- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Mậu Thân 1968: Thắng Hay Bại? - Phụ Chú & Phụ Bản

26 Tháng Chín 200812:00 SA(Xem: 9304)
Phụ chú:

1. Xem Vũ Ngự Chiêu, “Social and Cultural Change in Vietnam between 1940 and 1946;” Part III: “Brutality of World Politics;” Ph.D. Dissertation, 1984, UW-Madison. Xem thêm Idem., “Hồ Chí Minh – Nhà Ngoại Giao, 1945 - 1946;” Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 84, tháng 8 - 9/2005, tr. 152-193. Bài này cũng đã được phổ biến trên nguyệt san Đi Tới (Québec, Canada, 2004), nhật báo Người Việt (Santa Ana, CA, 2004), cùng nhiều websites như Chuyển Luân, Diễn Đàn Dân Chủ, v.. v... năm 2004.

2. Thí nghiệm Bảo Đại chính thức khai sinh qua việc trao đổi văn thư giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại ngày 8/3/1949, thường được biết như Hiệp ước Elysée. Tuy nhiên, từ năm 1948, Pháp đã cho thành lập chính phủ lâm thời Việt Nam, với Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tương. Xem các văn kiện liên hệ trong Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, tập I - B: 1947 - 1954 (Houton: Văn Hóa, 1997). Phe chống Cộng thường tuyên truyền rằng Hiệp ước Elysée này cho Quốc Gia Việt Nam nhiều quyền hơn hai Tạm ước 6/3/1946 và 14/9/1946 mà Hồ Chí Minh đã ký kết với Pháp. Thực tế, Hiệp ước Elysée chỉ có hình thức, thiếu thực chất. Nó cũng tiếp sức đẩy Hồ vào sâu hơn khối Cộng Sản.

3. Xem, chẳng hạn, những công điện của Mao từ Mat-scơ-va gửi về Bắc Kinh và báo cáo của Molotov trong hai tháng 12/1949 và tháng 1/1950. Xem thêm Quiang Zhai, China and the Vietnam Wars, 1950 - 1975 (Chapel Hill: The Univ. of North Carolina Press, 2000), ch. I.

4. Chính phủ Ngô Đình Diệm (1954 - 1963) đã từ chối hiệp thương và tổng tuyển cử với lý do “không ký Hiệp định,” và “không có tự do bầu cử ở miền Bắc.” Đúng ra là phe Quốc Gia Việt Nam không được quyền dự những buổi mật đàm về quân sự cũng như chính trị. Xem Chính Đạo, Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng (Houston: Văn Hoá, 2004). Xem thêm Bernard B. Fall, The Two Vietnams: A Political and Military Analysis (New York: Praeger, 1964).

5. Xem Philip Catton, Diem’s Final Failure (Lawrence, Kansas: Univ. of Kansas Press, 2002). Dù trọng tâm sách là Ấp Chiến Lược, nhờ được tham khảo tư liệu của rất nhiều văn khố, kể cả văn khố VNCH, Catton đã xuất sắc tiếp cận vấn đề nông thôn của Việt Nam. Khuyết điểm duy nhất là tác giả không khai triển vấn đề tinh thần “thánh chiến” của cả hai phe Cộng Sản và Ki-tô. Vài biên khảo khác của các tác giả Việt, như Lâm Thanh Liêm, không sử dụng tài liệu văn khố VNCH hay VNDCCH.

6. Văn Kiện Đảng Toàn Tập [VKĐTT], 29:1968, 2004:1 - 40. Theo Trần Văn Trà, trước khi ra Bắc vào cuối năm 1956, Lê Duẩn đã chấp thuận cho thành lập căn cứ quân sự ở miền Đông Nam Bộ, U Minh (Cà Mau) và Đồng Tháp Mười; Trà, Những chặng đường lịch sử của B.2 thành đồng. Tập I: Hòa bình hay chiến tranh. (Hà Nội: NXB QĐND, 1992), I: 152 - 153. Đầu năm 1958, Nguyễn Văn Linh cho phép “trừ gian một cách có chọn lọc [như chém Lâm Quang Phòng nhân một buổi ăn giỗ];” Ibid., 1992:121.

7. Nhân Dân [ND] (Hà Nội), 14/5/1959; Hội nghị này họp làm nhiều đợt; VKĐTT, 20:1959, 2002:57 - 92, 245 - 259, 511 - 517; Trần Văn Trà, “Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam;” Chung Một Bóng Cờ (Hà-nội: 1993) , 274 - 275. [Sẽ dẫn Trà 1993b]

8. VKĐTT, 20:1959, 2002:511 - 517; Trà, 1992:134.

9. Ngày 22/4/1962, Nhân Dân đăng bài “Lê-Nin Người Thày của Cách Mạng Việt-Nam” của HCM. Nguyên bản bài này đã đăng trên tờ Sự Thật tại Mat-scơ-va nhân dịp ngày sinh thứ 92 của Lenin (1870 - 1924): Theo Hồ, Việt Nam có câu tục ngữ “Uống nước phải nhớ đến nguồn”, “Nhân dân Việt Nam và nhân dân lao động khắp thế giới đời đời nhớ ơn Lê Nin vĩ đại, nhớ ơn Đảng cộng sản, Chính phủ và nhân dân Liên Xô.” Ngày 27/12/1965, tại Hội nghị lần thứ 12 Đảng LĐVN, Lê Duẩn cũng thành khẩn tiết lộ “ngàn đời nhớ ơn Liên Xô, Trung Quốc” và “sẽ giáo dục con em chúng ta điều này.” VKĐTT, 26:1965, 2003:514 - 615. Lê Duẩn cũng phân tích khá kỹ liên hệ quốc tế với phe Cộng Sản. Theo Duẩn,“Phe ta không có quyết tâm đầy đủ để cùng chúng ta chiến thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam.”; nhưng Hà Nội vẫn làm ăn; vì độc lập, tự chủ (Bài này không đề cập đến HCM, nhưng nhắc đến những cuộc tranh cãi trong Bộ Chính Trị); Ibid., 2003:607 - 616. Tưởng cũng nên thêm, từ tháng 3/1965, việc bố trí người đi B được chuyển qua Ban Tổ chức TW của Lê Đức Thọ, và có dấu hiệu cho thấy Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh bị thất sủng; Ibid., 2003:564 - 621. Năm 1967, Nguyễn Văn Vịnh cũng bị cách chức. Nhiều cán bộ cao cấp, như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Minh Cần, bị bắt giam hay trốn qua Nga giữa cao trào đánh “xét lại.”

10. Tư lệnh Sư đoàn là Trung Tá Trần Thanh Chiêu, bị cách chức, phạt 5 năm không được thăng chức. Thiếu tá Mân (?),Trung đoàn trưởng, bị truy tố ra Tòa, giáng xuống Đại úy, không được thăng thưởng trong vòng 5 năm; The Pentagon Papers (Gravel), I:338; Báo cáo của Williams ngày 20/3/1960; FRUS, 1958 - 1960, I:343 - 344. Theo Trần Văn Trà, chỉ huy trận này là Nguyễn Hữu Xuyến, chỉ huy mặt trận miền Đông Nam Bộ; Trà, 1992:152 - 153, 215 - 221.

