- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

ĐỌC SÁCH "MẶT TRẬN Ở SÀI GÒN" CỦA NGÔ THẾ VINH

29 Tháng Tám 20202:15 CH(Xem: 13586)

Mặt trận ở Sài Gòn là một tuyển tập 12 truyện ngắn của Nhà văn Ngô Thế Vinh viết về kí ức thời chiến tranh vào thập niên 1970s, chủ yếu ở vùng núi rừng Tây Nguyên. Tuy có nhiều chứng nhân trong cuộc chiến, nhưng tác giả là một chứng nhân hiếm hoi ghi lại một giai đoạn chiến sự khốc liệt qua các câu chuyện được hư cấu hoá. Điểm đặc biệt của tập truyện ngắn này là có phiên bản tiếng Anh do một học giả ẩn danh dịch, có lẽ muốn chuyển tải đến độc giả nước ngoài về cái nhìn và suy tư của người lính phía VNCH.

 

MTOSG-ngothevinh

Hình bìa sách "Mặt trận ở Sài Gòn"
(có thể đặt mua SÁCH qua amazon.com)

 

Tập truyện ngắn được sáng tác từ những năm chiến tranh trong thập niên 1960s và 1970s, và thập niên 1990s sau khi tác giả đã định cư ở Mĩ. Có truyện viết từ trước 1975, nhưng sau này ra hải ngoại tác giả viết tiếp. Đó là những câu chuyện về những lần giáp trận với những người anh em bên kia chiến tuyến, những trận mưa bom đạn từ trên không, và những cái chết không toàn thân của biết bao người lính của cả hai bên chiến tuyến. Đó là những câu chuyện về những người lính khi ra trận thì gan dạ, can trường, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng sâu thẳm trong nội tâm thì đầy trăn trở về thời cuộc và giàu nhân văn tính. Ngay cả trong bộ đồ rằn ri xem ra dữ dằn, nhưng qua hành vi và cách nói thì họ chỉ là những thư sinh nho nhã, đôn hậu. Hay như người y tá trưởng được lưu dung sau 1975 trong Tổng Y Viện Cộng Hoà vẫn cần mẫn chăm sóc cho những người lính bên kia chiến tuyến để rồi cũng bị sa thảy về quê và sống trong nghèo nàn, đau khổ. Trong tác phẩm này, Ngô Thế Vinh viết về những cuộc hành quân trên vùng rừng núi Cao Nguyên, qua Campuchia, về thành phố Sài Gòn. Những nơi họ đã đi qua để lại nhiều kí ức và những suy tư về thời cuộc và quê hương, về thân phận tuổi trẻ và tương lai.

 

Có những suy tư được bộc lộ rất thật, như trong truyện Mặt trận ở Sài Gòn mà tác giả lấy làm tựa đề quyển sách. Thật ra, truyện này đã được đăng trên tạp chí Trình Bầy số 34 trước 1975, và đã làm tác giả gặp rắc rối với chánh quyền VNCH lúc đó. Trong Mặt trận ở Sài Gòn, tác giả thuật lại một nhóm lính biệt cách từ rừng núi Tây Nguyên về nơi phồn hoa Sài Gòn, như là những kẻ về từ 'cõi chết'. Họ phải đối diện với những phong trào sinh viên biểu tình phản chiến, và bị dằng co một bên là lí tưởng xã hội và một bên là nhiệm vụ bảo vệ sự ổn định của xã hội. Người lính chợt nhận ra rằng họ không chỉ đối diện với cái chết trong rừng sâu núi thẩm, mà còn trực diện với một trận tuyến xã hội với quá nhiều bất công và thối nát. Đó là một "xã hội trên cao, lộng lẫy sáng choang và thản nhiên hạnh phúc" ở những người miệng thì kêu gào chiến tranh nhưng họ lại đứng ngoài cuộc chiến. Vậy thì người lính bảo vệ cái gì đây. Không lẽ bào vệ "cho một con thuyền xã hội xa hoa ngao du trên dòng sông loang máu, nổi trôi đầy những xác chết đồng loại." Chiến trường của người lính bây giờ là ngay tại Sài Gòn này, nhưng họ là những chiến binh ngoài chiến trường, chớ không phải 'chiến sĩ xã hội.'  Tác phẩm này đã làm tác giả gặp rắc rối với chánh quyền VNCH lúc đó. Toà án quân sự VNCH nhận định rằng truyện ngắn "có luận điệu phương hại trật tự công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần chiến đấu quân đội".

