- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NÀNG MÂY CỦA TRỊNH

07 Tháng Năm 20211:54 SA(Xem: 10556)
mây trắng bay-Quy SG
Mây Trắng Bay - ảnh Qúy SG 

Ban Mai

NÀNG MÂY CỦA TRỊNH

 

 

Tôi gặp anh Nguyên Minh lần đầu tại một quán cà phê vỉa hè đường Phan Xích Long. Hơn mười năm trước tôi thường viết bài trên trang vanchuongviet, ngày ấy chủ biên Nguyễn Hòa chưa ngã bệnh anh còn xông xáo chuyện chữ nghĩa. Anh em thỉnh thoảng gặp nhau khi tôi vào Sài Gòn, hôm ấy có tôi, vợ chồng anh chị Trương Văn Dân _ Elena, anh Nguyễn Hòa hẹn gặp Sâm Thương và Nguyên Minh. Các anh đều là những bậc tiền bối tôi ngồi nghe các anh bàn luận và dự tính ra mắt một tập san văn học nghệ thuật riêng của mình, từ đó anh em quen nhau.

 

Nhà văn Nguyên Minh trước năm 1975 là chủ biên tạp chí Ý Thức, với kinh nghiệm làm báo in ấn phát hành, năm 2011 anh đứng ra thành lập tạp chí Quán Văn tại Sài Gòn làm sân chơi cho những người yêu thích văn chương. Nhà văn Nguyên Minh là một người mê văn chương nghệ thuật bất vụ lợi, nếu ai đã từng gặp hẳn nhiên sẽ nhận ra điều này ngay tức khắc.

Ngoài việc đam mê làm báo anh còn là một nhà văn, với mối quan hệ rộng trong giới văn chương nghệ thuật. Ở anh là một kho tàng giai thoại của các văn nghệ sĩ mà anh quen biết từ khi còn đi học cho đến lúc làm báo cuối thập kỷ 60s.

“Mây Trôi” là một truyện ngắn, nhà văn Nguyên Minh kể lại kỷ niệm về một người bạn học cũ.

 

Nguyên Minh là bạn cùng học Sư Phạm Quy Nhơn với Trịnh Công Sơn những năm 1962-1964. Sau khi ra trường mỗi người được phân công một nhiệm sở, Nguyên Minh về Phan Rang giảng dạy ở quê nhà, Trịnh Công Sơn điều lên Bảo Lộc. Tình cờ sau 4 năm, Nguyên Minh gặp gỡ Trịnh Công Sơn và những người bạn học trong một lần lên Đà Lạt, ngày ấy Trịnh Công Sơn đã bỏ dạy, ông chuyên tâm sáng tác nhạc, những Ca khúc da vàng viết về thân phận con người trong chiến tranh của ông đã nổi tiếng khắp Miền Nam, ngày gặp đó TCS đang làm một đêm nhạc hát cho sinh viên trường Đại học Đà Lạt.

Nguyên Minh nhã ý mời Trịnh Công Sơn đến Phan Rang chơi và làm một đêm nhạc tại quán cà phê Tao Nhân. Nhạc sĩ họ Trịnh hào hứng vì ông thích những nơi xa lạ chưa từng đến.

 