11. Điện số 160 ngày 28/4/1960 của TWĐ gửi Nam Bộ và Khu V nhấn mạnh “Tình hình miền Nam đang ở thế giằng co,” CS mạnh ở chính trị, VNCH mạnh về quân sự, “đấu tranh chính trị là chủ yếu,” phối hợp với “vũ trang tuyên truyền” không phải “du kích cục bộ.” Đề nghị xây dựng lực lượng vũ trang lên cấp D [tiểu đoàn] của “R” không bảo vệ được nhân dân, chưa có lợi; Đảng tuyệt đối bí mật, chỉ công khai tổ chức quần chúng; VKĐTT, 21, 2002:288-305. Điện số 34 ngày 30/4/1960 của TWĐ gửi Nam Bộ và Khu V chỉ thị “Phải tăng cường lãnh đạo đô thị, nhất là sinh viên, học sinh;” Ibid., 2002:306-308. Ngày 18/7/1962, trong thư gửi TWCMN, Lê Duẩn vẫn nhấn mạnh: Dùng lực lượng chính trị và quân sự để cướp lấy những vùng nông thôn rộng lớn nhưng vẫn giữ thế hợp pháp của quần chúng. Thế hợp pháp là “cái khiên” của quần chúng; Ibid., 23, 2002:712.

12. Gồm có: Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần Văn Lý, Nguyễn Tiến Hỉ, Trần Văn Đỗ, Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật, Lương Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên, Phạm Hữu Chương, Trần Văn Tuyên, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, Hồ Văn Vui (Linh mục, Chánh xứ Tha La, Tây Ninh; The Pentagon Papers (Gravel), I: 320-321; AMAE (Paris), CLV, SV, 10:122ff. Theo Y sĩ Phan Quang Đán, chính Đán soạn thảo tuyên cáo trên, nhưng không ký tên. Có tin Trần Văn Văn là người soạn thảo. Bản thảo của tuyên ngôn đã được một mật báo viên trao cho Tùy viên Quân sự Mỹ từ ngày 11/4/1960. Ba ngày sau, mật báo viên trở lại Tòa Đại sứ lấy lại bản chính Việt ngữ và bản dịch Anh ngữ. Theo tin tình báo Mỹ, nhóm này lập thành Đảng Tự Do Tiến Bộ; FRUS, 1958-1960, I:438.

13. VKĐTT, 21:1960, 2002:905 - 912.

14. Xem các chỉ thị của Ban Bí thư về các lễ hội mừng kỷ niệm Tháng 10 Nga hay Quốc Khánh Trung Cộng, v.. v...

15. US-Vietnam Relations, 1945 - 1967, Bk 10, tr. 1311 - 6; FRUS, 1958 - 1960, I: 575 - 9. Ngày 14/10/1960, với sự chấp thuận của BNG Mỹ, Durbrow đọc rồi trao cho Diệm một văn thư bằng tiếng Pháp: Yêu cầu Diệm thi hành một chính sách cởi mở hơn: nên bổ nhiệm một Bộ trưởng Quốc Phòng, để Diệm rảnh rang chú trọng những kế hoạch toàn diện. Bổ nhiệm một hay hai người chống Cộng đối lập vào chính phủ. Khuyến khích các Bộ trưởng nhận trách nhiệm hơn đệ trình ngay cả những việc không quan trọng lên Phủ Tổng thống. Cải tổ Đảng Cần Lao từ dạng bí mật hiện tại ra công khai, hoặc giải tán nó. Cho Quốc Hội quyền điều tra bất cứ bộ hay nha sở chính quyền nào, qua hình thức những buổi tường trình công cộng, v.. v... Tuyên bố những sửa đổi trên trong bài diễn văn ngày Quốc Khánh 26/10/1960 sắp tới; FRUS, 1958 - 1960, I:tài liệu 203, 205. Durbrow cũng đề nghị cho vợ chồng Nhu và Trần Kim Tuyến nhận nhiệm vụ ở ngoài nước. Diệm trả lời rằng những tin đồn về Nhu là do CS gây ra; Ibid., I:595 - 596, 603 - 604. Và, dĩ nhiên, không chịu cắt bỏ “bộ óc chính trị của mình.”

16. Ngày 11/11/1960, Bộ Chính Trị Đảng LĐVN điện cho Xứ Ủy miền Nam, cho lệnh lợi dụng khai thác ngay cuộc đảo chính của Nhảy Dù; có thể cho ra công khai Phong trào MTGPMN (đã bí mật tổ chức từ cuối năm 1959). Khẩu hiệu tranh đấu là “Hòa bình, trung lập.” Hôm sau, 12/11, BCT lại điện cho Xứ Ủy miền Nam, đồng ý cho ra công khai MTGPMN. Ngày 16/11, Ban Bí thư ban hành chỉ thị về cách đưa MTGPMN ra công khai. Ngày 24/11, BBT chuyển cho Xứ Ủy miền Nam bản Tuyên Ngôn của MTDT/GPMN đã được BCT phê chuẩn; VKĐTT, 21:1960, 2002:1012-1029. Về biến cố 11/11/1960, xem Chính Đạo (ed), Nhìn Lại Biến Cố 11/11/1960 (Houston: Văn Hóa, 1996); Nguyễn Chánh Thi, Một Trời Tâm Sự (Xuân Thu, 1987); Vương Văn Đông, Binh biến 11/11/1960 (Văn Nghệ, 2000); Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 2000-2004), tập I.

17. Xem Douglas Pike, Viet Cong: The Organization and Techniques of the National Liberation Front of South Vietnam (Cambridge, MA: MIT Press, 1966, 1967); Chung một bóng cờ, nhiều tác giả (Hà Nội: XNB Chính trị Quốc Gia, 1993). Cần ghi nhận là mặc dù sử dụng một số tài liệu bắt được tại trận địa, tác phẩm của Pike khó tránh những sơ sót vì thủ thuật chiến tranh chính trị của Hà Nội và những khoảng trống của tin tức tình báo Mỹ. Ngay những tư liệu hiện đã được giải mật của Việt Nam cũng cần sử dụng một cách thận trọng; và chỉ có giá trị tạm thời.

18. Ngày 29/11/1961, khi viếng thăm Sài Gòn, TNS Allen Ellender cho rằng tình hình rối loạn ở Nam Việt Nam chẳng liên hệ gì đến Bắc Việt; FRUS, 1961-1963, I:698-699. Một số tác giả Pháp, kể cả Philippe Devillers, nghiêng về lập luận này; “The Struggle for the Unification of Vietnam;” The China Quarterly, No. 9 (Jan-March 1962), p. 15; dẫn trong Pike, 1967:75-6n4.

