- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

" Marguerite Duras Đã Cư Ngụ Nơi Đây..."

20 Tháng Bảy 201012:00 SA(Xem: 28382)

the-lover-duras_0_195x300_1Trên đường dẫn tôi đi thăm Honfleur, một thành phố hải cảng trong vùng Normandy còn giữ được nhiều kiến trúc từ thời Trung cổ vô cùng bắt mắt đối với một người yêu kiến trúc và ham chụp hình như tôi, cô bạn Thế Dung đã dành cho tôi một ngạc nhiên thú vị khi dừng xe lại trước một toà nhà năm tầng bằng gạch ngó ra biển Đại Tây Dương, trong vùng Trouville-sur-Mer, giục tôi xuống xem.

Toà nhà trông cũng giống như nhiều ngôi nhà tôi đã thấy quanh đó -- kiến trúc kiên cố song vẫn giữ được nét duyên dáng, bảo trì kỹ lưỡng. Chỉ khác một điều: trên cái cột bên phải nơi cổng ra vào khép kín có một tấm biển bằng đá mầu hồng với những chấm đen, trên ghi:

Ancien Hôtel des Roches Noires
Marguerite Duras a résidé ici
de longues periodes entre 1963 et 1996
"Regarder la mer c’est regarder le tout"

 

Bên tay mặt của toà nhà là những nấc thang dẫn xuống bãi biển, với một tấm biển đề, "Escalier Marguerite Dugas 1914-1996". Tôi không khỏi bồi hồi.

Marguerite Duras là một trong những tác giả mà tôi yêu thích. Yêu vì tài văn chương, khả năng điện ảnh và sức sáng tác vô cùng phong phú của bà. Song, một cách thiên vị, tôi cũng còn mến bà ở chỗ bà đã tạo nên ba tác phẩm đặt bối cảnh là Nam Việt Nam, tức Nam Kỳ thời còn là thuộc địa Pháp, và là ba tác phẩm quan trọng nhất vì chúng là nền tảng của thân thế và sự nghiệp của bà.

 Đó là cuốn tiểu thuyết "Un barrage contre le Pacific" (1950), bản dịch Anh ngữ là "The Sea Wall"; cuốn "L’Amant" (1984), bản dịch Anh ngữ là "The Lover"; và cuốn "L’Amant de la Chine du Nord" (1991), bản dịch Anh ngữ là "The North China Lover". Hai cuốn đầu, "Un barrage contre la Pacific" và "L’Amant", đã được dựng thành phim. Riêng cuốn "Un barrage" được dựng thành phim tới hai lần, lần đầu vào năm 1957, tựa là "This Angry Age", do Rene Clement đạo diễn và tài tử Anthony Perkins đóng một trong các vai chính; và mới năm ngoái, 2008, "Un barrage" được dàn dựng lại dưới tựa cùng tên với sách, do nhà làm phim tài liệu người Pháp gốc Miên Rithy Panh đạo diễn, quay tại Prey Nup, Cambodia.

Marguerite Duras ra đời ngày 4 tháng 4, 1914, dưới tên Marguerite Donnadieu, tại Gia Định, Sàigòn, là con gái duy nhất và út trong ba người con. Duras, mà bà chọn làm bút hiệu, là tên một làng nhỏ ở miền nam nước Pháp, nơi cha bà làm chủ một ngôi nhà. Cha mẹ của bà, Henri và Marie Donnadieu, là giáo sư toán và Pháp văn, sang Đông Dương dậy học cho chính quyền thuộc địa. Năm cô bé Marguerite lên 4 tuổi, ông bị bệnh nặng, phải đưa về Pháp điều trị, và chết tại đó. Bốn mẹ con bà Donnadieu sau đó trở lại Việt Nam sống và lâm vào cảnh nghèo khó vì bao nhiều tiền để dành bà giáo Marie đã đổ vào miếng đất ven Vịnh Thái Lan thuê lại của chính quyền thuộc địa, một phần để xây bức tường (nhiều lần) ngăn nước biển tràn vào đất trồng trọt, phần khác để kiện tụng các viên chức thuộc địa đã lừa gạt bà.