Quán cà phê Tao Nhân nằm ở số 11 Nguyễn Thái Học, trên một con đường vắng với hàng me cổ thụ rợp bóng mát, là con đường dành cho các đôi tình nhân. Quán cà phê này là căn nhà của Nguyên Minh, sau khi trở về Phan Rang dạy học, thị xã lúc đó buồn hiu, không biết làm gì vào buổi tối, anh cùng vài người bạn mở một quán cà phê sau giờ làm từ 6h chiều đến 10h đêm, đó là nơi cho bạn bè hẹn hò, đàm đạo trong tiếng nhạc dìu dặt những bản Dư âm, Suối tóc, Tà áo xanh, Người đưa thư … với tiếng hát Thúy Nga, Thanh Thúy rồi Khánh Ly, Lệ Thu trầm buồn, một chốn thư giãn của mọi người sau một ngày làm việc căng thẳng. Vì vậy, quán cà phê Tao Nhân phút chốc đã trở nên nổi tiếng, đó là nơi thường đến của các anh nhà giáo, công chức, bác sĩ, các cô cậu học sinh tuổi mới lớn đang hẹn hò yêu đương. Một trong những người khách thỉnh thoảng đến quán là nàng Vân Phi. “Trong những người khách đến quán vừa thích nghe nhạc vừa hạp gu cà phê, có một người con gái cùng lứa tuổi chúng tôi đã để lại một ấn tượng khó quên. Nàng tên Vân Phi. Người con gái dáng mảnh khảnh, mắt mí lót, tóc đen mướt xõa quá lưng. Nàng có một giọng ca trầm trầm, ấm áp. Hình ảnh Vân Phi thời còn đi học chung với chúng tôi ở trung học đệ nhị cấp. Nàng là một trong những người nữ sinh duyên dáng đã từng làm biết bao cậu học sinh cùng lứa tuổi phải thẫn thờ. Đã vậy nàng còn là huynh trưởng Gia đình Phật tử… Trong vở kịch Quan Âm Thị Kính, nàng thủ vai Phật Bà, thỉnh thoảng xuất hiện trên sân khấu với khuôn mặt trong sáng và thánh thiện. Hình ảnh Vân Phi để lại trong tôi của thời thanh xuân là như thế… Cô là đồng nghiệp với chúng tôi. Cô dạy ở một trường rất xa thị xã, nơi ấy là vùng dân tộc. Bẵng đi mấy năm tôi không gặp.” (*)

 

Nhà văn kể sau một thời gian Vân Phi vắng mặt, lần đầu tiên gặp lại ông ngỡ ngàng tưởng rằng Vân Phi đang diễn kịch khi thấy nàng biến thành một cô gái hoàn toàn khác từ một cô gái yếu đuối, xanh xao mang vẻ đẹp liêu trai nay Vân Phi với khuôn mặt trét đầy phấn, quần kaki bạc màu, áo thun đỏ sát nách ôm sát thân hình, môi đỏ thắm với mái tóc bung xù, phì phà điếu thuốc trên môi nhìn như dân bụi đời, ông không thể tin nổi. Chuyện gì đã làm nàng thay đổi không tưởng như vậy? Sau này ông mới biết, Vân Phi khủng hoảng, sầu đời, sống buông thả sau khi người yêu là lính chết trận. Cái chết đột ngột của người tình mà cô yêu say đắm làm cô điên loạn, cô phản kháng đập phá mọi giá trị mà cô tôn thờ, cô từ bỏ gia đình phật tử, bỏ dạy học, sống bất cần đời, giờ cô trở thành “nữ tặc” với đàn em chuyên đi phá phách.

 

Rồi cuộc đời cũng mang đến cái duyên cho nàng Mây. Đêm nhạc Trịnh Công Sơn hát cho quán cà phê Tao Nhân tại Phan Rang chỉ mời hạn chế trong bạn bè thân quen vì những đêm nhạc Da vàng của Trịnh thường mất an ninh, không hiểu sao Vân Phi lại biết và cô là khách không mời tự đến, gõ cửa xin vào khi chương trình đã bắt đầu. Đêm ấy, cô không là “nữ tặc” mà là một cô gái dịu dàng với tà áo dài tím.