19. Ngày 3/2/1962, TT Diệm ký nghị định số 11-TTP, tuyên bố quốc sách ACL, và thành lập Ủy Ban Liên Bộ đặc trách ACL. Ủy viên gồm Bộ trưởng các bộ Quốc Phòng, Nội Vụ, Giáo Dục, Công Dân Vụ, Canh Nông, v.. v... Bùi Văn Lương, Bộ trưởng Nội Vụ, giữ chức Tổng Thư ký. Ngô Đình Nhu làm Chủ tịch. Đặc ủy viên: Đại tá Huỳnh [Hoàng?] Văn Lạc; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/1CH, HS 7621; FRUS, 1961-1963, II:96; Catton, 2002:98. Mỗi Khu Chiến thuật có một Ủy Ban đặc trách ACL [HS 7622]. Ngày 19/3/1962, chấp thuận kế hoạch bình định vùng đồng bằng (ACL) của Robert [“Bob”] J. K. Thompson. [HS 8038] Đại tá Hoàng Văn Lạc được giao chỉ huy, dưới quyền điều động trực tiếp của Nguyễn Đình Thuần. Xem thêm chi tiết trong TTLTQG II (TP/HCM), PTT/D1CH, HS 7626; Catton, 2002:91 (ACL Gia Huỳnh (xã Gia Lộc, quận Phú Đức, Tây Ninh; ACL Định Thanh Quảng Ngãi); HS 7631; Catton, 2002:97 (chấp thuận đề nghị của Bùi Văn Lương đưa ACL lên hàng quốc sách); HS 7629 (Những cuộc nói chuyện và chỉ thị của Ngô Đình Nhu; [10/1961; Catton, 2002:120-121]) Ngày 23/3/1962, chính thức phát động chính sách “Ấp chiến lược.” Thí điểm đầu tiên là khu vực Bến Cát (Bình Dương), tức chiến dịch Mặt trời mọc (Sunrise). Người phụ trách chương trình “Ấp Chiến Lược” này là Albert Phạm Ngọc Thảo. Chỉ huy tổng quát là Tướng Văn Thành Cao; The Pentagon Papers (Gravel), II:674. Ngày 18/5/1962, mở đầu chiến dịch Hải Yến (Sea Swallow, Phú-Yên) Chiến dịch này cũng tương tự như chiến dịch Mặt Trời Mọc tại Bình Dương. 600 nhân viên công dân vụ, chia làm 70 toán, tham dự chiến dịch. Dự trù tăng thêm 11 toán vào cuối tháng 5/1962. Và, hoàn thành 80 ấp chiến lược vào cuối năm 1962. Ngày 1/5/1963, Rufus Phillips, Phó Giám đốc USOM, ghi nhận: Đại cương, mặc dù trên lý thuyết Ấp Chiến Lược thật tuyệt hảo, nhưng việc thực thi gặp nhiều khó khăn lớn: thiếu sự hiểu biết về nguyên tắc Ấp Chiến Lược, và thiếu ý chí thực hiện. Các viên chức mọi cấp khiến dân chúng xa lánh hơn là ngả theo chính phủ; FRUS, 1961-1963, III:256-257.

20. Xem Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967, in lần thứ hai (Houston: Texas, 1997). Tài liệu văn khố của Phủ Thủ tướng và Phủ Tổng thống VNCH tại TTLTQG 2 (TP/HCM) về những cuộc xô xát giữa Phật Giáo, Ki-tô Giáo và chính quyền trong 5 năm 1963-1968 đã mở cho các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp. Tài liệu văn khố tại Thư viện Tổng thống Lyndon B. Johnson tại Austin, Texas, cũng đã giải mật. So sánh hai nguồn tài liệu này sẽ có hình ảnh khá trung thực.

21. Lê Duẩn cho rằng chiến lược của Đảng LĐVN không phải là lấy nông thôn bao vây thành thị, mà đã được sáng tạo theo thực tế Việt Nam. Tuy nhiên, những biến đổi trên chỉ là chi tiết; cơ bản vẫn là lấy nông thôn làm căn cứ. Võ Nguyên Giáp và các chiến lược gia CSVN cũng thường thích đề cập đến cái gọi là chiến tranh nhân dân. Thực ra, là chiến tranh hoá nhân dân–bắt mọi giai tầng quốc dân đều trở thành nạn nhân của chiến tranh. Ngày 2/9/1965–nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập chế độ CSBV–Thống chế Lâm Bưu [Lin Pao], Bộ trưởng Quốc Phòng Trung Cộng, cũng đề cập đến chiến lược ... chiến tranh nhân dân này.

22. Các toán XDNT vùng Cao nguyên tăng từ 84 lên 120 toán. 54 tiểu đoàn tác chiến được tăng cường cho các Toán XDNT. Ngoài ra còn có 218 đại đội ĐPQ và 738 trung đội Nghĩa quân; Douglas Pike (Ed), Bunker Papers: Report to the President from Vietnam, 1967-1973, 3 vols. (Berkeley, CA: Univ. of California Press, 1990), I:291. [Sẽ dãn Bunker 1990]. Tuy nhiên, các đơn vị trưởng Việt Nam không thích thú gì nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ. Tại vùng IV, SĐ 21 và 9 quyết định luân chuyển các đơn vị bình định mỗi ba tháng. SĐ 7, các đơn vị thường lo an ninh của riêng đơn vị mình hơn là các xã có nhiệm vụ bảo vệ. Tại Vùng III, nhiều đơn vị–đặc biệt là SĐ 18 BB–mượn cớ bình định để tránh hành quân. Tại Vùng II, có trường hợp binh sĩ đánh cướp làng xóm và các toán XDNT. Tại Vùng I, tương đối khả quan hơn; Clarke 1988:252-253. Về thuật ngữ “kế hoạch hai gọng kìm,” xem “Nghị quyết lần thứ năm Trung Ương Cục, tháng 5/1967;” VKĐTT, 28:1967, 2003:486-488.

23. Kế hoạch của Thanh–“Nghị quyết lần thứ năm Trung Ương Cục, tháng 5/1967;” VKĐTT, 28:1967, 2003:503 (tổng công kích tổng khởi nghĩa ở các đô thị và vùng nông thôn do địch kiểm soát), 505 (đánh địch ở ngay hậu phương của chúng)–nhằm thực hiện Nghị quyết Bộ Chính Trị tháng 10-11/1966. Tuy nhiên, Nghị quyết tháng 3/1967 của Thường vụ Khu V chỉ nhấn mạnh vào “đánh phá bình định,” không đề cập gì đến “Tổng công kích-Tổng khởi nghĩa;” Ibid., 2003:560-596. Thời gian này, Bắc Kinh vẫn chủ trương phải tiếp tục chiến đấu chống Mỹ. Ngày 10/4/1967, khi họp với Giáp và Đồng về những kế hoạch Mỹ có thể thực hiện, Chu Ân Lai không nói gì đến vấn đề thương thuyết; Zhai, 2000:171. Hôm sau, 11/4, Chu Ân Lai khuyến khích Hà Nội nên tiếp tục chiến tranh. Đả kích Liên Sô và lưu ý Hà Nội về việc Mat-scơ-va không thực hiện lời hứa giúp đỡ Trung Cộng; Ibid. Theo một nguồn tin Nga, Giáp và Đồng long trọng hứa sẽ tiếp tục cuộc chiến; Zhai, 2000:172. Có dư luận cho rằng Võ Nguyên Giáp không tán thành, và bị nhóm Lê Duẩn/Lê Đức Thọ cho là “nhát.” Tuy nhiên, việc đả kích Giáp có lẽ nằm trong chiến dịch thanh trừng sâu rộng hàng ngũ CSBV, tức loại bỏ hầu hết tay chân thân tín của Hồ Chí Minh, để Duẩn củng cố quyền lực. Ngay đến Phạm Ngọc Thạch, y sĩ riêng của Hồ, cũng bị đi B, chết trong năm 1968. Xem Nguyên Vũ, Paris: Xuân 1996 (Houston: Văn Hoá, 1997), tr. 25-26; Chính Đạo, Hồ Chí Minh: Con người & huyền thoại, tập III: 1945-1969 (đang in). Nên lưu ý thêm là trong thời gian này, một loạt những cuộc thanh trừng xảy ra ở miền Bắc (Nguyễn Văn Vịnh, Nguyễn Minh Cần, Hoàng Minh Chính, v.. v...)

24. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 [tháng 1/1968] đề ra những mục tiêu sau: kéo cho được lực lượng cơ động của địch ra ngoài để tiêu diệt; hướng công kích chủ yếu là các thành thị; khởi nghĩa tại các vùng nông thôn và quận lỵ bị tạm chiếm; phải lập tức kết hợp phát động quần chúng khởi nghĩa; Thành lập Mặt Trận thứ hai và tổ chức chính quyền mới; thành lập Chính phủ trung ương và chính quyền địa phương; VKĐTT, 29:1968, 2004:41-68. Đã có nhiều biên khảo về trận Điện Biên Phủ. Đáng lưu ý nhất là các hồi ký của Võ Nguyên Giáp, Lê Trọng Tấn, Henri Navarre, v.. v... Nhiều tài liệu văn khố Pháp, Mỹ và Trung Cộng cũng đã mở. Nhưng vì một lý do nào đó, Quân ủy TW Đảng CSVN vẫn chưa giải mật các công điện, báo cáo về chiến dịch này. Xem Chính Đạo, “Từ Điện Biên Phủ tới Geneva;” Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng (2004). Lê Duẩn, thuở sinh thời, cũng có vẻ đánh giá thấp chiến công Điện Biên Phủ (trận Điện Biên Phủ chỉ sử dụng 40,000 bộ đội; trận Quảng Trị tới 70,000).

25. Theo hồi ký Tổng thống Johnson, ấn hành năm 1971, ông đã dự đoán được cuộc tấn công kamikaze này từ cuối năm 1967, và tâm sự với một số viên chức cao cấp Australia và ngay cả Paul VI, khi ghé Roma nhờ Paul VI móc nối với Hà Nội về các vấn đề thương thuyết, tù binh và lính Mỹ mất tích. Điều khiến Johnson ân hận là đã không báo động cho dư luận Mỹ trong bài diễn văn thường niên đọc trước Quốc Hội ngày 17/1/1968. Xem Johnson, The Vantage Point: Perspectives of the Presidency, 1963-1969 (New York: Holt, Rinehart and Winston, 1971), tr. 379-380. Sẽ dẫn: Johnson 1971. Thực ra các chuyên viên tình báo và giới chức quân sự không biết chắc thời điểm (trước hay sau Tết) và biên độ (trên 40 tỉnh lỵ, thị xã, thành phố) của cuộc tổng tấn công. Xem chương I và II, supra. Những tài liệu về trận Mậu Thân bằng Việt ngữ không nhiều. Về phe VNCH, có Phạm Văn Sơn và Lê Văn Dương. Cuộc Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghĩa của Việt Cộng Mậu Thân 1968 (Sài Gòn: 1968); Bùi Đức Lạc, “Mậu Thân ở Huế;” Lên Đường (Houston), I: 3 (1/2/1989), tr. 105-119; Hoàng An, Thanh Liêm, Thanh Nhã, Tết Mậu Thân 1968: Sài Gòn Máu Lửa (Sài Gòn: 1968). Phía CSBV có Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng, Thành Ủy Huế, Huế, Xuân 1968 (Huế: 1988); Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng, Thành Ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, Tổng Tấn Công và Nổi Dậy Xuân Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn-Gia Định (Sài Gòn: 1988); Mậu Thân Sài Gòn (Sài Gòn: NXB Trẻ/TPHCM, 1988). Xem thêm William C. Westmoreland, Report on Operations in South Vietnam, January 1964-June 1968 (Washington, DC: GPO, 1968) và Vietnam, l’heure décisive: L’offensive du Têt, Frévrier 1968 (Paris. Edition Laffont, 1968).

26. VKĐTT, 29, 2004:1-40. Về nghị quyết 12, tháng 12/1965, xem Ibid., 26:1965, 2003:622.

27. Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: Penguin Books, 1984), tr. 523. Sẽ viết tắt: Karnow 1984. Về lược sử Trần Độ, xem Nguyên Vũ, “Chuyến tàu thống nhất;” Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 85, tháng 10-11/2005, tr. 144-145.

28. Từ ngày 21/1/1968, BCT đã mật lệnh cho Phạm Hùng, Võ Chí Công và Trần Văn Quang thành lập Liên Minh Dân tộc, Dân chủ và hòa bình. Tổ chức này có cờ hình chữ nhật, với hai giải đỏ kẹp vào giữa một giải màu xanh da trời (giống cờ MT/GPMN), với ngôi sao vàng. Sẽ thành lập cấp Ủy Ban ở các thành phố lớn; cơ quan trung ương đặt tại Sài Gòn. Chính quyền cách mạng sau này sẽ là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 8/4/1968, Nguyễn Duy Trinh gửi điện mật cho TWC, yêu cầu cho ra Mặt Trận II. Ngày 8/5/1968, BCT gửi điện cho Phạm Hùng: Chưa nên lập chính phủ liên hiệp tại miền Nam ngay. Ngày 14/5/1968, BBT gửi điện cho Khu ủy Trị-Thiên: Liên Minh của Lê Văn Hảo ở Huế nên bày tỏ thái độ với MT/GPMN. Xem thêm Điện mật số 44, ngày 8/2/1968, BCT gửi Phạm Hùng và TWC (Phê bình về bản tuyên cáo khẩn cấp của Liên Minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình do đài B phát đi ngày 7/2/1968: Tuyên ngôn này có những điểm không có lợi. Phải mềm dẻo để Mỹ có thể thương thuyết. Tuyên ngôn ở Huế tốt); VKĐTT, 29:1968, 2004:165, 171-174, 208-215, 243-244, 253-254.

29. Theo tài liệu Mỹ, từ 1/1/1961 tới 31/1/1968, số CS chết ước lượng khoảng 259,447 người, và bị thương 389,171; so với 54,137 VNCH chết, 117,528 bị thương, 27,448 bị bắt hay mất tích. Mỹ chết 16,945 người, bị thương 56,237, bị bắt 232, và mất tích 748; LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 104. Theo một nguồn tin khác, trong năm 1967 có 8,534 Cộng sản tử trận, và 27,178 người về hồi chính. Trong số này, 17,671 bộ đội. Hoàng Ngọc Lung, The General Offensives of 1968-1969 (Washington D.C.: U.S. Army Center of Military, 1978), tr. 10; sẽ viết tắt: Lung 1978. Thượng tướng CS Đặng Vũ Hiệp, trong tập hồi ký nặng tính chất tuyên truyền kiểu Mao-ít, cũng ghi nhận những khó khăn muôn mặt của cán binh CSBV tại Mặt Trận Tây Nguyên (B-3) từ 1965 tới 1967; Idem., Ký ức Tây Nguyên (Hà Nội: NXB Quân đội Nhân Dân, 2002). Hiện nay, nên ghi nhận, còn khoảng 300,000 quân nhân CSBV bị chết nhưng không tìm được xác. Mặc dù vấn đề công bố xác chết Cộng sản của phe Đồng Minh và VNCH thường không đúng sự thực, và phóng đại quá đáng, câu chuyện khôi hài bên lề Quốc Hội Mỹ về cái gọi là Body count (sau này được giới phản chiến Mỹ khai thác tối đa) chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về quân sự của ông dân biểu đã nêu ra câu hỏi: “Nếu Cộng sản tổn thất như thế, tại sao phải xin thêm viện quân?” Thực ra, việc thay thế quân số tổn thất là lẽ thường. Một nguồn tin khác nữa ghi nhận có khoảng 129,200 quân chính qui Cộng Sản ở miền Nam năm 1967; gồm 9 Sư đoàn, 45 Trung đoàn và 230 Tiểu đoàn. Năm sau, số Cộng quân tăng lên 147,200 người, gồm 10 Sư đoàn, 152 Trung đoàn, 274 Tiểu đoàn. 75 phần trăm cán binh thuộc thành phần “sinh Bắc, tử Nam;” U.S. News & World Report, 12/8/1968.