 

Chiến tranh thường là mảnh đất màu mỡ cho tuổi trẻ và những suy tư về dân tộc và quê hương. Cuộc chiến Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Những xung đột giữa các học thuyết chánh trị ngoại lai dẫn đến những cái chết thảm cho hàng triệu người giúp cho thanh niên Việt Nam thường trưởng thành trước tuổi. Người lính đối diện trước hiểm nguy và cái chết trong giây phút, họ càng suy nghĩ về bản thân hơn. Tác giả Ngô Thế Vinh nhận xét rất đúng rằng "Trong suốt chiều dài và rộng của lịch sử, tuổi trẻ Việt Nam đã được nuôi sống bằng những gieo trồng tang thương và nỗi chết. Tuổi đó không tính bằng tháng năm mà bằng những đổi thay không gian cùng với gót giày chiến binh của họ -- đã và đang còn dẫm nát từng ngọn cỏ xanh còn sót lại trên quê hương."

 

Cũng trong truyện Nước Mắt của Đức Phật (viết ở thị trấn Krek, Campuchia, 1971) tác giả viết về một lần hành quân sang Campuchia, và ngay từ lúc đặt chân đến xứ Chùa Tháp đã gặp ngay những phản ứng kém thân thiện của người bản xứ. Qua lời nói của một nhà sư, tác giả muốn nói lên tình cảnh éo le của Campuchia: trở thành một đấu trường trong sự xung đột giữa hai phe người Việt, và tác giả tự hỏi "Trong cái mênh mang của cơn say lịch sử, có nghĩ được rằng cuộc chiến đang diễn ra giữa những người Việt lại có thể xoá nhoà một nền văn minh Angkor cổ kính."

 

Trong Mặt trận ở Sài Gòn, tác giả còn dành nhiều trang viết về những người đồng minh Mĩ. Những viên sĩ quan cố vấn và giới kí giả với những hành xử tốt và xấu đều được Ngô Thế Vinh ghi chép cẩn thận qua những câu chuyện tưởng như là hư cấu. Chẳng hạn như câu chuyện về một viên kí giả tên Davenport (trong Dấu Ngoặc Lịch Sử) tuy mới vào nghề nhưng đã được gởi đến Việt Nam, và anh ta đã thể hiện được câu nói dân gian "Nhà báo nói láo ăn tiền". Davenport chỉ ngồi trong một quán bar, có máy lạnh, bên cạnh một cô thư kí riêng (có lẽ kiêm thông dịch viên), vậy mà anh ta viết báo cáo mô tả y như thật rằng Kontum đang sống trong những ngày nghẹt thở, dân chúng hoảng loạn tìm đường chạy trốn, đường bay Sài Gòn - Kontum đã bị Hàng Không Việt Nam huỷ bỏ, v.v. Nhưng trong thực tế thì Kontum vẫn sinh hoạt bình thường, người dân vẫn sống yên ổn, và các chuyến bay của Hàng Không Việt Nam vẫn diễn ra hàng ngày! Trong Chiến Trường Tạm Yên Tĩnh, Ngô Thế Vinh viết về một nhân vật Larry, mới tốt nghiệp trường y bên Mĩ, anh chán ghét xã hội Mĩ xung phong vào đoàn y sĩ thiện nguyện đến Việt Nam chuyên giúp người dân và nạn nhân chiến tranh. Là người Mĩ nhưng Larry ít giao du với người Mĩ đồng hương, anh chỉ dành thời gian cho chuyên môn và viết sách. Hai nhân vật tương phản phản ảnh phần nào sự đa dạng trong nhân cách của đồng minh Mĩ tại Việt Nam trong thời chiến.