Đêm đó: “Sơn hát như lời thầm thì tâm sự về nỗi đau của người con gái Việt Nam đã mất mát những người tình nơi chiến trường. Phải chăng đó cũng là nỗi sầu của Vân Phi. Suốt hai tiếng đồng hồ Trịnh Công Sơn hát liên miên, từ bài này sang bài khác, không biết mệt. Giọng anh trầm buồn hạp với lời tâm sự nỉ non về thân phận con người Việt Nam da vàng đang đau khổ vì chiến tranh đã gây ra cảnh tang tóc cho mọi người, từ người già ngơ ngác trong tiếng đại bác, từ em bé lõa lồ, trong công viên những người điên ru con hai lần, từ lúc con lọt lòng, và khi con chết, những người con gái yêu quê hương như yêu đồng lúa chín nay ruộng đồng đã tan nát. Những trai tráng trong làng, trong thị thành, đều khoác áo lính và bỏ mình hoặc trở về nhà với thân tàn ma dại, chỉ còn một cánh tay, một bàn chân, đôi mắt mù lòa. Bao nhiêu cuộc tình tan nát, chia lìa… Mọi người trong quán đều xúc động, mắt cay đỏ hoe và tim bị thắt lại, không phải vì khói thuốc và không khí ngột ngạt mà vì Trịnh Công Sơn đã dồn những niềm đau của từng người thành một, chồng chất lên nhau, thành một nấm mồ. Sơn hát cho mọi người nghe mà như anh hát cho ai đó, những oan hồn của người chết đâu đó trên đất nước này đang lang thang trên các chiến trường, cũng lảng vảng quanh đây, bên tiếng đàn guitar của anh…”.(*)

 

Bài hát cuối cùng đã kết thúc, âm vang lời bài hát Gia tài của mẹ vẫn còn lắng đọng:

Dạy cho con tiếng nói thật thà

Mẹ mong con chớ quên màu da

Con chớ quên màu da nước Việt xưa

Mẹ trông con mau bước về nhà

Mẹ mong con lũ con đường xa.

Ôi lũ con cùng cha quên hận thù

 

Khách đã ra về, chỉ còn nàng Vân Phi ở lại, cô xin Nguyên Minh được gặp Trịnh Công Sơn. Anh lưỡng lự vì sợ cô làm phiền, như hiểu ý, cô nói nhỏ: Tôi sẽ không làm phiền gì các ông đâu.

Nguyên Minh viết: “Tôi lên gác chuyển lại với Sơn ý định đó của Vân Phi. Các bạn ngả mình lên chiếc giường của tôi, nghỉ ngơi sau một ngày mỏi mệt và nghĩ rằng Sơn cũng cần như thế. Sơn cười:

- Mình rất thích có dịp trực diện với người ái mộ mình.

Tôi dặn dò Sơn:

- Tôi xuống trước báo lại và để dọn bàn ghế như cũ chỉ một lát là xong, ông xuống thì vừa.” (*)

 

Tiếng hát trong đêm khuya, giọng trầm trầm, khàn khàn như ai vừa uống rượu say, như ai vừa hút thuốc quá nhiều còn đọng khói nơi cuống phổi, đưa hơi thở ra ngoài, như ai đã giữ trong lòng bấy nhiêu năm một nỗi hờn căm, giận đời, giận mình, bây giờ có dịp trào ra. Tiếng đàn ghi-ta tha thiết đệm theo. Tất cả âm thanh ấy dội lên từ quán Tao Nhân của tôi, những bản tình ca của Trịnh Công Sơn.

Anh nằm xuống, như một lần vào viễn du

Đứa con xưa đã tìm về nhà

Đất hoang vu khép lại hẹn hò

Người thành phố, trong một ngày, đã nhắc tên

Những sớm mai, lửa đạn

những máu xương chập chùng

Xin cho một người vừa nằm xuống

thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang

(Cho một người nằm xuống)

 

Em đi qua cầu. Có gió bay theo

Thổi bùng khăn tang. Trắng giữa khung chiều

Em đi qua cầu. Có gió hiu hiu

Thổi lòng em xa. Đến mãi nơi nào

(Em đi trong chiều)

 

Tiếng hát Vân Phi và Trịnh Công Sơn trong những bản tình ca đã đưa tôi vào giấc ngủ từ lúc nào.