30. Theo tin quân sự Mỹ, Nguyễn Chí Thanh chết vì bị thương trong một cuộc oanh tạc của B.52 ở vùng Mỏ Vẹt. Theo Cộng Sản, Thanh chết vì bệnh tim ở Hà Nội. Theo Hoàng Văn Hoan, Lê Duẩn hãm hại Thanh.

31. Năm 1973, khi theo một đơn vị của Sư đoàn 3 Bộ Binh VNCH tiến vào mật khu an toàn của Cộng Sản thuộc vùng Quảng Nam, người viết bắt được giấy tờ tùy thân và nhật ký của một cán bộ Cộng sản tên Trần Văn Hãnh. Tập nhật ký nhỏ, ố vàng mầu giấy này, phần nào nói lên thảm trạng và tinh thần sa sút của các cán binh Cộng Sản. Theo Hãnh, trong hai năm 1965-1966, cán binh đã bẻ trộm ngô (bắp), sắn (mì) của dân chúng, hay dùng lựu đạn và cốt mìn bắt cá. Sức khỏe sa sút, vô vàn cực nhọc mới mang nổi cấp số vũ khí và đạn dược cơ hữu (khoảng 60 cân Tây). Lúc nào, nơi nào, Hãnh cũng nhớ đến người vợ giáo viên tên Sơn, và đứa con không biết mặt cha, ở Thanh Hóa. Trong một tập hồi ký về Tết Mậu Thân ở Huế, Lê Minh–người chỉ huy mặt trận, Phó Bí thư Trị-Thiên-Huế, đặc trách an ninh, kiêm Bí thư Thành ủy Huế–cũng thú nhận nạn thiếu ăn, thiếu quân số, và sức khỏe suy sụp của Trung đoàn E-6: Cả Trung đoàn chỉ có 1,800 quân, không Tiểu đoàn nào tới 350 tay súng, mỗi tiểu đội chỉ chừng 7 người. Vì thiếu ăn, có Tiểu đoàn với 320 lính mà chỉ có “70 người chiến đấu được, còn thì đau ốm;” Huế 1988:43.

32. Tại Huế, 60 phần trăm tổng số hơn 5,000 quân CS tham chiến bị thương vong; Huế 1988:72. Xem thêm những phụ bản về tổn thất trong Chính Đạo, Mậu Thân 68: Thắng Hay Bại?, tái bản lần thứ hai, (Houston: Văn Hóa, 1998).

33. FRUS, 1961-1963, II:544-545. Ung Văn Khiêm (1908-?), tốt nghiệp trường sĩ quan Hoàng Phố năm 1929, gia nhập Đảng CSĐD từ năm 1930. Năm 1932, bị kết án 20 năm khổ sai. Từ 1949 tới 1951, Ủy viên Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ, rồi Ủy viên Trung ương cục miền Nam; SHAT (Vincennes), 10H 3990, 3976, 3980. Tháng 2/1953, là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao Động VN. Bộ trưởng Ngoại Giao từ ngày 23/1/1961; VKĐTT, 22:1961, 2002:115-117. Tháng 6/1961, cầm đầu phái đoàn VNDCCH tham dự Hội nghị QT (14 nước) về Lào. Năm 1964, mất chức Ngoại trưởng. Về những cuộc tiếp xúc bí mật giữa Hà Nội và Oat-shinh-tân, xem Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính Trị (1997).

34. Xem Chính Đạo, 55 Ngày & 55 Đêm: Cuộc sụp đổ của VNCH, tái bản lần thứ năm (Houston: Văn Hoá, 1999), phần I. Xem thêm U.S. Department of Defense, United States-Vietnam Relations, 1945-1967, 12 books (Washington, DC: GPO, 1971). Tập nghiên cứu được biết như “Tài liệu Ngũ Giác Đài” [The Pentagon Papers] này do McNamara cho lệnh biên soạn năm 1967, và tiết lộ cho báo Washington Post và New York Times năm 1971. Chúng tôi sử dụng bản của Bộ Quôc Phòng; và, đôi chỗ, sử dụng ấn bản của Thương Nghị sĩ Gravel năm 1971 (5 tập; sẽ dẫn: [The Pentagon Papers (Gravel)]). Bộ trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara là một trong những người chủ hòa đầu tiên. Xem Idem., In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam. (New York: Time Books, 1995), tr. 262.

35. Hiện nay, các tài liệu CS đều ghi Hội nghị thứ 14 diễn ra vào tháng 1/1968. Chỉ riêng tập Việt Nam Những Sự Kiện, 1945-1986 của Viện Sử Học Hà Nội (ấn bản 1990) ghi là Hội nghị 14 khóa III họp vào tháng 6/1967. Chi tiết trên có vẻ chính xác hơn, vì dịp này “Sáu Vi” (Thanh) đang có mặt ở Hà Nội (hoặc mới từ trần). Về Đề cương báo cáo của Văn Tiến Dũng ngày 23/1/1967, Nghị quyết của BCT ngày 27/1/1967 và Nghị quyết Hội nghị thứ 13 ngày 27/1/1967; xem VKĐTT, 28:1967, 2003:116-140, 141-170, 171-179.

36. Sách Trắng; Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua (Hà Nội: Sự Thật, 1979), tr. 45-46. Tham dự buổi hội thảo này có HCM, Lê Duẩn, Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Nguyễn Chí Thanh, Kaysone Phomvihane (Làp) và D.N. Aidit (Đảng CS Indonesia). Bắc Kinh đửa ra “ba chống” [sam fan]: Chống đế quốc [Anti-imperialism], chống phong kiến [anti-feudalism] và chống thư lại tư bản [anti-bureaucratic capitalism]. Bốn phương pháp để thực hiện các mục tiêu trên: vận động quần chúng và mở rộng mặt trận thống nhất; đấu tranh vũ trang ở nông thôn và thành lập căn cứ; củng cố lãnh đạo đảng trên mọi phương diện; và gia tăng liên hệ giữa các nước và trợ giúp lẫn nhau. Chu Ân Lai hứa sẽ biến thành hậu phương của các phong trào cách mạng tại Đông Nam Á. Chu cũng đề nghị những biện pháp thực tiễn để tiếp cận chiến tranh chống phản loạn của Mỹ; Zhai, 2000:117-119. Tài liệu Sách Trắng năm 1979 của Hà Nội, và thanh minh của Bắc Kinh là những tài liệu đặc biệt phản ánh tình “môi hở răng lạnh” giữa hai nước anh em thù nghịch này từ 1950 tới 1977. Hoàng Văn Hoan, qua hồi ký Giọt nước trong biển cả (Bắc Kinh: 1986) và báo tháng Tin Việt Nam (Bắc Kinh) cũng cung cấp một số chi tiết phản bác Lê Duẩn.

37. Nguyên văn: “Don’t worry when you borrow from China. You can pay the Chinese debts whenever you are ready and it is all right even if you do not pay;” Zhai, 2000:124.

38. Mao gửi Hồ, 27/12/1963; Mao wengao, 10:465-66; dẫn trong Zhai, 2000:120.

39. Sách Trắng, 1979:47-48; Zhai, 2000:134-135.

40. Ngày Thứ Bảy, 15/4/1967, Mục sư Martin Luther King cầm đầu 200,000 người biểu tình chống chiến tranh tại New York. Ngày này, 50,000 người biểu tình chống chiến tranh ở San Francisco. Năm 1978, khi tác giả tới Đại học Wisconsin-Madison để bắt đầu chương trình Tiến sĩ Sử học Đông Nam Á, còn nhiều khẩu hiệu như “Long Live Ho Chi Minh” [Hồ Chí Minh Muôn Năm] trên các vách tường ở khu trung tâm thị xã (downtown), dấu tích của phong trào phản chiến trong thập niên 1970. Một cựu Thiếu tá Không quân Mỹ tâm sự rằng ngày mới hồi hương, “bọn hippies gọi chúng tôi là lũ sát nhân.” Tại Việt Nam, từ năm 1969-1970, đã có tinh thần phản chiến ngay trong các giới quân viễn chinh Mỹ.