 

Đọc truyện của Ngô Thế Vinh, người đọc có thể cảm thấy như đọc những kí ức vụn được lấp ghép lại thành một tác phẩm. Có lúc tác giả viết về vùng Đất Khổ, nhưng lại liên tưởng đến chuyện của 30 năm trước về nhân vật Kim Đồng của Tô Hoài, rồi ngay sau đó tác giả viết về một Sài Gòn đã mất tên vào năm 1981. Kim Đồng là tượng trưng cho giấc mơ cách mạng đẹp đẽ, nhưng 30 năm sau bao nhiêu thế hệ Kim Đồng nhân danh 'giấc mơ Việt Nam' cầm súng M16 hay AK tiêu diệt lẫn nhau. Ba mươi năm dài làm biến dạng tiếng Việt. Chữ và nghĩa không còn nhứt quán với nhau.

 

Cuộc xung đột ý thức hệ giữa tự do và giáo điều còn tạo nên một cộng đồng dân tộc mà từ suy tư, hành vi đến ngôn ngữ của họ rất khác với người anh em bên kia chiến tuyến. Hai người anh em cùng nói tiếng Việt, nhưng là loại tiếng Việt khác phiên bản. Trong Nước Mắt của Đức Phật, tác giả viết rằng "Trong 30 năm điều mà chúng tôi không tự biết - là mọi suy tư của mỗi người Việt đã được điều kiện hoá để họ không còn thấy nhau. Nói chuyện với một tù binh cộng sản Bắc Việt tôi đã không thể tưởng tượng rằng giữa người Việt nói tiếng mẹ đẻ nhưng chúng tôi đã không còn chung một ngôn ngữ." Câu văn ngắn đó thiết tưởng vẫn còn áp dụng cho đến ngày nay.

 

Một cuộc xung đột ý thức khác cũng diễn ra trong cộng đồng người Việt ở Mĩ. Sau 1975, như chúng ta biết, có hàng triệu người Việt đã liều mạng bỏ nước ra đi, và một số đông đã được tiếp nhận định cư ở Mĩ. Một thế hệ mới hình thành trên đất Mĩ, và thế hệ mới có những cái nhìn về Việt Nam khác với cha ông họ. Họ tuy rất bất bình trước những bất bình đẳng ở Việt Nam, nhưng họ sẵn sàng bỏ thời gian về quê giúp đỡ đồng bào hơn là cái nhìn cứng nhắc, thậm chí 'một đi không trở lại' như thế hệ cha ông. Những cuộc xung đột trong gia đình xảy ra, như giữa nhân vật Bs Toản và thân phụ của anh về Việt Nam: anh nghĩ về tương lai bên quê nhà, còn cha ông thì cứ khắc khoải về quá khứ chiến tranh và chia rẽ. Tuy nhiên, truyện Giấc Mộng Con Năm 2000 có thể xem là một câu chuyện kết thúc có hậu, khi có những người y sĩ nghĩ đến những dự án văn hoá để ghi lại những thành tựu của một cuộc di dân vĩ đại.