Lúc tỉnh dậy, Nguyên Minh đi xuống và nhìn thấy “…cô gái mà chúng tôi gọi là “Nữ tặc”, đôi mắt nhắm nghiền, mái tóc đen xõa dài xuống ngang vai, trở nên hiền thục. Nàng ngả đầu dựa vào góc tường. Hai tay khoanh lại. Tôi nhận ra khuôn mặt từ bi của Phật Bà Quan Âm ngày cũ. Người con trai đối diện, chàng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tay vẫn ôm cây đàn guitar, ngả người vào thành ghế, đôi mắt, sau cặp kính trắng, khép lại, còn đôi môi chàng lại nhoẻn một nụ cười đôn hậu, như vừa làm xong một việc thiện”. (*)

 

Sau đêm đó, Vân Phi ra đi bỏ lại thị xã nhỏ đầy thành kiến với mình, đến một nơi xa lạ nào đó với một cái tên khác, với một con người mà suýt nữa nàng đánh mất. Ba mươi năm qua, những người lập quán Tao Nhân ngày xưa, giờ không còn nữa. Nguyên Minh vào Sài Gòn, từ lâu làm báo viết văn, một vài lần gặp lại Trịnh Công Sơn. Nhạc sĩ nhắc lại kỷ niệm xưa và anh hỏi:

- Cô ấy giờ ở đâu?

Tôi hỏi lại:

- Cô nào?

- Cô Mây Trôi.

Tôi thật sự ngạc nhiên vì có quen ai tên đó. Sơn kể:

- Có vài lần ngang qua thị trấn đó, mình nhớ đến quán Tao Nhân xưa, nhớ đến cô gái đã hát cho mình nghe những bản tình ca của mình. Hồi đó mình hỏi tên, cô nói cứ gọi cô là Mây Trôi”. (*)

 

Thì ra Vân Phi là Mây Trôi của Trịnh.

Cuộc đời con người như giấc phù du, chúng ta chỉ là những sát na bé nhỏ đi qua chốn trần gian này. Những gặp gỡ tình cờ dù chỉ là thoáng qua cũng là một hữu duyên. Một trong những hạnh duyên ấy nàng Mây đã có.

Hạnh duyên gặp gỡ Trịnh Công Sơn, thực chất là hạnh duyên của gặp gỡ âm nhạc.

Chính âm nhạc đã xoa dịu vết thương lòng của nàng, những ca từ trong bài nhạc của Trịnh Công Sơn như an ủi, vỗ về nàng, giúp nàng Mây hiểu rỏ sự vô thường của kiếp người, hồi sinh một cuộc đời dường như đã mất.

 

Truyện ngắn “Mây trôi” của nhà văn Nguyên Minh là một truyện ngắn viết theo kiểu cổ điển, với giọng văn bình dị, lối kể chuyện đơn giản, nhưng ẩn tàng phía sau là một nội dung tinh tế, phần kết bao giờ cũng là cái kết mở cho người đọc cảm nhận. Trong mỗi câu chuyện của ông ẩn sau con chữ là một chữ Tình viết HOA, tình người, tình tha nhân. Với tôi nó là một lời ca ngợi cao quý cho âm nhạc nghệ thuật, nếu là nghệ thuật đích thực nó sẽ giúp con người thăng hoa, thậm chí thay đổi cách nghĩ, hồi sinh số phận một con người.

19 năm trước, tác giả viết truyện ngắn này sau khi nghe tin nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mất, nó như nén tâm nhang nhớ đến một người bạn tài hoa, ca ngợi thiên sứ của âm nhạc, chính bản thân âm nhạc nghệ thuật đã làm nên sự bất tử của nó. Đó là vài cảm nhận của tôi sau khi khép lại truyện ngắn “Mây trôi” của nhà văn Nguyên Minh.