41. Theo Colby, sau này Adams tỏ vẻ hối tiếc đã công bố bức hình trên. Xem thêm nhận xét về giới truyền thông của Tướng Lansdale, thuộc Văn Phòng Liên Lạc Đặc Biệt (SLO), trong những báo cáo mới giải mật năm 1996-1997; LBJL, NSF, Vietnam Country File, Boxes 104, 107.

42. Thiệu biết rõ loại tin đồn này. Có lần, khi được tin sắp có đảo chính, Thiệu mời Khang vào Dinh Độc Lập ăn tối, rồi cầm chân Khang một thời gian khá dài, trước khi cho về. Tháng 8/1968, Thiệu cất chức Tư lệnh QĐ III của Khang (trên danh nghĩa từ chức vì để xảy ra vụ tai nạn “hỏa lực bạn” ở Chợ Lớn. Theo Bunker, mặc dù Kỳ đã phẫn chí rút về Nha Trang, từ tháng 4 tới tháng 7/1968, Thiệu ba lần báo động có đảo chính; Báo cáo ngày 11/7/1968, Bunker gửi Tổng thống; CĐ 39970, 10/10/1968, Bunker gửi Ngoại Giao.

43. Trong một báo cáo về Tướng Loan vào tháng 9/1967, Lansdale ghi nhận một chuyện vui bên lề cuộc biểu tình của Phật giáo ngày 13/9/1967: Loan ngồi trên lề đường, một tay choàng ngang vai Đại Đức Hộ Giác, tay khác cầm chai bia “33,” chuyện trò rất thân mật. Lansdale ghi nhận: Chẳng có ký giả ngoại quốc nào muốn chụp hình Loan và Hộ Giác thân mật ngồi bên nhau; chỉ thấy họ chụp hình Tổng Giám Đốc CSQG Việt Nam Cộng Hòa ngồi trên lề đường uống bia, một mình. Nên ghi thêm là từ năm 1966, chính sách Phật Giáo của Mỹ đã thay đổi hầu như 180 độ. Một viên chức cao cấp Mỹ cho rằng Thượng tọa Trí Quang, nếu không phải là Cộng Sản, thì cũng đang thủ diễn vai trò một Kerenski [mở đường cho Cộng Sản lên cầm quyền ở Nga].

44. Về Trần Văn Ân, xem Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, tập III: Nhân Vật Chí, tái bản có bổ sung (Houston: Văn Hoá, 1997). Xem thêm những hoạt động và phê bình của Thủ tướng Trần Văn Hữu về Ân trong Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu, 1939-1975, tập I-B: 1947-1954 (Houston: Văn Hoá, 1997). Về liên hệ giữa Ân với Lansdale, xem LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 107.

45. Tại hải ngoại, Tôn Thất Thiện tiếp tục đánh bóng chế độ Ngô Đình Diệm và đả kích các Tướng làm đảo chính năm 1963. Thiện hay viết báo, dạy cách viết “sử” hay phê bình “sử” theo lối tuyên truyền nhồi sọ ngày còn phụ trách Việt Tấn Xã (kiểu ba tập tài liệu về cuộc tranh đấu của Phật Giáo đệ nạp cho phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc)–dù chính Thiện có rất ít kiến thức sử học. Ngoài ra, Thiện còn bí mật vận động gửi tiền về “mua chuộc người trong nước.” Chính sách “hoà giải, hòa hợp” này, thực ra, là con dao hai lưỡi. Mới đây, nhóm Tôn Thất Thiện đã bị Nguyễn Hộ tố cáo là mạo danh ông ta lập “mặt trận ma.”

46. Báo cáo ngày 20/3/1968, Bunker gửi Tổng thống; Bunker, 1990, II:388.

47. Bùi Thị Nga, “Xuân Mậu Thân 1968: Liên minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam và chính phủ Cách Mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam;” Làm đẹp cuộc đời (Hà Nội: NXB Chính trị Quốc Gia, 1995), tr. 318, 320. Tháng 10/1968, hai ủy viên của Liên Minh là Trần Quang Long và Trần Triệu Luật chết vì bom; Lê Hiếu Đằng, “Nhớ mãi tấm lòng và đức độ của người trí thức ấy;” op. cit., tr. 324. Sau 1975, hầu hết những người sống sót của Liên Minh đều sinh hoạt trong Mặt Trận Tổ Quốc.

48. Báo cáo ngày 9/4/1968, Lansdale gửi Bunker; LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 107.

49. Thiếu tá Nguyễn Mâu, một hung thần của Phật Giáo tại Huế từ ngày 20/8 tới 1/11/1963, được khôi phục làm Phụ tá Chánh sở Cảnh Sát Đặc Biệt từ năm 1967-1968, đã tìm mọi cách khích động Trần Văn Hương bài Phật Giáo. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (TP/HCM) có nhiều hồ sơ về hoạt động chống và vu cáo Phật Giáo của Mâu. Xem danh sách sơ lược các tài liệu chúng tôi đã tham khảo trong Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 84, tháng 8-9/2005, tr. 203-206.

50. Báo cáo ngày 29/2/1968, Bunker gửi Tổng thống; LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 105.

51. Nguyễn Văn Linh, Thành Phố Hồ Chí Minh 10 Năm (Sài Gòn: 1985) tr. 51. Sẽ viết tắt: Linh 1985.

52. Trần Văn Trà, Kết Thúc Chiến Tranh 30 Năm, 2 tập (Houston: Văn Hóa, 1987) tập I:58. Sẽ dẫn: Trà 1987.

53. Nghị quyết số 183/NQ/TW ngày 16/10/1968 [Lê Duẩn ký]; VKĐTT, 29:1968, 2004:478-481) Lê Chưởng vẫn giữ chức Chính ủy kiêm Phó Bí Thư. Trần Văn Quang (Trần Khắc Kính) chỉ còn chức Phó Bí thư Quân Khu; Huế 1988:83. Năm 1974, Quang được điều ra Hà Nội, làm Phó Tổng Tham Mưu Trưởng. Quang, tưởng nên ghi nhận thêm, từng là tác giả một báo cáo về tình trạng tù nhân và lính Mỹ mất tích, gây sôi nổi dư luận Mỹ một thời vào đầu thập niên 1990.

54. Huế 1988:71. Tại Sài Gòn, Lansdale thúc dục các giới chức Việt phải khai thác tối đa những cuộc thảm sát ở Huế. Nữ văn sĩ Nhã Ca sau này đoạt giải thưởng văn chương qua tập Giải Khăn Sô Cho Huế.

55. Xem United States Senate, Committee on Foreign Relations, Vietnam, May 1972. A Staff Report (Washington: GOP, 1972). Xem thêm Cao Văn Vien & Dong Van Khuyen, Reflections on the Vietnam War (Washington D.C.: US Army Center of Military History, 1980), tr. 103-115; Ngô Quang Trưởng, The Easter Offensive, Indochina Monographs (Washington, D.C.: US Army Center of Military History, 1980).

56. Mãi tới năm 1969 thuật ngữ Việt nam hoá [Vietnamization] mới thành hình, dưới thời chính phủ Richard Nixon (1969-1974).