 

Đọc sách của Ngô Thế Vinh, bạn đọc sẽ bắt gặp những chữ nghĩa ngày xưa. Đó là những chữ chưa bị biến dạng về nghĩa, đó là cách đánh vần theo cách nói của người miền Nam (dù anh là người gốc Thanh Hoá). Người đọc sẽ quay về với những danh từ quen thuộc như "chánh phủ", "chiến hữu", "kích xúc", hay những động từ hết sức dễ hiểu như "men" (trong 'men dần ra quốc lộ'). Có những đoạn tác giả viết thật xúc động, nhưng đoạn viết về người lính Bắc Việt bị chết: "Ngồi bệt xuống đất bên xác hắn, người tôi nặng trĩu mỏi mệt. Tôi đưa tay vuốt mắt hắn, mi mắt còn ấm nóng khép lại dễ dàng. Một cử chỉ mà tôi không thể làm cho thằng em khi nó bị tử trận ở Pleime ..."

 

Ngô Thế Vinh không phải là một cái tên xa lạ trên văn đàn Việt Nam. Là bác sĩ (tốt nghiệp Đại học Y Khoa Sài Gòn năm 1968), từng làm y sĩ trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù trong quân đội VNCH. Ngay từ thời sinh viên, anh đã viết văn, và từng làm chủ bút báo sinh viên Tình Thương thời thập niên 1960s. Ngay thời gian đó, tác giả đã là một cây bút thành danh với những tác phẩm nổi tiếng như Bóng Đêm (1964), Gió Mùa Đông (1965), và đặc biệt là Vòng Đai Xanh (1970), tác phẩm đem về cho anh giải thưởng Văn học 1971. Sau này, khi ra hải ngoại, Ngô Thế Vinh viết cuốn sách nổi tiếng  Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng  (1996) và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch (2007). Tác phẩm Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng là một cảnh báo trước về tai hoạ cho sông Cửu Long do những con đập do Trung Cộng xây dựng trên thượng nguồn, và những xung đột trên Biển Đông. Có thể nói là tác giả là người đi trước thời cuộc.

 

Chẳng những đi trước thời cuộc, mà qua những trang viết thấm dẫm nhân văn tính trong tuyển tập này (như chuyện về cái chết của một anh lính cộng sản Bắc Việt, hay nhân vật lính Mĩ tên Jim bị rối loạn tâm thần sau cuộc chiến), tác giả còn thể hiện mình là một người trí thức vượt lên mọi chánh kiến.

 

MTOSG-ngothevinh-cali

Từ trái sang phải: Bs Ngô Thế Vinh, tôi, Gs Lê Xuân Khoa, Ks Phạm Phan Long, và Ks Ngô Minh Triết
(hình chụp ở Laguna Beach, Nam California, 2018) 

 

 Nhưng Ngô Thế Vinh là một chứng nhân của chiến tranh, chứng nhân của "những bi kịch của một thời nhiễu nhương và lừa dối hào nhoáng." Anh đã chắt chiu những trải nghiệm thực tế trong chiến trận ở núi rừng Tây Nguyên và đúc kết lại thành những tác phẩm mang tính 'sử thuyết' hay một dạng historicity, hơn là tiểu thuyết. Thật vậy, nói là truyện ngắn, nhưng người đọc có thể cảm nhận được đó là những ghi chép bằng một ngòi bút điêu luyện miêu tả một cách sinh động những tình huống xảy ra, cùng những quan sát tinh tế. Truyện ngắn hay truyện dài của Ngô Thế Vinh chỉ là cái cớ hoặc là cái diễn đàn để cung cấp chứng từ. Các nhân vật trong truyện (ví dụ như bác sĩ Phan) cũng có thể là chính tác giả hay được tác giả mượn để nêu lên những trăn trở cùng những suy tư khắc khoải trước chiến cuộc.

 

Nhà văn Nguyễn Thanh Việt từng viết rằng tất cả các cuộc chiến đều diễn ra hai lần; lần thứ nhất là ở chiến trường, lần thứ hai là ở kí ức. Những kí ức được ghi chép lại trong Mặt Trận ở Sài Gòn chính là một cuộc chiến nội tâm vậy. Chính tác giả trong Một Bức Tường Khác (1991) cũng tự hỏi mình đến bao giờ "mới thực sự thoát ra khỏi cuộc chiến đã vào quá khứ 17 năm rồi". Có lẽ tác giả sẽ không bao giờ thoát khỏi cuộc chiến kí ức. Tuy nhiên, có khi đó là một cái hay, vì những kí ức đó được viết xuống như là những chứng từ về một cuộc chiến mà có lẽ nhiều thế hệ người Việt và người ngoại quốc sau này sẽ còn dùng để hiểu biết đúng và công tâm hơn về cuộc chiến tương tàn kéo dài suốt 20 năm.