Những chi tiết của quãng đời này đã được Duras mô tả cùng với các nhân vật được xây dựng tài tình trong cuốn tiểu thuyết "Un barrage contre le Pacific" (Sea Wall), cuốn tiểu thuyết đã chính thức đưa tên tuổi bà lên tại Pháp và tại những quốc gia cựu thuộc địa của Pháp, trong đó có Việt Nam, và mở đầu cho một chuỗi những sáng tác quan trọng khác, nổi bất nhất là "Hiroshima Mon Amour" (1959). "Hiroshima", về mối tình giữa một phụ nữ Pháp và một người đàn ông Nhật, do bà viết truyện phim và Alain Renais đạo diễn, đã đưa tên tuổi bà lên văn đàn quốc tế.

Sau vụ khẩn hoang thất bại, bà Donnadieu đem các con về Sadec sống bằng nghề dậy học. Trường là một ngôi biệt thự kiểu thuộc địa hiện vẫn tồn tại, vẫn được dùng làm trường học, đứng cũ kỹ ở góc đường Hồ Xuân Hương và Hùng Vương, do một số ký gỉả Tây phương tìm ra trước sự vô tình thờ ơ của người địa phương, cũng như họ không hiểu tại sao mấy ông bà ngoại quốc này lại để ý tới tòa nhà chả có gì đặc biệt đó. Gia đình bà giáo Marie sống ở ngôi nhà nhỏ nằm phía sau ngôi biệt thự được dùng làm trường học. Cô bé Marguerite lớn lên tại đây, nói thông thạo tiếng Việt, và là một cô gái da trắng duy nhất sống trà trộn, nhưng không hòa đồng, với người Việt bản xứ, chung đụng vớí họ trên các chuyến phà và xe buýt, cho đến khi xong trung học thì được mẹ gửi về Pháp theo học đại học bằng tiền dành giụm của bà.

Cũng trong thời kỳ này, cô thiếu nữ Marguerite, trong những chuyến từ Sàigòn, nơi cô học nội trú, về Sadec thăm nhà, quen với một thanh niên người Tầu hơn cô trên 10 tuổi, con của một điền chủ giầu có trong vùng. Họ trở thành tình nhân, tạo nên một sì-căng-đan hồi ấy ở cả Sàigòn lẫn Sadec. Cô thiếu nữ Marguerite được mẹ khuyến khích quyến rũ anh chàng người Tầu giầu có để moi của, làm người đã đọc hay xem phim "Un barrage contre le Pacific" liên tưởng đến cũng một bà mẹ, cay đắng vì thất bại, cũng đã từng thúc đẩy con gái quyến rũ một người đàn ông giầu có để moi của. Cuộc tình đầy đam mê, sôi nổi và không dẫn tới đâu này giữa Marguerite và người thanh niên Tầu là nền tảng của cuốn tiểu thuyết L’Amant (The Lover), xuất bản năm 1984, đã đem về cho Duras giải Goncourt, được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ, được quay thành phim năm 1992, do Jean-Jaques Anneaud đạo diễn với nhiều cảnh quay ngay tại Sadec, và đã được đón tiếp nồng nhiệt.

Người mẹ trong cả hai cuốn tiểu thuyết "Un barrage contre le Pacific" và "L’Amant" đã được Duras mô tả như một người nhiều bất mãn, cay đắng, chua chát trước số phận không may của mình -- một người đàn bà da trắng, có học song đời sống vật chất còn thua xa cả nhiều người dân thuộc địa --, song cũng là một người đầy nghị lực, ngoan cố, không chịu khuất phục trước nghịch cảnh, kể cả thiên tai. Trong "Un barrage", bà không những chỉ xây bức tường để ngăn nước biển tràn vào ruộng một lần, mà nhiều lần, tới khi kiệt quệ tiền bạc. Cũng chính cá tính ấy, đặc biệt là sự bất khuất và thái độ thách thức, đã ảnh hưởng sâu xa tới con người và đời sống của Duras sau này.

