Ngày 06.05.2010, cách nay 15 năm, tôi mất một người bạn thân và quý ở Hà Nội. Đó là anh Hoàng Cầm. Hoàng Cầm và Thái Bá Vân là hai người bạn HN mà tôi có tình thân và quý mến từ những năm 1990. Tình cảm này đã gây trong tôi những xúc động sâu xa khi mất đi các anh. Tôi không làm Thơ theo lối “khóc bạn” cổ điển. Những bài Thơ viết về các bạn đã mất là những cảm xúc của một tình bạn tuy không gian cách xa, nhưng rất gần gũi trong Tình, trong Thơ.Tôi trích ra đây lần đầu tiên trong tập văn xuôi duy nhất của tôi “Ghi Chú Về Không Sự” (Notizen der Nichtigkeit) một đoạn tôi ghi về tình bạn hiếm có này, trong khoảng thời gian 20 năm từ 1995 đến lúc anh mất.
NGUYỄN CHÍ TRUNG
*** HOÀNG CẦM ***
Những lần sau này, mỗi khi tôi về Hà Nội, tôi đều có đến thăm anh, nhất là sau khi Vân mất. Một thời điểm nào đó, tôi đứng trước một căn nhà gạch mới xây, không thấy căn nhà xưa đâu nữa. Tôi gọi “anh Cầm ơi” vói lên nhà. Từ trên cao có tiếng anh đáp trả “ai đấy”: Khi nghe tiếng trả lời vọng lên anh biết là tôi, những lần đầu anh bước xuống cầu thang đón và dẫn tôi lên tầng trên, chỉ một lần đó thôi. Lần cuối cùng, tôi tự đi ttừng nấc thang lên ba hay bốn tầng đến chỗ anh “ở”, nghĩa là nơi anh nàm.
Một lần của những năm xưa tôi và vợ tôi đến thăm anh. Lúc đó là vào giai đoạn đầu, tức là khoảng sau 1997, khi tôi đã in “Thi Ca Ngoại Tập” ở nxb Văn Học HN. Nhà anh đã không còn là ngôi nhà gỗ lụp xụp và tối như lần đầu Vân dẫn tôi đến, mà đã trở thành nhà gạch có một tầng trên. Tôi và KC lên trên gác gặp anh. Tôi thấy anh vẫn đang nằm rất tự nhiên, mặc áo maillot và quần pyjama, bên cạnh một “bàn đèn”. Song song với anh là một người râu tóc cũng đã muối tiêu, cũng nằm bên cạnh. Hóa ra hai người đang có chầu thuốc phiện. Anh Cầm giới thiệu chúng tôi, đây là anh Quang. Tôi chưa nghe và chưa gặp anh Quang bao giờ. Hai người rất tự nhiên, dù có mặt một phụ nữ là vợ tôi, vẫn tiếp tục chuyện trò với tôi và thay phiên nhau trao đổi điếu thuốc hút. Tôi vốn đã quen cảnh người hút thuốc phiện, thời tre tuổi (những năm 1950er), hai căn nhà sát bên cạnh nhà tôi đều có người hút thuốc phiện. Mỗi buổi trưa, khi trời nóng nực quá và tôi không ngủ được, tôi hay leo lên gác xép xây trên phòng bếp. Ở đấy tôi có thể nhìn qua nhà bên cạnh qua các khe hở của các liếp gỗ là vách ngăn nhà nhau. Và bên ấy có chồng của cô y tá hàng xóm nằm bên cạnh bàn đèn. Mỗi khi ông ấy rít một hơi dài và khoan khoái thở ra, khói bay đầy phòng, xuyên qua các liếp gỗ đến tận mũi tôi: tôi chỉ thấy một mùi thơm rất dễ chịu. Giờ đây, sau mấy mươi năm, tôi trực tiếp ngồi cạnh một người bạn già, nằm hút trong một bầu không khí gần gũi thân mật, mùi khói thuốc càng nồng, càng ấm và càng thơm đối với tôi. Anh hỏi hai đứa chúng tôi, “có muốn thử không thì anh đưa cho thử cho biết”. Tôi từ chối, nhưng vợ tôi, vốn là một người rất tự nhiên và cỡi mở, có vẽ muốn thử, nhưng sau cùng chỉ cười cám ơn khi anh hỏi thêm lần nữa.