 

 

"Chút rượu hồng đây xin rưới xuống,

Giải oan cho cuộc bể dâu này.”

(Tô Thùy Yên)

 

Nguyễn Văn Tuấn

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
17 Tháng Hai 202310:17 CH(Xem: 6205)
Bài thơ viết ngoài công lộ / Bị tuần cảnh chặn gắn giấy phạt / Lý do những con chữ không thắt dây an toàn /
13 Tháng Hai 20232:28 SA(Xem: 6231)
Con đường phía trước còn dài, chúc ai vững bước, dùi mài chí kia, ngày mai rồi hết phân ly, quê hương, bốn bể, một bề lành an, nhắc ai dừng bước gian tham, nhất là quyền lực, bạo tàn, hại dân
13 Tháng Hai 20232:24 SA(Xem: 6041)
Nhớ lại những tháng năm xưa thời còn ở quê nhà. Đêm giao thừa sau khi đặt mâm cúng xong cả nhà mình đều xuất hành về hướng đông đi lễ chùa, má mặc áo dài màu nâu còn mình và bọn trẻ lại mặc đồ tây bình thường theo má. Má lạy Phật lạy hương linh ông bà chùa Long Khánh rồi sang chùa Tâm Ấn cũng như thế. Mình nhớ ngày ấy trời trong lắm lại mang hương xuân lành lạnh, đường phố sạch đẹp và đâu đó vẫn còn lác đác vài người phu quét lá bên đường còn sót lại. Mình hít hương xuân ngày đầu năm mới vào hồn với cả hân hoan.
13 Tháng Hai 20232:10 SA(Xem: 7060)
Dắt xe vào cổng, đập ngay vào mắt tôi là một bộ nâu sồng trong phòng khách. Không lẽ là vị Đại đức yêu văn chương - điện ảnh kết nối FB với tôi mấy tháng trước đã tìm đến, sau khi tôi cho địa chỉ nhà riêng? “Bố! Mẹ Thơm đã về!” Con gái lớn của tôi reo lên hồ hởi khi thấy tôi bước vào. “Mẹ đừng nói, xem bố có nhớ mẹ Thơm của con không?”. Tôi thoáng ngỡ ngàng trước vị ni cô vẻ tiều tụy, rồi nhận ra ngay cô hàng xóm của mình gần 10 năm trước…
13 Tháng Hai 202312:43 SA(Xem: 6743)
順天者存,逆天者亡 Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong Thuận với thiên nhiên thì còn. Nghịch với thiên nhiên thì mất. [Mạnh Tử] “Kế hoạch phát triển nào cũng phải tính tới cái giá môi sinh phải trả – environmental costs – đối với sức khoẻ của người dân và cả trên nguồn tài nguyên lâu dài của đất nước.” Ngô Thế Vinh
06 Tháng Giêng 202312:51 SA(Xem: 6923)
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ là thầy dạy tôi. Thầy sinh năm 1923, năm nay tròn 100, còn tôi sanh năm 1936, thầy hơn tôi 13 tuổi, năm nay tôi cũng đã 87. Tính ra năm thầy dậy tôi cách đây đã đến 70 năm rồi. Ở cái thời mà ai cũng gọi người dậy học là “Thầy”, dù là từ lớp vỡ lòng cho đến hết lớp trung học chứ không gọi là “Giáo sư” như những năm sau này. Mà người đi học thì gọi là “Học trò” chứ ít ai gọi là “Học sinh”. Thầy dậy tại trường Chu Văn An năm nào, thì tôi được học thầy năm đó. Tôi không còn nhớ mấy năm, nhưng đọc tiểu sử của thầy, trên mạng Wikipedia cho biết thầy chỉ dậy ở trường CVA có một năm 52-53, sau khi thầy dậy ở Nam Định một năm 51-52. Trang mạng này, có ghi thầy di cư vào Nam năm 54, đoạn sau lại ghi thầy dậy trường Trần Lục tại Saigon năm 53-60. Tôi không nghĩ rằng hai trường Công Giáo Trần Lục và Hồ Ngọc Cẩn dọn vào Saigon trước năm 54.