Điển hình hơn cả là vào đầu thập niên 1980, khi bà đã xấp xỉ 70 tuổi, gan thận đã nát bấy vì bệnh nghiện rượu, trong khi mọi người nghĩ bà đã hết, thì bà trỗi dậy, như người gần chết sống lại, cho ra đời cuốn tiểu thuyểt "L’Amant", một thứ tiểu thuyết hồi ký về tuổi mới lớn của bà ở vùng đồng bằng song Cửu Long, được giải Goncourt, trở thành best-seller và đã được dịch ra trên 40 thứ tiếng với số bán cả triệu ấn bản.

Chưa hết, khi cuốn truyện được dựng thành phim vào năm 1992 và cũng thành công không kém, nhưng Duras không hài lòng với cuốn phim. Bà bèn ngồi xuống, ở tuổi gần 80, viết một cuốn truyện khác để "nói lại cho rõ", kể cả việc dùng những trích đọan của cuốn "L’Amant" trong cuốn sau này. Đúng ra thì bà không tự tay viết, mà là đọc cho người bạn đường Yann Andréa, trẻ hơn bà tới cả 40 tuổi, ghi và đánh máy lại vì bà bị hư cánh tay mặt, tại Ancien Hotel des Roches Noires ở Trouville, nơi tôi đã có dịp ghé qua chụp hình. Cuốn tiểu thuyết mang tựa đề "L’Amant de la Chine du Nord" ("The North China Love") cũng đã được đón nhận nồng nhiệt, mặc dù những bình phẩm bất lợi, cho là bà đã lợi dụng sự thành công của cuốn phim. Đến cả chủ bút Jérôme Lindon của nhà xuất bản Minuit, là nhà xuất bản đã in cuốn "L’Amant", cho rằng bà đã sai lầm khi viết một ấn bản khác của cùng một câu chuyện.

Duras không quan tâm tới những bình phẩm. Bà là một mẫu người cực đoan, tự tin tới độ ngoan cố, nhiều định kiến, bất chấp dư luận và nguyên tắc, kể cả những nguyên tắc của một nghề nghiệp, song hùng biện và quyến rũ. Bà thích nghe người ta tán thưởng bà, theo nhà phê bình Edmund White (1940-), người đã từng tiếp xúc với bà ở Paris. Edmund đã mô tả bà như "một người tự kỷ ám thị và thường xuyên nói về mình", rằng bà "yêu bà, trích dẫn chính mình, bà hồ hởi, như một đứa trẻ, đọc những gì bà viết và xem những phim cũ của bà, những cuốn phim mà bà cho tất cả đều tuyệt vời." (*)

Như thể cô bé Marguerite ương ngạnh, phục sức lố lăng, bất cần đời trên những chuyến phà ở vùng đồng bằng sông Cửu Long dạo nào vẫn không chịu lớn, mặc dù cái thân xác chứa đựng cô đang héo úa, tàn tạ. Có lẽ vì thế mà bà đã không ngần ngại bước sang những lãnh vực khác, như viết kịch, truyện phim và đạo diễn điện ảnh, với cùng một niềm tự tin như với văn chương, và gặt hái phần nào thành công. Bà cũng đã thử nghiệm với vài thể văn chương mới, như trong "L’Amant", với lối viết rất đơn giản, như loại tranh thủy mạc đơn sơ, ít chi tiết, hoặc như một sơ lược chi tiết của một truyện phim (scenario), khác hẳn với thể loại truyền thống của "Un barrage contre le Pacific". Cũng có một dạo bà nhúng tay vào tường thuật báo chí, nhưng vì đầy định kiến, bị nhiều người không tán thành. 

