- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

CHUYẾN ĐI XA

21 Tháng Sáu 201910:22 CH(Xem: 17893)

 

DarkOcean-Ann Phong
Tranh Ann Phong- Dark Occean, mixed media,2014
(Collection of David Hai Goetz)

 

 

*

 

Đừng đứng trước mộ tôi mà than khóc.

Tôi không ở đó, tôi không ngủ,

tôi là ngàn cơn gió vỗ,

là hạt kim cương óng ánh trong tuyết,

là mặt trời lấp lánh ngọn lúa vàng,

hạt mưa thu nhẹ nhàng lời ru.

 

Khi người thức giấc trong ban mai tĩnh lặng

tôi xôn xao, xào xạc không trung

nơi bầy chim lặng lẽ nối đuôi khoanh tròn.

Tôi là vì sao dịu ngọt,

tỏa sáng màn trời đêm.

 

Đừng đứng trước mộ tôi mà giàn giụa.

Tôi không ở đó, tôi không chết.

                         – Mary Elizabeth Frye

 

Kể từ ngày nghe tin em, tôi chưa một lần tìm đến thắp nén hương cho Kim Yến. Có lẽ với tôi, em không thật sự ra đi. Hôm nay tình cờ đọc bài thơ này, tôi như nghe tiếng em nói, em cười. Đâu đó trong cuộc đời này, em vẫn hiện diện trong mọi vật thể, và nếu chúng ta có một điều gì đó để tin tưởng, tôi tin rằng em đã không chết.

 

*

 

Chúng tôi lái xe dọc theo Pacific Highway đến một điểm hẹn nơi hai chị em lần đầu gặp nhau. Trời vàng óng, nắng chiều đậu trên mái tóc ngắn bướng bỉnh soi rõ một nửa khuôn mặt em cương nghị với cặp mắt sáng, đen nháy luôn mở lớn quan sát cuộc đời. Đưa tay vặn âm thanh xuống khi Khánh Ly hát đến đoạn “Tại sao ta sống chốn này, quay cuồng mãi hoài có gì vui” em hạ giọng nghiêm chỉnh: “Cảm ơn chị bỏ thì giờ đi với em. Nhất là vào một buổi chiều trời đẹp như hôm nay.” Tôi nhìn mắt em long lanh, có niềm vui pha lẫn nỗi buồn, tôi liên tưởng đến vẻ đẹp buổi chiều trước giờ tắt nắng.

 

Quán nước nằm cao ngót trên triền đá, xung quanh là biển trời mênh mông. Em kéo tôi vào ngồi ở bàn khuất trong góc phòng nơi có tấm thảm màu xanh mạ lót dưới bộ sofa da bò màu nâu đất cũ kỹ, một bên là kệ sách gỗ cao ngút tận trần nhà, một bên là cửa sổ mở tung vào bầu trời vần vũ những đám mây hồng tía. Mặt trời hệt cái mâm tròn sà thấp sát mặt nước, đỏ ửng như cục than hừng hực trước khi tắt. Chúng tôi ngồi xoay hướng về phía chân trời, hoàng hôn tĩnh lặng tưởng chừng thanh bình, yên ả. Có tiếng chim kêu từ xa vọng lại não nề. Trong thoáng chốc, biển hồ mới đó xanh thẳm chuyển sang đen ngòm. Vệt sáng cuối cùng tự bao giờ bị nuốt chửng vào lòng biển không còn vết tích. Tôi nghe em lầm bầm với chính mình, “Cái gì dù đẹp và mạnh mẽ tột cùng cũng không để lại gì. Mọi thứ đều như thế, đều bị nuốt chửng vào bóng tối.” Tôi nói với em: “Không hẳn, có những thứ đi rồi mà vẫn lì lợm ở lại với chúng ta, chẳng hạn như hình ảnh người tình chia tay chưa thỏa lời biệt ly.” Em nheo mắt: “Thứ còn lại chỉ là kỷ niệm. Và theo thời gian kỷ niệm cũng tan biến vào bóng đêm.”

 

Kim Yến là một người bạn trẻ hơn mà tôi thường gọi đùa là “bệnh nhân” đặc biệt của tôi. Thời gian mới quen biết nhau, chúng tôi gặp nhau cách tuần, có khi ở quán, có khi ở nhà, có khi ở khuôn viên, đôi khi chỉ gặp nhau ở một bãi đậu xe. Vào những lúc em ở tình trạng “trầm trọng”, tôi đem chai rượu sang nhà em và hai chị em nói chuyện đến khi mặt trời lên. Có những buổi ngồi với nhau cả buổi chiều, chúng tôi chỉ ậm ừ vài câu, để sự yên lặng làm chất xúc tố hòa quyện tình cảm và sự thông hiểu giữa hai trái tim mệt nhoài. Có những ngày em nói chuyện huyên thuyên, nói về những việc không đâu vào đâu, nhắc về một khoảnh khắc kỷ niệm thơ ấu, về một người thân, một cuốn sách, một bản nhạc. Dù em nói chuyện gì đi nữa, tôi ngày càng hài lòng hơn về tiến triển tinh thần của em. So với một Kim Yến im lìm và khép kín, em giờ đây biểu lộ cảm xúc, đôi khi còn có vẻ nhạy cảm.