Bữa anh và anh Q. hút thuốc hôm đó, tôi có ghi lại trong một số ảnh chụp. Lúc ấy, không ai có khả năng hoặc trí tưởng tượng nghĩ ra sau này sẽ có những máy ảnh, chụp bao nhiêu cũng được, vì chụp xong xóa đi ngay được. Tôi phải dè dặt vì những cuộn phim mang theo chỉ có 36 bức tối đa. Và mỗi bức chụp hỏng, là mất một bức. Bây giờ nhớ lại, tôi ngạc nhiên vì sự “tự nhiên” của mình, chụp ảnh anh Q., một người lạ đối với tôi mà không xin phép, và sự tự do phóng khoáng của anh Q, không phiền hà gì khi tôi ghi lại chầu thuốc phiên đấy trong những hình ảnh. Trên nguyên tắc, việc hút nha phiến ở VN vẫn bị luật pháp cấm cho đến ngày nay. Và việc anh HC nghiện thuốc phiện cũng là điều mà ai cũng biết, những người có dính dáng đến giới văn nghệ sĩ HN. Anh có nói với tôi là anh đã có lý do từ hồi trẻ, tại sao phải trở nên bị “nghiện” thuốc phiện. Nếu tôi nhớ không nhầm thì lý do là vì anh bị suyển nặng. Viết đến đây, tôi nghĩ mình phải mở một dấu ngoặc thật dài và rộng. Đó là tôi muốn nói về cái gọi là trí nhớ của tôi, nay đã trở thành “trí nhớ của một người 77 tuổi”, nghĩa là tôi không dám, không có thể khẳng định 100% những thời điểm mà tôi viết ra có chính xác hay không. Nếu sau này, có một người nào đó “tìm ra” sự không-chính-xác của các thời điểm đã được ghi ra, thì đó không phải là lý do để phê bình hay nghi vấn những chuyện tôi kể ra đây, những chuyện đã có giữa các bạn văn nghẹ sĩ và tôi. Xin đóng ngoặc dài ở đây.
Và cũng nhờ vào thuốc phiện mà anh còn sống được đến ngày nay, nghĩa là những ngày tháng của cuối những năm 1990er. Và anh còn nói thêm một điều này là anh đã nhiều lần được các hội hè hay bạn hữu VN ở bên Pháp mời sang Paris. Anh cũng muốn đi lắm, nhưng họ không có lời giải cho “vấn đề thuốc” cho anh nên chuyện đi nước ngoài của Hoàng Cầm đã không bao giờ xảy ra.
Nhiều lần tôi cũng có gọi điện về cho anh và nói chuyện, dù lúc bấy giờ điện thoại chỉ có thể được thực hiện qua đường của bưu điện, của các hãng sau này được gọi đại khái với một cái tên là “Viễn Thông”. Anh và tôi nói chuyện về Thơ, và về cái gọi là “quê nhà”. Anh không cần và có lẽ không hề biết ý niệm “Quê Nhà & Quê Hương” nơi tôi nó khác biệt đến ý niệm cùng chữ gọi đó của nững người như anh, một đời gắn bó với đấu tranh, từ thời Pháp thuộc, sau này đến chuyện tù đày vì đòi hỏi tự do cho người nghệ sĩ, cho đến cuộc chiến tranh Nam Bắc, và chưa một lần rời bỏ hay ra khỏi đất nước. Anh nói với tất cả sự giản dị của một tinh thần yêu nước của một người nghệ sĩ VN.