Rồi ở tuổi 66, Duras gặp Yann Andréa Steiner, lúc ấy là một thanh niên mới chớm 20, thuộc giới đồng tính luyến ái và là người mến mộ bà (fan), và nhận anh ta làm người bạn đường suốt quãng đời còn lại. Cũng chính nhờ Andréa, đặc biệt là tình yêu và sự tận tụy của anh ta, mà mặc dù đã bị liệt cánh tay mặt và đi lại khó khăn, Duras vẫn sáng tác bằng cách đọc cho Andréa chép rồi đánh máy lại. Đã hẳn Andréa, vì lòng mến mộ văn chương bà, có lẽ đã khích lệ bà rất nhiều. Chính Duras nhìn nhận cuốn "M.D." (1983) Andréa viết về bà đã gợi hứng cho bà viết "L’Amant".

Cuộc hành trình 16 năm của Andréa với Duras đã được đạo diễn Josée Dayan dựng lại trong phim "Cet amour-là" (2001), nói tiếng Pháp với phụ đề Anh ngữ, với Andréa đóng góp phần đối thoại. Phim do nữ tài tử Jeanne Moreau thủ vai Marguerite Duras và Aymeric Demarigny, một diễn viên mới vào nghề, đóng vai Andréa. Sự "hợp tác văn chương" khá đặc biệt này đã được James S. Williams khai thác trong bài "A Beast of a Closet: The Sexual Differences of Literary Collaboration in the Work of Marguerite Duras and Yann Andréa". (**)

Dù Duras lập đi lập lại cùng một câu chuyện, với bấy nhiêu nhân vật -- người mẹ cay đắng nhưng bất khuất/ngoan cố, người anh trai vô dụng, người tình đầu đời khác chủng tộc lúc xấu xí (khi người mẹ bắt con gái quyến rũ để moi của), khi đẹp trai, sang trọng và ngoài tầm tay với (khi Duras về già nhìn lại mối tình đầu) -- qua hết cuốn này này tới cuốn khác, kể cả hồi ký, tùy bút, độc giả hình như vẫn chưa thấy đủ. Họ vẫn yêu và tìm đọc bà, vì họ đã "phải lòng" bà, như tựa bài biên khảo rất sâu sắc về con người và sự nghiệp của Marguerite Duras của Edmund White, "In Love with Duras". (*)

Trước sau, Duras đã để lại cho nền văn học Pháp và những nguời yêu mến bà, dù có thể chỉ qua vài tác phẩm quan trọng của bà, một sư nghiệp đồ sộ: Trên 40 tác phẩm vừa tiểu thuyết vừa kịch bản, truyện phim, hồi ký, và khoảng 20 cuốn phim ngắn và dài do chính bà đạo diễn. (***) 

Tên tuổi và sự nghiệp đồ sộ như vậy, khi chết, được chôn ở Nghĩa Trang Montparnass, Quận 14, Paris, mộ bia của Duras chỉ khắc vỏn vẹn hai chữ "M.D."

Ghi chú:

(*) Edmund White, "In Love with Duras", The New York Review, June 26, 2008, http://www.nybooks.com/articles/21556.

(**) James S. Williams, "A Beast of a Closet: The Sexual Differences of Literary Collaboration in the Work of Marguerite Duras and Yann Andréa", Vol. 87, No. 3 (Jul., 1992), pp. 576-584, (article consists of 9 pages), The Modern Language Review, published by: Modern Humanities Research Association, http://www.jstor.org/stable/3732921

(***) Thư mục của Marguerite Duras, http://en.wikipedia.org/wiki/Marguerite_Duras.

Hình ảnh và chú thích:

blank

Hình cực trái, cô thiểu nữ Marguerite Donnadieu, chụp tại Đông Dương. Hình giữa, với mẹ, Marie Donnieu, tại Pháp, 1932. Hình cực phải, không rõ năm. (Ảnh Internet)

blank

 

