg, Cộng Hòa Pháp. Câu chuyện về Trương Chi đã được tác giả viết trong một đêm mưa như gửi tiếng lòng về với quê hương xa xôi.Tạp chí Hợp Lưu trân trọng giới thiệu “Trương Chi” đến cùng quí độc giả và văn hữu khắp nơi. Tạp Chí Hợp Lưu
21 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 105048)
P l ease help us to secure the immediate and unconditional release of Viet Khang
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 126575)
l à ngày em không còn nghĩ về anh nữa sự tự tin của anh không đủ giữ gìn những kí ức về nhau
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 40935)
Lời toà soạn: Mùa thu năm rồi, dưới sự bảo trợ của chương trình học bổng Fulbright của Hoa Kỳ,Giáo sư Tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP-HCM/Sàigòn, đã có mặt tại Hoa Kỳ để thu thập chất liệu cho dự án nghiên cứu về các nhà văn nữ Việt tại hải ngoại. Trong dịp này, chị đã có dịp tiếp xúc với nhà văn/nhà báo Trùng Dương, cũng là một thành viên Fulbright của niên khoá 1990-91, và là một trong năm nhà văn nữ nổi tiếng nhất của nền văn học Miền Nam 1954-1975. Sau đây là cuộc nói chuyện giữa hai thế hệ văn học từ hai môi trường khác biệt, mà nhà văn Trùng Dương đã, với sự đồng ý của người phỏng vấn, dành cho tạp chí Hợp Lưu ...
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 94490)
Q uốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tập thơ cổ nhất hiện nay chúng ta còn giữ được. Trước nay, tập thơ này luôn được các nhà nghiên cứu coi là tư liệu đặc biệt quý hiếm để nghiên cứu về ngôn ngữ và văn học Việt Nam thời Cổ- Trung đại, cụ thể là ngôn ngữ thơ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV. Đã có nhiều bản phiên âm chú thích của nhiều thế hệ học giả trong hơn năm mươi năm qua về văn bản này, cũng đã có nhiều bài viết và một số ít chuyên luận nghiên cứu riêng biệt về nguồn ngữ liệu phong phú này. Bài viết sẽ tiến hành khảo sát một số trường hợp trong ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi ...
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 89483)
T rong đời Nguyễn Du có ba sự việc liên can đến Trung Quốc:Năm  1803 , Nguyễn Du được cử lên  ải Nam Quan tiếp sứ  nhà Thanh sang phong sắc cho vua  Gia Long . Năm  1813 ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm chánh sứ tại  nhà Thanh cho đến  1814 . Năm  1820 Gia Long qua đời,  Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang  nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết...
17 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 103187)
C on tàu lùi lũi rời thành phố giữa lúc từng cơn mưa bụi gối lên nhau mê mải, những cung đường lồng lộng mở ra trước mắt. Phía sau lưng, thành phố đông đúc và ẩm ướt khuất dần. Ngày ra mắt họ hàng, anh cũng đưa chị về trên chuyến tàu như thế. Cũng một ngày mưa bụi gối lên nhau.