Tôi nhớ một lần tôi đến chơi với anh vào một chiều tối. Anh vui mừng và một lúc nào đó nói: “hai anh em mình đi uống bia hơi”. Anh kéo tôi ra khỏi con ngõ 39 Lý Quốc Sư, đi một quãng về phía Nhà Thờ và xê vào một quán bia. Thời ấy HN đã từ từ thay đổi bộ mặt, đương phố đã có nhiều đèn và sáng sủa hơn, các cửa hiệu ăn uống cũng có vẻ sạch sẽ tươm tất hơn, không còn gây một ấn tượng đen đủi luộm thuộm nữa. Anh gọi họ mang bia hơi ra uống. Tôi chỉ biết bia hơi là loại bia rẻ tiền hơn bia ngoại quốc được đóng trong những lon thường thấy. Loại bia này, chỉ có được cái là rất nhẹ, vị rất loãng, hầu như không có, và rất nhiều hơi. Cái “lợi điểm” của bia hơi là người ta có cảm giác là đã uống rất nhiều bia, khi bắt đầu ngà ngà say. Hai chúng tôi ngồi tà tà uống những cốc bia 1 lít to nặng, như những cốc bia người ta thường thấy ở Đại Hội Tháng Mười Ở Munich (Oktoberfest in München, Deutschland) và nói chuyện văn chương chữ nghĩa. Tôi có nhờ người của quán chụp ảnh để kỷ niệm. Đến khuya anh đã ngà say và dĩ nhiên tôi cũng thế. Tôi đứng lên, dìu anh về đến tận nhà và từ giã anh. Tôi vì tối hôm ấy chưa hoặc đúng hơn đã không ăn gì nên uống khá nhiều bia vào bụng trống, nên tôi phải lão đảo tìm đường về, nửa choáng váng vì men rượu, nửa buồn bả vô hạn vì chia tay bạn già, nhất là khi tôi ở một phương trời nào đó, xa xôi … vô cùng tận.
Lần cuối cùng tôi đến thăm anh là vào mùa đông năm trước khi anh mất. Tôi đi bộ lên nhiều từng lầu, lên tận tầng chót. Có vẻ như đấy là phòng riêng của anh. HN vào mùa đông, tháng giêng hay hai, có thể thật lạnh. Hơn nữa những nhà được xây lên trong khoảng thời gian trước hay lúc đó phần lớn là vẫn không (hay chưa) chú ý đến vấn đề kín gió, nghĩa là vẫn hở đầu hở đuôi, trong nhà không có thiết bị lò sưởi dù dưới bất cứ hình thức nào (máy nóng lạnh hai chiều). Anh nằm trên giường, giữa một đống chăn mền hỗn độn, và có mặc áo len. Tôi thấy anh đã già hẵn đi, khác với những ngày tháng anh và tôi kéo nhau đi uống “Bia Hơi” ở đâu đó ngoài đường. và anh cũng ốm nhiều đi, cùng với dáng điệu, cử động mệt mõi. Tuy nhiên anh luôn cho tôi một nụ cười mừng rở và vui vẻ lúc hai anh em gặp nhau lại, dù là đã một hay nhiều năm không gặp lại nhau: lần ấy anh cho tôi quyển sách mới in ra của anh, “Văn Xuôi Hoàng Cầm” và ký tặng tôi. Trong tập sách này họ có in cả bài HC viết về NCT, lúc hai anh em gặp nhau lần đầu, khi tôi tặng anh tập Thơ Trong Hồi Tắt Hơi (THTH, in ở Đức). Anh có tặng tôi nguyên cả bản thảo viết tay sau khi anh viết bài ấy. Hôm tất cả mấy anh em tụ tập nhau ở nhà anh Vân, anh cũng có chép tay giao cho tôi một bài Thơ anh tặng cho cô …. , một người phụ nữ có quan hệ với anh.