 

Nàng Mây của Trịnh nếu còn đâu đó trên đời, tôi tin đã thoát khỏi nỗi đa đoan và sống an nhiên bình lặng trên cõi hồng trần này. Có lẽ nàng đã “ngộ” ra cõi đời này chỉ là cõi tạm và như Trịnh Công Sơn đã từng kêu gọi mọi người hãy sống vui vẻ nơi Quán Trọ này:

Con chim ở đậu cành tre

Con cá ở trọ trong khe nước nguồn

Cành tre ... í ... a

Dòng sông ... í ... a

Tôi nay ở trọ trần gian

Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời

(Ở trọ - Trịnh Công Sơn)

 

Ban Mai

Quy Nhơn, 5/5/2020

(*) những đoạn trích từ “Mây trôi” – Nguyên Minh

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Sáu 20216:03 CH(Xem: 10483)
Tôi nhớ xa xôi có người đã từng ví von bên tai tôi " Dù cho sông cạn đá mòn tình cảm này không hề thay đổi". Ngày ấy, tôi cứ nghĩ sông khó mà cạn lắm chứ, nhưng không, dòng sông nơi tôi ở cứ cạn rồi đầy liên tục trong ngày. Lòng người cũng vậy không có gì là mãi mãi với thời gian. Cái mà dễ thay đổi nhất trên đời này nghiệm ra rằng đó chính là tình cảm; những lời yêu xưa chỉ là ví von trong lúc cảm xúc còn đong đầy nên chả trách gì nhau khi người dễ quên nhau...
19 Tháng Năm 202110:35 CH(Xem: 11009)
Tôi thuộc thơ của thi sĩ Hoàng Cầm từ nhiều năm trước khi biết đến Hoàng Kỳ - người con trai đầu của cụ. Qua nhà thơ Thanh Kim, phóng viên báo Bắc Giang, tôi được gặp anh lần đầu tại thư viện của thị xã Bắc Giang (tỉnh Hà Bắc cũ). Mới gặp, anh có vẻ lịch sự xã giao, thậm chí như hơi đề phòng- thói quen hình thành trong một hoàn cảnh gia đình đầy sóng gió đã ảnh hưởng sâu đậm tới cuộc đời anh... Nhưng dần dà, cái vỏ ngoài ấy đã biến mất hẳn sau nửa giờ trò chuyện, khi anh hiểu rõ rằng: trước mặt anh là một "con mọt sách", đang muốn tìm hiểu về văn hóa vùng Kinh Bắc...
07 Tháng Năm 20214:48 CH(Xem: 10917)
Tiếng nói đầu tiên của một em bé khi bắt đầu học nói là Me, Mẹ, Mạ, Má, Mommy, Maman, và nhiều nữa với những ngôn ngữ hay tiếng địa phương khác, đặc biệt hầu như đều bắt đầu bằng chữ “M”. Có lẽ đó là mẫu tự thiêng liêng chung của nhân lọai khi gọi người đã cưu mang, yêu thương và đùm bọc mình suốt cả cuộc đời. MẸ ở kinh thành hay MẸ ở nơi thôn dã, MẸ ở trên núi hay MẸ ở dưới biển, MẸ là lá ngọc cành vàng hay MẸ gặt lúa trồng rau….. MẸ cũng mang nặng con chín tháng mười ngày, MẸ banh da xẻ thịt đưa con vào đời, và khi con khóc tiếng khóc đầu đời, MẸ đã vừa khóc vừa cười ôm con vào lòng mà quên đi hết những nhọc nhằn mang nặng đẻ đau. Khỏang thời gian còn lại của MẸ là ôm ấp, bảo bọc, hy sinh, dạy dỗ….. và nhiều lắm của tình mẫu tử MẸ dành cho đàn con của MẸ, và cứ thế mà nhân lọai tồn tại và phát triển.
20 Tháng Tư 20215:10 CH(Xem: 10745)