Hình cực trái, Ancien Hôtel des Roches Noires mặt hướng ra biển Đại Tây Duưong, được xây cất vào năm 1866, nay là di sản văn hóa quốc gia Pháp. Toà nhà từ năm 1959 không còn là khách sạn nữa mà được bán cho dân, như condominium, để ở. Marguerite Duras đã mua một căn vào năm 1963 và cư ngụ tại đây tới khi bà mất vào năm 1996. Hình giữa là phòng làm việc của Duras. Hình phải, ngôi mộ của Marguerite Duras, với chữ "M.D." đơn giản, tại Nghĩa trang Montparnasse, Quận 14, Paris. (Ảnh Internet)

blank

Hinh bên trái, một góc của toà nhà Ancien Hôtel des Roches Noires, 89 rue de General-Leclerc, Trouville-sur-Mer. Được xây cất vào năm 1886, tòa nhà này nay là một di sản văn hóa quốc gia Pháp. Marguerite Duras đã lui tới nơi đây thường xuyên để sáng tác, từ năm 1963 tới khi bà mất vào năm 1996, và đã dùng nơi đây làm bối cảnh cho ba cuốn phim của bà. Phía tay mặt trong hình là một tấm bảng dựng bên cạnh cầu thang dẫn xuống bãi biển, trên đề "Escalier Marguerite Duras 1914-1996". Hình bên phải, tấm biển bằng đá gắn trên một cái cột bên cổng ra vào, trên có hàng chữ, "Khách sạn cổ kính Roches Noires / Marguerite Duras đã cư ngụ ở đây trong nhiều thời kỳ dài giữa 1963 và 1996 / ‘Thấy biển là thấy tất cả’." (Ảnh Trùng Dương, 06/2009)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Sáu 20216:03 CH(Xem: 10507)
Tôi nhớ xa xôi có người đã từng ví von bên tai tôi " Dù cho sông cạn đá mòn tình cảm này không hề thay đổi". Ngày ấy, tôi cứ nghĩ sông khó mà cạn lắm chứ, nhưng không, dòng sông nơi tôi ở cứ cạn rồi đầy liên tục trong ngày. Lòng người cũng vậy không có gì là mãi mãi với thời gian. Cái mà dễ thay đổi nhất trên đời này nghiệm ra rằng đó chính là tình cảm; những lời yêu xưa chỉ là ví von trong lúc cảm xúc còn đong đầy nên chả trách gì nhau khi người dễ quên nhau...
19 Tháng Năm 202110:35 CH(Xem: 11023)
Tôi thuộc thơ của thi sĩ Hoàng Cầm từ nhiều năm trước khi biết đến Hoàng Kỳ - người con trai đầu của cụ. Qua nhà thơ Thanh Kim, phóng viên báo Bắc Giang, tôi được gặp anh lần đầu tại thư viện của thị xã Bắc Giang (tỉnh Hà Bắc cũ). Mới gặp, anh có vẻ lịch sự xã giao, thậm chí như hơi đề phòng- thói quen hình thành trong một hoàn cảnh gia đình đầy sóng gió đã ảnh hưởng sâu đậm tới cuộc đời anh... Nhưng dần dà, cái vỏ ngoài ấy đã biến mất hẳn sau nửa giờ trò chuyện, khi anh hiểu rõ rằng: trước mặt anh là một "con mọt sách", đang muốn tìm hiểu về văn hóa vùng Kinh Bắc...
07 Tháng Năm 20214:48 CH(Xem: 10928)