Một lúc người nhà của anh mang lên một bát cháo cho anh. Anh nửa nằm trên giường, nửa phải hay muốn ngồi dậy để ăn tối. Tôi giúp anh ngồi dựa lưng trên đống gối mền, và đút từng muỗng cháo cho anh ăn. Anh vừa ăn vừa chuyện trò vui vẻ với tôi, như không có chuyện gì đáng phàn nàn xảy ra. Những tấm hình chụp anh HC và tôi tối hôm giã biệt ấy, là những tấm hình thật quý của tôi. Tôi chỉ phổ biến một hai tấm trong nhiều tấm tôi có, vì ở thời đại thông minh nhân tạo và mạng xã hội, có lẽ chẳng ai quan tâm đến chuyện tác quyền, “đạo ảnh / đạo văn / đạo thơ / đạo nhạc”, không chỉ kẻ “”đạo” mà kể cả kẻ “tác”.
Mùa xuân năm 2010 đó, tôi được tin thi sĩ Hoàng Cầm đã mất tại HN.
Dưới đây là hai bài trường thi tôi viết cho anh:
Nguyễn Chí Trung
GỬI HOÀNG CẦM
Tôi là kẻ ở phương xa
Tôi đi khắp đất, đâu là quê hương
Lâu rồi tôi mỏi phố phường
Lâu rồi tôi chẳng còn mường tượng ra
Biết bao thành phố tôi qua
Giống nhau như thể chỉ là một thôi
Sáng choang rực rỡ chói ngời
Mà trong rỗng tuếch vì tôi không cùng
Có khi tự rỗng không chừng
Như là cuộc sống trong vùng văn minh
Rằng tình thì cũng là tình
Hiện sinh thì cũng hiện sinh như ruồi
Biết bao quán rượu tôi ngồi
Rượu thì ngon thật, không người cùng vui
Tôi say chỉ một mình tôi
Thiếu vài người bạn đứng ngồi ngửa nghiêng
Tôi qua suốt xứ suốt miền
Lỡ chân tôi đến cõi riêng không đường
Cõi riêng chỉ mở một chương
Chép xong trang cuối hết phương để về
Đã đành tôi sống như mê
Bên bờ thực tại không hề bước sang
Hơn ba mươi năm lang thang
Tôi mang cảm giác dở dang hết đời
Đầu tôi nặng nhọc những lời
Hồn tôi mệt nhọc những đời của ai
Chuyện là chuyện của trần ai
Tôi bê tôi vác từng hoài ấy năm
Bây giờ đời đã xa xăm
Râu tôi đã điểm hoa râm một vài
Thơ thì viết được dăm bài
Có bài thì có có bài thì không
Có điều hình dáng hình dung
Trụ ngoài mà tưởng như trong lòng này
Hình xa vắng bóng còn dài
Bao năm ngây ngất lạc loài tìm nhau
Tảo thanh còn lại vài câu
Đổi vui đã chuốc được sầu bao nhiêu
Rằng là cựa quậy đã nhiều
Ở trong chữ nghĩa những điều nói ra ?
Dù gì đi nữa cũng là
Cơn mê tận, hơi đâu mà mất công ?
Thiết tha tha thiết lạ lùng
Rồi ra tất cả trùng phùng bụi hơi
Viết là tìm kiếm khắp nơi
Những gì sót lại trong lời phù du
Hay là giam hãm mùa thu
Vào linh hồn nặng sa mù điêu linh?
07. – 21.06.1998
(trích Tạp Thi - 1998)
***
Nguyễn Chí Trung
HOÀNG CẦM
06.05.2010
Tháng năm cách nay hai năm
Người tình bỏ đi xa xăm cõi ngoài
Nỗi buồn từ xưa đến nay
Đã dài, giờ lại còn dài thêm hơn
Đầu xuân cây lá mởn mơn
Hoa rực nở, tôi chập chờn cơn mê
Hình như bao nhiêu não nề
Của cuộc sống tôi đều vê vào người
Thật ra tôi mệt lắm rồi
Tuy có người nói yêu tôi vô cùng
Rủ tôi vào cuộc chơi chung
Cửa tôi đã đóng, lại lần mở ra
Để xem những cuộc người ta
Hai chữ “tình yêu” bày ra thêm gì?