Mỗi lần nghĩ đến chiến tranh, giải phóng đất nước, cách mạng dân tộc, tự do nhân quyền, xuống đường biểu tình... đầu óc tôi lơ mơ liên tưởng đến vụ Thiên An Môn năm nào. Hình ảnh người đàn ông hiên ngang tiến ra giang rộng hai tay đòi hỏi tự do, chận đứng xe tăng, chống lại quyền lãnh đạo độc tài của đảng cộng sản Trung Quốc. Hình ảnh anh hùng, xem cái chết tựa lông hồng, với lòng đầy thách thức, đòi hỏi tự do dân chủ nhân quyền cho xứ sở. Hình ảnh đó đã đánh mạnh vào tâm não toàn thể người dân trên toàn thế giới. Riêng tôi, vẫn âm thầm nghĩ tới người lính lái chiếc xe tăng khổng lồ đầy răng sắt. Hẳn ông phải là một người rất đỗi từ bi, nhân hậu? Thương người như thể thương thân. Ông từ chối giet người, dù trong tay nắm toàn quyền nghiền nát người đàn ông hiên ngang hùng dũng kia. Hành động nghiền nát đó, sẽ được coi như một chiến công hiển hách đối với đảng và nhà nước.
20 Tháng Tư 20214:59 CH(Xem: 11084)
Tháng tư năm ấy, sao tôi không mấy lao đao về cái chết tự tử của một người chị họ chưa đầy hai mươi tuổi. Năm ấy, một chín bảy lăm, nghe mạ tôi nói chị bị cào nát mặt hoa và ăn đòn phù mỏ chỉ vì lỡ tranh giành một miếng nước ngọt trên chuyến tàu tản cư từ Đà Nẵng vào Nha Trang. Liệu như thế đủ để chị chán sống hay còn vài lý do thầm kín khác mà tôi không đoán được. Ồ phải rồi, nghe kể mẹ chị ấy là mợ tôi ngồi đâu cũng thở dài rất thảm, lâu lâu tuồng như muốn nuốt ực những giọt nước mắt dội ngược vào lòng và lâu lâu thì lại trào ra trăm lời nguyền rủa về những xui xẻo không tránh được, ví dụ nỗi đau rát rực rỡ của mấy bợm máu kinh nguyệt thời con gái chị tôi đã phọc lai láng trên đít quần suốt những ngày chạy giặc thiếu nước và máu ôi thôi là máu của những xác người vô thừa nhận trên con đường lánh nạn.
20 Tháng Tư 20214:23 CH(Xem: 11161)
Tôi đã thay đổi vì biến cố tháng Tư Bảy Lăm, nhưng cũng có thể tôi đã mất thiên đường từ trước khi ra đời. Đó là câu hỏi mà tôi ngẫm nghĩ gần đây. Năm nay tôi 43 tuổi, mặc dù tôi nhuộm tóc và vẫn thích người ngoài khen tôi trẻ, tôi hiểu mình nhiều hơn, và cũng chân thật với mình nhiều hơn lúc còn trong tuổi niên thiếu. Trên nhiều phương diện, có thể tôi cũng đầy đủ hơn ngày xưa. Nhưng tất cả những câu chuyện mà tôi hay kể với bạn bè để biểu lộ tâm trạng “cá ra khỏi nước” mà tôi vẫn cảm thấy đeo đuổi mình thường trực, đều bắt nguồn từ trước biến cố Bảy Lăm.
20 Tháng Tư 20214:18 CH(Xem: 10979)