Tiếng nói đầu tiên của một em bé khi bắt đầu học nói là Me, Mẹ, Mạ, Má, Mommy, Maman, và nhiều nữa với những ngôn ngữ hay tiếng địa phương khác, đặc biệt hầu như đều bắt đầu bằng chữ “M”. Có lẽ đó là mẫu tự thiêng liêng chung của nhân lọai khi gọi người đã cưu mang, yêu thương và đùm bọc mình suốt cả cuộc đời. MẸ ở kinh thành hay MẸ ở nơi thôn dã, MẸ ở trên núi hay MẸ ở dưới biển, MẸ là lá ngọc cành vàng hay MẸ gặt lúa trồng rau….. MẸ cũng mang nặng con chín tháng mười ngày, MẸ banh da xẻ thịt đưa con vào đời, và khi con khóc tiếng khóc đầu đời, MẸ đã vừa khóc vừa cười ôm con vào lòng mà quên đi hết những nhọc nhằn mang nặng đẻ đau. Khỏang thời gian còn lại của MẸ là ôm ấp, bảo bọc, hy sinh, dạy dỗ….. và nhiều lắm của tình mẫu tử MẸ dành cho đàn con của MẸ, và cứ thế mà nhân lọai tồn tại và phát triển.
07 Tháng Năm 20211:54 SA(Xem: 10578)
Tôi gặp anh Nguyên Minh lần đầu tại một quán cà phê vỉa hè đường Phan Xích Long. Hơn mười năm trước tôi thường viết bài trên trang vanchuongviet, ngày ấy chủ biên Nguyễn Hòa chưa ngã bệnh anh còn xông xáo chuyện chữ nghĩa. Anh em thỉnh thoảng gặp nhau khi tôi vào Sài Gòn, hôm ấy có tôi, vợ chồng anh chị Trương Văn Dân _ Elena, anh Nguyễn Hòa hẹn gặp Sâm Thương và Nguyên Minh. Các anh đều là những bậc tiền bối tôi ngồi nghe các anh bàn luận và dự tính ra mắt một tập san văn học nghệ thuật riêng của mình, từ đó anh em quen nhau.
20 Tháng Tư 20215:10 CH(Xem: 10762)
Mỗi lần nghĩ đến chiến tranh, giải phóng đất nước, cách mạng dân tộc, tự do nhân quyền, xuống đường biểu tình... đầu óc tôi lơ mơ liên tưởng đến vụ Thiên An Môn năm nào. Hình ảnh người đàn ông hiên ngang tiến ra giang rộng hai tay đòi hỏi tự do, chận đứng xe tăng, chống lại quyền lãnh đạo độc tài của đảng cộng sản Trung Quốc. Hình ảnh anh hùng, xem cái chết tựa lông hồng, với lòng đầy thách thức, đòi hỏi tự do dân chủ nhân quyền cho xứ sở. Hình ảnh đó đã đánh mạnh vào tâm não toàn thể người dân trên toàn thế giới. Riêng tôi, vẫn âm thầm nghĩ tới người lính lái chiếc xe tăng khổng lồ đầy răng sắt. Hẳn ông phải là một người rất đỗi từ bi, nhân hậu? Thương người như thể thương thân. Ông từ chối giet người, dù trong tay nắm toàn quyền nghiền nát người đàn ông hiên ngang hùng dũng kia. Hành động nghiền nát đó, sẽ được coi như một chiến công hiển hách đối với đảng và nhà nước.
20 Tháng Tư 20214:59 CH(Xem: 11108)
Tháng tư năm ấy, sao tôi không mấy lao đao về cái chết tự tử của một người chị họ chưa đầy hai mươi tuổi. Năm ấy, một chín bảy lăm, nghe mạ tôi nói chị bị cào nát mặt hoa và ăn đòn phù mỏ chỉ vì lỡ tranh giành một miếng nước ngọt trên chuyến tàu tản cư từ Đà Nẵng vào Nha Trang. Liệu như thế đủ để chị chán sống hay còn vài lý do thầm kín khác mà tôi không đoán được. Ồ phải rồi, nghe kể mẹ chị ấy là mợ tôi ngồi đâu cũng thở dài rất thảm, lâu lâu tuồng như muốn nuốt ực những giọt nước mắt dội ngược vào lòng và lâu lâu thì lại trào ra trăm lời nguyền rủa về những xui xẻo không tránh được, ví dụ nỗi đau rát rực rỡ của mấy bợm máu kinh nguyệt thời con gái chị tôi đã phọc lai láng trên đít quần suốt những ngày chạy giặc thiếu nước và máu ôi thôi là máu của những xác người vô thừa nhận trên con đường lánh nạn.