06 Tháng Giêng 202312:11 SA(Xem: 6524)
Nguyễn Du chỉ thốt lên một lần duy nhất: Ta vốn có tính yêu núi khi ông Bắc hành, ở đoạn cuối sứ trình; nhưng cái tính đó, ông đã bộc lộ biết bao lần trong 254 bài qua cả ba tập thơ chữ Hán của mình! Ai ham đọc sách mà không biết câu nói có tự cổ xưa: Trí giả lạc thủy, nhân giả lạc sơn (Kẻ trí thì vui với sông nước, người nhân thì vui với núi non); song cái ý tưởng sách vở thể hiện khát vọng thoát tục thanh cao, mơ ước được tựa vào non xanh để tìm sự yên tĩnh vĩnh hằng của nội tâm đó đã được Nguyễn Du trải nghiệm bằng toàn bộ cảm giác buồn, vui, qua các đoạn đời phong trần của mình, và ông miêu tả chúng qua bao vần thơ chữ Hán thực thấm thía, rung động.
06 Tháng Giêng 202312:02 SA(Xem: 7482)
bạn có thể vừa đi làn trái, lại cũng đi được luôn cả làn phải không hề lăn tăn chi? / và bạn quả thật (đang) làm được thế ư, thậm chí còn nhiều hơn? / vậy bạn đáng nể quá rồi / người siêu nhất trần gian!
05 Tháng Giêng 202311:09 CH(Xem: 7030)
Võ Tòng Xuân, sinh ngày 6 tháng 9 năm 1940 (tuổi con rồng / Canh Thìn), tại làng Ba Chúc trong vùng Thất Sơn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Xuất thân từ một gia đình nghèo với 5 anh em. Học xong trung học đệ nhất cấp, VTX lên Sài Gòn sớm, sống tự lập, vất vả vừa đi học vừa đi làm để cải thiện sinh kế gia đình và nuôi các em... Miền Nam năm 1972, đang giữa cuộc chiến tranh Bắc Nam rất khốc liệt – giữa Mùa Hè Đỏ Lửa, Đại học Cần Thơ lúc đó là đại học duy nhất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), được thành lập từ 31/03/1966 thời Việt Nam Cộng Hòa đang trên đà phát triển mạnh, và đã có khóa tốt nghiệp đầu tiên ra trường (1970). Võ Tòng Xuân đã được GS Nguyễn Duy Xuân (1970-1975) – là Viện trưởng thứ hai sau GS Phạm Hoàng Hộ (1966-1970), viết thư mời ông về phụ trách khoa nông nghiệp – lúc đó trường vẫn còn là có tên là Cao Đẳng Nông nghiệp, với tư cách một chuyên gia về lúa.
17 Tháng Mười Hai 20222:10 SA(Xem: 6490)
Được tin buồn: cụ ông ĐẶNG VĂN NGỮ (Thân phụ của anh Đặng Hiền, cựu hs PTG ĐN niên khoá 75) Sinh năm: 1933 Đã từ trần vào ngày 06 tháng 12 năm 2022 (nhằm ngày 13 tháng 11 năm Nhâm Dần) Hưởng Thọ: 90 Tuổi