(Tôi vẫn muốn sống, một khi
Tôi chưa thành bụi bay đi về trời)
*
Đêm sáu tây trời tối thui
Tôi đang tưởng tượng cuộc đời vẽ thêm
Vì hình như vẫn còn thèm
Cuộc, muốn là hết, mà vẫn đem thêm điều
Càng khao khát sống bao nhiêu
Thì tôi càng chán bấy nhiêu con người
Đầu tôi “quyết định” rút lui
Lòng tôi nhậy cảm lời người “yêu thương”
Tình yêu, một bãi chiến trường
Người nào đẫm máu đầy thương tích là
Người đã có thể thăng hoa
Đưa hồn đến cõi sâu xa vô cùng
Chỉ nới đó hồn trùng phùng
Lời Thơ chỉ nở trong vùng khổ đau
Nghệ thuật chỉ là tiếng gào
Không thanh âm của đêm sâu kéo dài
*
Trong đêm sắp vào cơn say
Rượu đang kết thúc một ngày sắp xong
Tôi nằm hút thuốc trong phòng
Một cú điện thoại, tôi không hề chờ
“Ông Hoàng Cầm đã hết giờ!”
Từ xa tiếng vọng, tôi ngờ là không
Tuy vẫn vốn biết trong lòng
Giờ anh sẽ điểm, sẽ không còn dài
*
Khoảng hơn ba năm trước đây
Tôi về Hà Nội một ngày mùa đông
Ở trên tầng thượng lầu năm
Chiếc giường là chốn nhiều năm không rời
Phong phanh phòng trống tôi ngồi
Gió mùa đông bắc qua đời thê lương
Mền, khăn, áo, bề bộn giường
Đỡ anh qua cõi bình thường tôi nâng
Chén súp âm ấm đến gần
Từng muỗng tôi đút dần dần anh ăn
Tôi buồn, không thiết nói năng
Đầu tôi nhắc nhở tôi rằng chia tay
Lần cuối, có lẽ lần này
Giọng anh yếu ớt, nhưng đầy tâm can
*
Trong không khí lạnh mênh mang
Phòng không lò sưởi hở hang bốn bề
Hở hang không gây đam mê
Trụi trần cuộc sống, ê chề càng hơn
Làm sao sống mà không hờn?
Bao nhiêu giấc mộng đã trôi tuột rồi
Cuối cùng thêm cuộc đơn côi
Bảo sao không nỗi ngậm ngùi lúc đi?
Chúng ta Sự Thật cũng vì
Ấy là trả giá: cuộc đi đọa đày
*
Chúng ta cũng có những ngày
Hơn mười năm trước, vui vầy cùng nhau
Khi tôi đặt bước lần đầu
Về Hà Nội để tìm đâu bóng hình
Tháng năm thành phố trời hanh
Ở Thanh Xuân Bắc nhà Vân chật đầy
Có anh, Lê Đạt và Mây
Bài Thơ anh tặng, chép tay, tôi còn
Ngày ấy cuộc vui chưa mòn
Bạn bè còn đấy trong cơn say mèm
Gió tuy cũng lạnh qua phên
Nhưng tình bạn ấm, ta quên được đời
Ở trong thân phận làm người
Chúng ta giữ được nụ cười cho nhau
Cùng chung một nỗi đớn đau
Hũ rượu an ủi đáy sâu tháng ngày
Ẩnh hình tôi chụp còn đây
Mong sao giữ lại sau này. (Cho ai?)
*
Lúc Vân dẫn đến nhà anh
Bốn ba Lý Quốc Sư, thành nơi thân
Khi xưa lụp sụp tối tăm
Từ gác lửng, chốn anh nằm, xuống thang
Ngồi trên manh chiếu võ vàng
Uống trà đen đậm, tôi mang trong lòng
Những gì thâm cảm, mà không
Chữ lời nào nói … tận cùng đến nay
*
Những năm tháng tiếp sau này
Thăm anh, tôi đến, nhà xây cao tầng
Anh nằm hút thuốc khói dâng
Mùi thơm ngào ngạt, tình thân ngập phòng
Anh hỏi tôi muốn thử không?