57. Đa số con cháu Tướng, Tá và các chính khách “du học” chưa hẳn đã xuất sắc. Hoàng Đức Nhã, chẳng hạn, “du học” ở một trường nhỏ miền Đông Texas, nhưng về nước, làm Bí thư cho Thiệu, lên tới chức Tổng trưởng Dân Vận-Chiêu Hồi, và rất kiêu ngạo. Hội Ái Hữu Các Cựu Sinh Viên Đại Học Mỹ qui tụ hầu hết những thành phần con ông, cháu cha này. Trong hai năm 1967-1968, Chủ tịch Hội trên có liên hệ chặt chẽ với cơ quan CIA Mỹ.

58. Xem Nguyên Vũ, Xuân Buồn Thảm: Những Ngày Cuối Cùng của Nam Việt Nam, tái bản (Houston: Văn Hoá, 1991), chương II. Theo Lansdale, trước năm 1968, người có liên hệ vào việc mua bán chức Tỉnh trưởng này là vợ Đại tướng Cao Văn Viên; LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 104; trích đăng trong Nguyên Vũ, Paris: Xuân 1996, Phụ bản 12, tr. 231.

59. LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 104.

60. Nên ghi nhận là thời gian này Bắc Kinh vẫn còn muốn Hà Nội phải đốt cháy hết Trường Sơn. Ngày 13/4/1968, sau khi Hà Nội chấp thuận thương thuyết, Chu Ân Lai trách Phạm Văn Đồng đã nhân nhượng Mỹ hai điểm: Đồng ý thương thuyết khi Mỹ mới chỉ tạm ngưng oanh tạc phía Bắc vĩ tuyến 20 (thay vì ngưng oanh oanh tạc toàn miền Bắc; và chọn Paris thay vì Phom Penh hay Warsaw. Ngày 7/5/1968, Chu Ân Lai trách Xuân Thủy, người phụ trách bang giao quốc tế, là Hà Nội đã quá vội vã khi nhận thương thuyết. Mao Trạch Đông đã nói với Phạm Văn Đồng là đồng ý thương thuyết, nhưng phải thương thuyết ở vị thế cao. Lai thì bảo Xuân Thủy là Hà Nội đã khiến Mỹ thu được tại bàn hội nghị những gì không lấy được ở chiến trường. Từ tháng 5 tới tháng 10/1968, Bắc Kinh tiếp tục đả kích việc thương thuyết. Zhai, 2000:172-173. Xem thêm hồi ký Mai Văn Bộ về thái độ của Tòa Đại sứ Trung Cộng ở Paris trong thời gian hòa đàm.

61. New York Times, 10/3/1968. Theo McNamara, ngày 23/2/1968, tức bốn ngày trước khi rời Ngũ Giác Đài, ông ta bác bỏ đơn xin tăng viện; In Retrospect, 1995:315.

62. Xem Chính Đạo, Mậu Thân 68, 1998:Phụ Bản III.

63. Johnson đã có ý định không ra tái tranh cử từ trước ngày bầu cử sơ khởi của Đảng Dân Chủ tại New Hampshire; Johnson 1971:451. Bắc Kinh, tưởng nên ghi nhận, chưa muốn hòa đàm. Ngày 29/6/1968, Chu Ân Lai bảo Phạm Hùng rằng Hà Nội rơi vào bẫy của Mat-scơ-va và nhường thế tiên cơ cho chính phủ Johnson. Ngày 1/11/1968, sau khi Johnson tuyên bố ngưng oanh tạc miền Bắc, báo chí Trung Cộng mới đề cập đến vấn đề hòa đàm ở Paris. Ngày 17/11/1968, Mao Trạch Đông nói với Phạm Văn Đồng rằng Mao đồng ý chiến lược “vừa đánh, vừa đàm.” Nhưng từ năm 1968, Bắc Kinh cũng bắt đầu đi trực tiếp với MTGPMN, và tổ chức các lực lượng Hoa kiều tại miền Nam; Sách Trắng, 1979:51-54; Zhai, 2000:173-175. Năm 1979, Hà Nội công khai tố cáo Bắc Kinh đã phản bội nhân dân Việt Nam, “đàm phán với Mỹ trên lưng nhân dân Việt Nam;” Sách Trắng, 1979:55-71.

64. Sau khi Johnson tuyên bố ngày 31/3/1968, Hà Nội “tiến công ngoại giao” bằng tuyên cáo ngày 3/4/1968, là sẵn sàng gặp Mỹ. Ngày 3/5/1968, Hà Nội đề nghị họp tại Paris. Ngày 13/5/1968, Mỹ đồng ý. Xem Chính Đạo, Mậu Thân 68, 1998:Phụ Bản II. Xem thêm nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 15 (29/8/1968); VKĐTT, 29:1968, 2004:359-392); Nguyễn Thị Bình, et al. Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris về Việt Nam (Hà Nội: NXBCTQG, 2001).

65. Johnson đã quyết định thay Westmoreland bằng Tướng Creighton Abrams từ tháng 3/1968.

66. Xem, chẳng hạn, báo cáo ngày 27/2/1968, Lansdale gửi Bunker; LBJL, NSF, Vietnam Country File, Box 107. Tưởng nên ghi thêm, trong một dạ tiệc đưa tiễn Lansdale, một nhóm thanh niên và sinh viên Ki-tô từng cung cấp nhiều tin sai lạc về các tổ chức sinh viên không Ki-tô và thanh niên Phật tử, tổ chức một buổi ca nhạc loại bỏ túi, trong đó có bài “Từ biệt Ed Lansdale.” Theo Đỗ Ngọc Yến, bài này do sáng kiến của Yến; chỉ có điều Yến không ngờ nó là bài hát để tiễn biệt một phạm nhân Mỹ bị treo cổ; Phỏng vấn điện thoại ngày 9/11/1997.

------------------------------------------------------------------

PHỤ BẢN III

BUỔI THẢO LUẬN TẠI BẠCH CUNG NGÀY 26/3/1968

Ngày 26/3/1968, TT Lyndon B. Johnson triệu tập một buổi họp đặc biệt, gồm những “nhà thông thái” (wisemen), tại Bạch Cung để thảo luận về tình hình Việt Nam sau Tết Mậu Thân.

Tham dự buổi họp này có những nhân vật đáng kể sau:

- McGeorge Bundy, Cựu Cố vấn An Ninh Quốc Gia của các Tổng Thống John Kennedy và Johnson cho tới năm 1966.

- Arthur Dean, một nhà ngoại giao kinh nhiệm, từng thương thuyết hiệp ước đình chiến ở Đại Hàn năm 1953.

- Cyrus Vance, nguyên Thứ trưởng Quốc Phòng của chính phủ Johnson.

- Douglas Dillon, cựu Bộ trưởng Ngân Khố.

- Tướng Omar Bradley, Tổng Tham Mưu Trưởng thời TT Harry Truman.

- Tướng Maxwell Taylor, cựu Đại sứ ở Việt Nam.

- Robert Murphy, một nhà ngoại giao kỳ cựu từ thập niên 1930.

- Tướng Matthew Ridgway, cố vấn quân sự của TT Dwight Eisenhower.

- Henry Cabot Lodge, nguyên Đại sứ tại Liên Hiệp Quốc và Việt Nam.

- George Ball, cựu Thứ trưởng Ngoại Giao dưới thời TT Kennedy và Johnson.

- Dean Acheson, cựu Ngoại trưởng thời TT Truman, nổi danh là một “cold warrior” (chiến binh chiến tranh lạnh Mỹ-Nga).

