Tôi yêu Anh – và Anh yêu tôi Biết thế thôi, cần gì phải nói! Tình Yêu ơi, Thiên Đường rộng lối Chủ Nhật không cần đi lễ cầu kinh
Tôi đã đi thui thủi một mình Những chiều mưa tơi bời rách mặt Ngày Anh đến cả đất trời biến sắc Tôi ngã sõng soài trên mê lộ Tình Yêu
Có gì đâu! Chắc tại uống nhiều Nên lóng ngóng muộn phiền đủ kiểu Tình Yêu tôi xin đừng ai hiểu! Chủ Nhật vô tình… Xin Chúa hãy làm ngơ!
“Con đã yêu- yêu đến cả trong mơ Con đã yêu- yêu đến hết dại khờ Con đã yêu nên sẽ đợi chờ một ngày Chúa Nhật đóng mình vào Thập Giá…”
HDP
5.
CON là chồi non biếc thắm đời BA Cho BA nghe giấc phù sinh thêm ngàn lần lãng mạn Có phải CON là ánh sáng dương xán lạn Môi BA hôn đời chạm đỉnh hồng quang
Từ Tình Yêu và không phải Tình Yêu Chồi non CON cựa mình độ lượng Cuộc đời BA nhiều lẽ vô thường CON có hiểu hỡi tinh cầu bé bỏng ?
CON là tinh cầu chứa đầy khát vọng Của riêng BA- chỉ riêng một mình BA BA yêu CON vì CON là tất cả Là sinh linh hữu tình trên cõi tạm đời BA
Là vô cùng lẽ sống của Mẹ-Cha…
HDP
6.
Mùa hạ đang rất chông chênh dù bước chân ta không bước ra từ giông bão Lên thuyền đi Em đừng ngó nghiêng kiếm tìm chút bình yên ảo nắng! Trái tim Anh thắp lửa một mặt trời trong mưa
Mùa nào cũng đều sẽ chông chênh nếu để Em là người cầm lái Có không sóng gió biết ngập ngừng? Lên thuyền đi Em và nghe Anh, hãy ngồi ngoan đấy!
Thuyền có trôi qua thác ghềnh nào cũng vậy Em cứ hồn nhiên ôm hôn Anh như mây Bóng mây trong giấc mơ đêm nào Em đã thấy Quyện giăng rực rỡ mặt trời
Cửa ngõ Thiên Đường ngày ta đến sẽ mưa
HDP
7.
Con đường đã chọn để cùng đi có quá nhiều trắc trở Sao ta cứ cần nhau như hơi thở Đêm mông lung nỗi nhớ vô cùng Giấc mơ trắng bùng lên giấc trắng Anh có thấy Em?
Luôn cười và nhẹ nhàng bước qua! - lời Anh như Thánh lệnh Mà sao nhiều khi hai đứa thật buồn Có phải những lúc ấy Thiên Sứ mù lòa gãy cánh đi rong?
Chẳng có gì khiến ta phải nao lòng - Anh nói Anh sẽ cõng Em đi Anh nói... Anh nói... Anh nói...
Con đường đã chọn để cùng đi - con đường đầy biển cấm Hãy cứ như hai Thiên Sứ mù lòa mất cánh - mình cùng cõng câm lặng
đi qua!
HDP / SG 23.4.2014
8.
Có một mùi hương rất lạ không đến từ thịt da Như bao mùi hương tôi đã từng bị quyến rũ Mùi hương Em ấm nồng cảm thụ Giấc ngủ tôi vô trùng siêu thoát mọi ưu tư...
Có một mùi hương thực tại chối từ Bởi trong lành ngạt ngào hơn gió biếc Dồn đuổi xót xa lên đỉnh sầu hoan liệt Mùi hương lặng thầm tôi phảng phất mơ bay...
HDP
9.
Muốn viết cho Anh... điều gì đó trong Em không rõ
Chẳng có cơn mơ nào đi ngang đây!
Nụ hôn trong giấc Thơ đêm ấy trầm nhiên như cỏ cây vờn qua da gió...
Em muốn hát ru Anh cho một lần cảm ơn nụ hôn bình yên đó Đôi ta đã cùng say giấc mộng không ngục tù
Em muốn viết cho Anh Em muốn hát ru Anh đến cuối cùng hơi thở...
Có những giấc mơ và nhiều nụ hôn rất khác Mà đời mình đâu có khác gì nhau!
Những tác phẩm do TẠP CHÍ HỢP-LƯU xuất bản:Hiện có bán qua hệ thống Amazon phát hành toàn cầu. Và SÁCH MỚI CỦA NXB TẠP CHÍ HỢP-LƯU 11-2019
Hiện có bán qua hệ thống phát hành LuLu.com.