Những gì tôi muốn, tôi không thể nào!
Tôi còn muốn – biết là bao
Tôi yêu cuộc sống, khát khao hàng ngày
Đời người ngắn, chuyện thì dài
Cuối cùng, ta sống một ngày một đêm
Ánh trăng giờ đã đến thềm
Giờ thì sắp điểm, thịt mềm xương tan
*
Những trưa Hà Nội nắng chang
Đường Trần Hưng Đạo ngồi ngang vỉa hè
Những chiếc ghế đẩu lè tè
Mặt đất lồi lõm đá đè lên chân
Từ xa tôi trở về gần
Từ chân trời khách đến chân trời nhà
Có khi tôi đi quá xa
Các anh ở lại, tưởng là quê hương
*
Những chiều phố lạc trong sương
Lý Quốc Sư, ngồi đầu đường, anh, tôi
Chúng ta uống mãi bia hơi
Và ợ lên những nỗi đời ngổn ngang
Không ăn gì, chỉ uống càn
Dìu anh về, tôi lại càng buồn hơn
Nửa khuya ngất ngưởng chập chờn
Bóng mình như bóng ma vờn bóng cây
Bờ Hồ sương tản mạn vây
Đèn vàng ám khói, ôi ngày vui qua
Đốt điếu thuốc khói la đà
Quẩn quanh tìm mãi, không ra đường về
*
Hà Nội ngày ấy lê thê
Bờ tường rêu mốc vỗ về sáu canh
Bao nhiêu thế kỷ chiến tranh
Bây giờ đất nước khúc quanh điêu tàn
Tinh thần dân tộc rã tan
Văn minh vật chất rần rần đuổi theo
Đấy là tình cảnh đói nghèo
Ngửi mùi tiền bạc đem treo linh hồn
Anh là người bạn cuối cùng
Bây giờ, tất cả thành vùng chiêm bao
Tôi về thành phố lao đao
Tìm nơi tạm trú, chốn nào nơi đây?
Mộ các anh, bụi chắc dầy?
Đời tôi còn chỉ những ngày buồn tênh
Có khi vốn đã rỗng tuênh
Vì đâu ý nghĩa ? Mà tìm cho ra !
Tôi như là một người già
Làm Thơ khóc bạn “kêu la” đời mình
Chúng ta một cuộc tiến trình
Của linh hồn đọa trong tình người thôi
“Xong việc” là lúc qua đời
Còn chưa xong thì lại dời đến mai
*
Bao nhiêu những câu Thơ « hay »
Tôi đã viết hết cái ngày Vân đi
(Tôi đang nghe nhạc Satie)
Và Giáng, Nguyên, Sơn lúc về âm gian
Thơ tôi lệ chảy từng hàng
Tiếp, thay các anh thở than cuộc đời
Giờ đây không có một người
Để tôi gửi đọc những lời viết ra
Thơ tôi mất cả quê nhà
Mà xưa nay vốn không là Quê Hương
*
Tôi đi khắp những nẽo đường
Đọc Thơ cho thế giới đương mất dần
Cũng có vài người ân cần
Cám ơn tôi đã hiến dâng đời mình
Tiếp tục cái việc thiêng linh
Để cho Cái Đẹp hiện hình trần gian
Khi trên mặt đất điêu tàn
Con người biến mất. Vài hàng còn đây?
15. - 16.08.2010
(trích Tạp Thi - 2010)
© Nguyen Chi Trung 2025
**
(Vì sách chưa in nên tác giả không cho phép chụp hay sao lại để phổ biến khi chưa có phép của tác giả - all Rights reserved –
© Nguyen Chi Trung 2025)
- Từ khóa :
- NGUYỄN CHÍ TRUNG