Thái độ chống chiến tranh Việt Nam của Dean Acheson–người từng cổ võ việc ngăn chặn luồng sóng đỏ tràn ngập Đông Dương 18 năm trước–có ảnh hưởng lớn đến quyết định của TT Johnson.

Hai tài liệu dưới đây trích ra từ hồ sơ “Meeting with Special Advisory Group” (Họp với Nhóm Cố Vấn Đặc Biệt), ngày 26/3/1968, Hồ Sơ Ghi Chép các Buổi họp, Hộp 2, LBJL [Austin, Texas]).

TÓM LƯỢC CÁC GHI CHÚ

26/3/1968

McGeorge Bundy: Có một sự thay đổi lớn về vị thế của chúng ta. Buổi họp trước chúng ta thấy nhiều lý do để hy vọng.

Chúng ta đã hy vọng rằng sẽ có tiến triển đều đặn, dù chậm. Đêm qua và ngày hôm nay, sự việc không còn đầy hy vọng như trước, đặc biệt là ở vùng nông thôn.

Dean Acheson: Tóm lược ý kiến của đại đa số khi ông nói rằng với khoảng thời gian còn lại, chúng ta không thể tiếp tục hoàn tất những việc chúng ta định làm, và chúng ta phải bắt đầu việc giải kết.

Ý kiến này được những người sau đồng ý:

George Ball

Arthur Dean

Cyrus Vance

Douglas Dillon

và chính tôi (McGeorge Bundy)

Chúng tôi đều nghĩ rằng chúng ta (Mỹ) phải làm bất cứ điều gì để giúp chính phủ Nam Việt Nam mạnh hơn một cách thiết thực và rõ ràng.

Có 3 người trong chúng tôi có quan điểm khác:

- Tướng Bradley

- Tướng Taylor

- Bob Murphy

Họ nghĩ rằng chúng ta không nên tự làm suy yếu vị thế của mình và cần làm những gì mà các tướng lãnh yêu cầu.

Tướng Ridgway có một quan điểm khác. Ông muốn giúp Quân lực Nam Việt Nam hùng cường hơn để có thể hoàn thành nhiệm vụ trong 2 năm.

Khi thảo luận, Ball, Goldberg và Vance đề nghị phải ngưng oanh tạc lúc này. Những người khác đồng ý ngưng oanh tạc, nhưng phải đợi cho tình thế Vùng I/CT sáng sủa hơn.

Về việc gửi thêm quân (qua VN), cảm nghĩ chung là những người xin tăng viện cần phải chứng tỏ rõ ràng lý do xin tăng quân. Tất cả chúng tôi nghĩ rằng cần có một cuộc leo thang quan trọng. Chúng tôi cũng đồng ý rằng không nên mở rộng thêm chiến tranh. Điều này đi ngược lại quyền lợi quốc gia chúng ta.

Không thể nghĩ đến việc xử dụng bom nguyên tử.

TÓM LƯỢC

RIDGWAY: Tôi đồng ý với bản tóm lược của McGeorge Bundy.

Arthur DEAN: Tôi đồng ý. Tất cả chúng ta đều có cảm giác là không nhìn thấy được một giải pháp quân sự nào. Chúng ta cảm thấy không còn đủ thời gian nữa.

DEAN ACHESON: Đồng ý với sự trình bày của Bundy. Nỗ lực của chính phủ Việt Nam hay Mỹ đều không thể thành công trong thời gian còn lại. Thời gian bị giới hạn bởi những phản ứng trong nước (Mỹ). Chúng ta không thể xây dựng một miền Nam Việt Nam độc lập. Bởi thế, ta phải làm một cái gì đó chậm nhất là vào cuối Hạ (1968).

HENRY CABOT LODGE: Chúng ta phải đổi từ chiến lược “truy diệt” sang chiến thuật xử dụng sức mạnh quân sự (Mỹ) làm lá chắn cho phép xã hội miền Nam phát triển tốt đẹp như xã hội miền Bắc có đủ khả năng thực hiện. Ta cần tổ chức miền Nam theo căn bản khu-phố-bên-những-khu-phố, quận-bên-những-quận.

DOUGLAS DILLON: Ta phải thay đổi trọng tâm (chính sách). Tôi đồng ý với Acheson. Buổi thuyết trình tối qua khiến tôi đi đến kết luận là ta không thể đạt chiến thắng quân sự. Tôi đồng ý với Lodge rằng phải ngừng chiến thuật truy diệt, và chuyển sang giải kết. Tôi sẽ chỉ gửi số quân cần thiết sang (Việt Nam) để hổ trợ lực lượng đã ở đó.

GEORGE BALL: Tôi cùng một quan điểm với Acheson. Từ năm 1961, tôi đã nghĩ rằng ta không thể đạt được mong muốn ở đó. Tại Hoa Kỳ, dư luận rất chia rẽ. Trên thế giới, việc oanh tạc (Bắc Việt) khiến chúng ta bị mất uy tín. Đó chính là điểm thất bại trọng tâm của (chính sách) chúng ta. Oanh tạc (Bắc Việt) có nhiều điểm bất lợi hơn hữu ích. Ta cần ngưng oanh tạc trong vòng 6 tuần lễ để trắc nghiệm thiện chí của Bắc Việt. Càng kéo dài thời gian oanh tạc, càng khiến ta bị cô lập với thế giới văn minh. Tôi muốn Giáo Hoàng hay (Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc) U Thant đưa ra đề nghị ngưng oanh tạc. Tổng Thống (Johnson) không thể tự mình tuyên bố điều này.

Ngưng oanh tạc sẽ khiến tình hình trong nước lắng dịu xuống.

CY VANCE: McGeorge Bundy nói lên được quan điểm của tôi. Tôi đồng ý với George Ball.

Trừ khi chúng ta phải làm một cái gì thật gấp, thái độ trong nước có thể khiến chúng ta phải triệt thoái.

Về (tăng viện), ta đừng nên gửi quá 13,000 người ...

Tướng TAYLOR: Tôi rất bất mãn. Tôi có cái nhìn khác hơn quí vị. Ta đừng nên hàng phục ở mặt trận trong nước. Cần phải có phản ứng.

[Thẩm phán Tối cao Pháp viện] FORTAS: Hoa Kỳ chưa hề có ý định đạt được thắng lợi quân sự ở đó; ta luôn luôn muốn đạt một sự thỏa thuận hay duy trì hiện trạng giữa hai miền Nam-Bắc. Tôi đồng ý với Tướng Taylor ... Đây không phải lúc phía ta thay đổi thái độ. Tôi không nghĩ rằng ngưng oanh tạc sẽ đem lại điều gì tốt đẹp ở thời điểm này. Tôi không tin là nên thay thế một thảm kịch bằng một thảm kịch khác.

ACHESON: Vấn đề không giống như Fortas nêu ra. Vấn đề là chúng ta có thể làm được những gì chúng ta đang muốn làm ở Việt Nam chăng? Tôi nghĩ là không. Fortas nói chúng ta không cố gắng đạt một chiến thắng quân sự. Vấn đề là liệu chúng ta có thể sử dụng quân sự ngăn cản người Bắc (đừng xâm lấn) người Nam? Tôi không nghĩ vậy. Người Bắc có thể lươn lẹo, dồn người Nam vào đường cùng, và bẻ nát họ.

Chính Đạo

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12945)
(Xem: 14380)
(Xem: 15761)
(Xem: 15171)
(Xem: 15191)
(Xem: 15995)
(Xem: 14619)
(Xem: 14371)
(Xem: 14371)
(Xem: 15331)