20 Tháng Tư 20214:23 CH(Xem: 11178)
Tôi đã thay đổi vì biến cố tháng Tư Bảy Lăm, nhưng cũng có thể tôi đã mất thiên đường từ trước khi ra đời. Đó là câu hỏi mà tôi ngẫm nghĩ gần đây. Năm nay tôi 43 tuổi, mặc dù tôi nhuộm tóc và vẫn thích người ngoài khen tôi trẻ, tôi hiểu mình nhiều hơn, và cũng chân thật với mình nhiều hơn lúc còn trong tuổi niên thiếu. Trên nhiều phương diện, có thể tôi cũng đầy đủ hơn ngày xưa. Nhưng tất cả những câu chuyện mà tôi hay kể với bạn bè để biểu lộ tâm trạng “cá ra khỏi nước” mà tôi vẫn cảm thấy đeo đuổi mình thường trực, đều bắt nguồn từ trước biến cố Bảy Lăm.
20 Tháng Tư 20214:18 CH(Xem: 10996)
Tháng 4, 1975, tôi 11 tuổi. Lúc đó tôi sống với cha, em trai và bà nội ở ngang chợ An Đông, Sài Gòn. Mẹ tôi ly dị cha tôi trước đó 2 năm để lấy người tình. Người tình của mẹ tôi làm tài xế cho cha tôi khi hai người còn là cảnh sát. Ông này trẻ, cao, vạm vỡ và đẹp trai hơn cha tôi. Ông cũng galăng, nhỏ nhẹ hơn cha tôi. Có lẽ ông cũng dai và dẻo hơn cha tôi. Vô tư mà chấm, có lẽ hai người xứng đôi. Ai cũng khen mẹ tôi đẹp, nhưng tôi không thấy mẹ tôi đẹp tí nào. Sau này, khi cãi lộn với chồng mới, bà bị bạt tai nên vung lời, “Đồ tài xế!”
15 Tháng Tư 20211:03 SA(Xem: 4374)
Ngày này 46 năm trước, tôi đang rong ruổi trên đường cái quan chạy về Sài Gòn. Gia đình tôi và những người dân miền Trung hớt hải tháo thân khi nghe tin bước chân của quân miền Bắc đang tiến vào Nam. Những người bạn thế hệ tôi ngày ấy ra sao, những ngày tàn cuộc chiến? Những ngày cuối tháng tư, giờ này bà ngoại của Thơ Thơ đang chia gia tài cho con cháu là những lọ xyanua, phòng nếu có điều gì. Mỗi người một lọ thuốc trong vắt, thơm mùi hạnh nhân, thuốc cực độc uống vào vài giây là chết tức khắc, bà nói cầm chắc thuốc độc trên tay là cầm chắc định mệnh của mình. Bà là vợ của nhà văn Hoàng Đạo, giòng họ của nhóm Tự lực văn đoàn, văn đàn vang danh một cõi xứ Bắc. Tôi hiểu tâm trạng của bạn tôi trong đêm cuối ở đài Tiếng nói Tự do trên phòng chờ lầu 2, tất cả gia đình nhân viên trong đài và văn nghệ sĩ miền Nam tập trung để được “ bốc” đi, đêm dài dằn dặc, phía dưới đường phố là sự hoảng loạn của người dân Sài Gòn, mọi người im lặng căng thẳng nghe cả tiếng máy lạnh rì rầm, bạn phải tìm
15 Tháng Tư 202112:27 SA(Xem: 11261)
Chiếc xe gài số lui ra khỏi sân nhà, ngang mấy hàng lan Hoa Hậu và gốc nhãn đang đậu trái nhỏ li ti, thành chùm. Tôi hỏi: Xe nhà mình lúc đó là xe gì? Ba nói Con không nhớ sao? Tôi gấp lại dãi khăn tang trắng. Hôm mãn tang Ba, ở chùa về, tôi đã định đốt dãi khăn trong lò sưỡi. Tháng này trời Cali chưa chiều đã nhá nhem. Tôi để cuộn khăn trở lại bàn nhỏ cạnh đầu giường. Ba không còn ngồi trên ghế gần cửa ra vào. Trong phòng còn có mình tôi.