Petrus Key, sau này đổi thành Petrus Trương Vĩnh Ký, P.J.B. Trương Vĩnh Ký, Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký, hay Petrus Ký, thường được coi như một văn hào của miền Nam dưới thời Pháp thuộc. Có người xưng tụng Petrus Key như “đại ái quốc,” “đại học giả,” “bác học,” thông thạo tới “26 thứ tiếng.” Dưới thời Pháp thuộc (1859-1945, 1949-1955), rồi Cộng Hòa Nam Kỳ Quốc (1/6/1946-15/5/1948), Quốc Gia Việt Nam (1/7/1949-26/10/1955), và Việt Nam Cộng Hòa (26/10/1955-30/4/1975), người ta lấy tên Petrus Key (Ký) đặt cho trường trung học công lập [lycée] lớn nhất ở Sài Gòn, đúc tượng để ghi công lao, v.. v... danh nhân này. Với chương trình giáo dục tổng quát nhiều hạn chế (nhắm mục đích ngu dân [obscuranticisme] và ràng buộc trâu ngựa [cơ mi]),[1] được đặt tên cho trường công lập lớn nhất miền Nam là vinh dự không nhỏ; vì nơi đây chỉ có con ông cháu cha cùng những học sinh xuất sắc được thu nhận, qua các kỳ thi tuyển khó khăn.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ là thầy dạy tôi. Thầy sinh năm 1923, năm nay tròn 100, còn tôi sanh năm 1936, thầy hơn tôi 13 tuổi, năm nay tôi cũng đã 87. Tính ra năm thầy dậy tôi cách đây đã đến 70 năm rồi. Ở cái thời mà ai cũng gọi người dậy học là “Thầy”, dù là từ lớp vỡ lòng cho đến hết lớp trung học chứ không gọi là “Giáo sư” như những năm sau này. Mà người đi học thì gọi là “Học trò” chứ ít ai gọi là “Học sinh”. Thầy dậy tại trường Chu Văn An năm nào, thì tôi được học thầy năm đó. Tôi không còn nhớ mấy năm, nhưng đọc tiểu sử của thầy, trên mạng Wikipedia cho biết thầy chỉ dậy ở trường CVA có một năm 52-53, sau khi thầy dậy ở Nam Định một năm 51-52. Trang mạng này, có ghi thầy di cư vào Nam năm 54, đoạn sau lại ghi thầy dậy trường Trần Lục tại Saigon năm 53-60. Tôi không nghĩ rằng hai trường Công Giáo Trần Lục và Hồ Ngọc Cẩn dọn vào Saigon trước năm 54.
Nguyễn Du chỉ thốt lên một lần duy nhất: Ta vốn có tính yêu núi khi ông Bắc hành, ở đoạn cuối sứ trình; nhưng cái tính đó, ông đã bộc lộ biết bao lần trong 254 bài qua cả ba tập thơ chữ Hán của mình! Ai ham đọc sách mà không biết câu nói có tự cổ xưa: Trí giả lạc thủy, nhân giả lạc sơn (Kẻ trí thì vui với sông nước, người nhân thì vui với núi non); song cái ý tưởng sách vở thể hiện khát vọng thoát tục thanh cao, mơ ước được tựa vào non xanh để tìm sự yên tĩnh vĩnh hằng của nội tâm đó đã được Nguyễn Du trải nghiệm bằng toàn bộ cảm giác buồn, vui, qua các đoạn đời phong trần của mình, và ông miêu tả chúng qua bao vần thơ chữ Hán thực thấm thía, rung động.
bạn có thể vừa đi làn trái, lại cũng đi được luôn cả làn phải không hề lăn tăn chi? / và bạn quả thật (đang) làm được thế ư, thậm chí còn nhiều hơn? / vậy bạn đáng nể quá rồi / người siêu nhất trần gian!
Võ Tòng Xuân, sinh ngày 6 tháng 9 năm 1940 (tuổi con rồng / Canh Thìn), tại làng Ba Chúc trong vùng Thất Sơn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Xuất thân từ một gia đình nghèo với 5 anh em. Học xong trung học đệ nhất cấp, VTX lên Sài Gòn sớm, sống tự lập, vất vả vừa đi học vừa đi làm để cải thiện sinh kế gia đình và nuôi các em... Miền Nam năm 1972, đang giữa cuộc chiến tranh Bắc Nam rất khốc liệt – giữa Mùa Hè Đỏ Lửa, Đại học Cần Thơ lúc đó là đại học duy nhất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), được thành lập từ 31/03/1966 thời Việt Nam Cộng Hòa đang trên đà phát triển mạnh, và đã có khóa tốt nghiệp đầu tiên ra trường (1970). Võ Tòng Xuân đã được GS Nguyễn Duy Xuân (1970-1975) – là Viện trưởng thứ hai sau GS Phạm Hoàng Hộ (1966-1970), viết thư mời ông về phụ trách khoa nông nghiệp – lúc đó trường vẫn còn là có tên là Cao Đẳng Nông nghiệp, với tư cách một chuyên gia về lúa.
Được tin buồn:
cụ ông ĐẶNG VĂN NGỮ
(Thân phụ của anh Đặng Hiền, cựu hs PTG ĐN niên khoá 75)
Sinh năm: 1933
Đã từ trần vào ngày 06 tháng 12 năm 2022
(nhằm ngày 13 tháng 11 năm Nhâm Dần)
Hưởng Thọ: 90 Tuổi
Nhận được tin buồn:
Thân phụ nhà thơ Đặng Hiền, chủ biên tạp chí Hợp Lưu
Là Cụ Ông Đặng Văn Ngữ
Pháp danh: Minh Pháp
Sinh năm Quý Dậu (1933) tại Đà Nẵng, Việt Nam.
Đã tạ thế ngày 06 tháng 12 năm 2022 tại California, USA.
Hưởng thượng thọ 90 tuổi.
Xin thành kính phân ưu cùng nhà thơ Đặng Hiền và tang gia
Nhận được tin buồn
Phu quân của Cụ bà Trần Thị Y
Cụ ông ĐẶNG VĂN NGỮ
Pháp Danh MINH PHÁP
Tuổi Quý Dậu (1933)
Đã tạ thế ngày 06 tháng 12, năm 2022, tại Fountain Valley, California,
Hưởng thượng thọ 90 tuổi.
Được tin thân phụ nhà thơ Đặng-Hiền, Chủ Biên Tạp Chí Hợp-Lưu là
Cụ Ông ĐẶNG VĂN NGỮ,
Pháp danh MINH PHÁP,
Vừa tạ thế ngày 6 tháng 12 năm 2022 tại California,
hưởng thượng thọ 90 tuổi .
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.