Tháng 4, 1975, tôi 11 tuổi. Lúc đó tôi sống với cha, em trai và bà nội ở ngang chợ An Đông, Sài Gòn. Mẹ tôi ly dị cha tôi trước đó 2 năm để lấy người tình. Người tình của mẹ tôi làm tài xế cho cha tôi khi hai người còn là cảnh sát. Ông này trẻ, cao, vạm vỡ và đẹp trai hơn cha tôi. Ông cũng galăng, nhỏ nhẹ hơn cha tôi. Có lẽ ông cũng dai và dẻo hơn cha tôi. Vô tư mà chấm, có lẽ hai người xứng đôi. Ai cũng khen mẹ tôi đẹp, nhưng tôi không thấy mẹ tôi đẹp tí nào. Sau này, khi cãi lộn với chồng mới, bà bị bạt tai nên vung lời, “Đồ tài xế!”
15 Tháng Tư 20211:03 SA(Xem: 4367)
Ngày này 46 năm trước, tôi đang rong ruổi trên đường cái quan chạy về Sài Gòn. Gia đình tôi và những người dân miền Trung hớt hải tháo thân khi nghe tin bước chân của quân miền Bắc đang tiến vào Nam. Những người bạn thế hệ tôi ngày ấy ra sao, những ngày tàn cuộc chiến? Những ngày cuối tháng tư, giờ này bà ngoại của Thơ Thơ đang chia gia tài cho con cháu là những lọ xyanua, phòng nếu có điều gì. Mỗi người một lọ thuốc trong vắt, thơm mùi hạnh nhân, thuốc cực độc uống vào vài giây là chết tức khắc, bà nói cầm chắc thuốc độc trên tay là cầm chắc định mệnh của mình. Bà là vợ của nhà văn Hoàng Đạo, giòng họ của nhóm Tự lực văn đoàn, văn đàn vang danh một cõi xứ Bắc. Tôi hiểu tâm trạng của bạn tôi trong đêm cuối ở đài Tiếng nói Tự do trên phòng chờ lầu 2, tất cả gia đình nhân viên trong đài và văn nghệ sĩ miền Nam tập trung để được “ bốc” đi, đêm dài dằn dặc, phía dưới đường phố là sự hoảng loạn của người dân Sài Gòn, mọi người im lặng căng thẳng nghe cả tiếng máy lạnh rì rầm, bạn phải tìm
15 Tháng Tư 202112:27 SA(Xem: 11232)
Chiếc xe gài số lui ra khỏi sân nhà, ngang mấy hàng lan Hoa Hậu và gốc nhãn đang đậu trái nhỏ li ti, thành chùm. Tôi hỏi: Xe nhà mình lúc đó là xe gì? Ba nói Con không nhớ sao? Tôi gấp lại dãi khăn tang trắng. Hôm mãn tang Ba, ở chùa về, tôi đã định đốt dãi khăn trong lò sưỡi. Tháng này trời Cali chưa chiều đã nhá nhem. Tôi để cuộn khăn trở lại bàn nhỏ cạnh đầu giường. Ba không còn ngồi trên ghế gần cửa ra vào. Trong phòng còn có mình tôi.
15 Tháng Tư 202112:10 SA(Xem: 11772)
LTS: Một năm rưỡi trước khi từ trần, tướng Trần Độ đã hoàn thành một tập nhật ký mà ông đặt tên là Nhật Ký Rồng Rắn: bắt đầu từ cuối năm 2000, viết xong tháng 5 năm 2001. Nhật ký Rồng Rắn là một bút ký chính trị trong đó, với tất cả tâm huyết, tác giả trình bày suy nghĩ của mình về các vấn đề chính trị của đất nước. Tháng 6.2001, Trần Độ vào Sàigòn thăm con và nhờ người đánh máy bản thảo. Ngày 10.6, ông đi lấy bản thảo, bản vi tính và sao chụp thành 15 bản. Trên đường về nhà, ông bị tịch thu toàn bộ các bản thảo và bản in chụp, xem là "tang chứng" của tội "viết và lưu hành tài liệu xấu". Cho đến ngày từ trần 9.8.2002, tướng Trần Độ không được trả lại nhật ký của mình. Trích đoạn dưới đây là một phần của nhật ký này. {theo tạp chí Diễn Đàn}.