 

Vào những buổi chiều trời nhiều sắc màu biến đổi như chiều nay, hai chị em thường ngồi im lặng bên nhau chờ cho cảnh vật lắng đọng.  Hôm nay, trông em có vẻ bồn chồn bất an, tôi sốt ruột đi thẳng vào đề: “Có gì không ổn? ” Cúi sát đầu vào tôi, em nói như thì thầm: “Đã hơn vài tuần nay, họ không về nữa.” Giọng em hạ thấp: “Em đã cố gắng đến kiệt sức. Đã làm mọi cách. Nhưng lần này, họ thật sự biến mất.” Có chút gì đó tắt nghẽn trong giọng nói, như âm hưởng của sự tuyệt vọng. Tôi cố gắng nói với em một câu gì đó, lúng túng tìm một câu trích thích hợp nhưng rồi im bặt trước cặp mắt em xa vắng, trống rỗng, như thể em đang trân trân nhìn vào một hố đen trước mặt.

 

Tôi nắm tay em bóp chặt: “Đã nhiều năm qua rồi, có lẽ mẹ và em đã siêu thoát...” Em vẫn đăm đăm nhìn vào hố sâu. Tôi không biết làm gì hơn ngoài việc ngồi im cùng em phóng mắt vào màn đêm. Ngoài kia những đợt sóng từng lớp xô vào bờ, thỉnh thoảng đập mạnh vào những mỏm đá làm bọt sóng tung cao gây cảm giác tan vỡ.

 

Đó là đêm cuối cùng tôi gặp em.

 

*

 

Sinh ra đời,

               chứ không phải cái chết,

là sự mất mát nặng nề nhất.

                              – Louise Gluck

 

Mẹ sinh ra em vào mùa xuân năm 1972 tại Nha Trang, vừa chào đời em khóc oa oa mẹ dỗ mãi không nín. Một lát sau, em bỗng dưng im bặt. Mẹ nhìn ra cửa sổ nghe có tiếng chim trời hót vang. Mẹ đặt tên em là Nguyễn Kim Yến. Một năm sau khi em chào đời, mẹ sinh thêm một bé gái đặt tên là Nguyễn Kim Vân. Vài năm sau miền Nam thất thủ, gia đình ly tán, cha em chết trong trại tù cải tạo, mẹ buôn bán tảo tần sáng tối cố gắng sống còn trong những ngày cả nước khốn khó, nuôi dạy hai chị em lớn khôn trên bãi biển Nha Trang. Hai chị em ngày đêm không rời nhau như hình với bóng cho đến cái ngày định mệnh ấy.

 

Cơn bão đã tan và mặt trời trên cao chói chang khi em tỉnh dậy trên một bờ biển. Mở mắt ra, em thấy hàng trăm cặp mắt xung quanh chăm chăm nhìn vào mình như thể họ đang chờ đợi một phép mầu. Cảm giác người nóng ran, thân thể tím bầm, nặng trịch như bị cột chặt vào tảng đá đang từ từ chìm xuống, em ú ớ gọi mẹ, cố nhớ lại chuyện xảy ra đêm qua, khi đám hải tặc tràn lên tàu. Một cảm giác đau buốt truyền từ hai chân lên tới đầu, em đưa tay lên ngực cố giữ chặt trái tim đang co thắt hoảng loạn.

 

Mặt đất bồng bềnh. Bầu trời sà xuống thấp như muốn bóp nghẹt khoảng không gian ngột ngạt.  Tiếng người bàn tán xôn xao, ai đó với khuôn mặt thần chết đang cố gắng giải thích sự việc. Em nhắm chặt mắt lại, hiểu rằng từ nay trở đi khi mở mắt, mình sẽ chẳng bao giờ còn nhìn thấy mẹ và em gái thương yêu nữa.

 

Những năm tháng trung học ở Mỹ sau đó em trở thành một cô bé câm. Con chim trời không còn tiếng hót, nhốt mình vào lồng kín. Có lẽ với em, thế giới càng nhỏ càng thu hẹp, hình ảnh mẹ và em gái càng không bị lu mờ. Thông thường, người ta phải tập quên đi và đóng chặt cánh cửa nhìn vào quá khứ để vượt qua và tiếp tục bước đi trong cuộc sống. Riêng em, quá khứ dù là những vết cắt ngoài sức chịu đựng, nhưng lại là chiếc cầu nối duy nhất đưa em trở về.

 

Em nuôi dưỡng những vết thương trong lòng mình, bám víu vào cơn ác mộng hằng đêm níu giữ lại khuôn mặt người thân yêu.

*

 

Cái chết

được ấp ủ

từ những vết thương.

        – Federico García-Lorca

 

Mùa đông năm 2013, trong khi tôi đang vật lộn với một cuộc khủng hoảng tình cảm tưởng chừng như không vực dậy nổi, tôi tình cờ gặp lại Kim Yến và hoàn toàn bị em thu hút. Tuy em luôn im lặng và khép kín đến vô cảm, tôi vẫn có cảm giác như tận cùng trong con người bằng da bằng thịt đó ẩn náu một linh hồn đang vùng vẫy cố thoát ra khỏi thân xác. Điều gì đó trong ánh mắt em khiến tim tôi đau nhức, hệt như hồi còn bé nhìn con chim bị bắn gãy cánh vùng vẫy gắng sức lết theo đàn.

 

Có lẽ khi đã mệt nhoài, người ta không còn đủ sức chống chõi, che đậy nữa, mà để yên cho người ngoài soi thấu vào tâm can mình. Thoạt nhìn vào, Kim Yến là một cô gái mạnh mẽ, thông minh, ngăn nắp, sống một đời sống độc lập, lý tưởng. Nhưng hệt như những vết thẹo hằn sâu trên thân thể, trái tim em chằng chịt những vết thương. Em yếu đuối và mỏng manh. Em đau đớn, sợ hãi. Tôi có cảm tưởng chúng tôi gần gũi nhau bằng sự cô đơn và tuyệt vọng, với hy vọng tình thân yêu sẽ giúp nhau vượt qua những đêm tối của cuộc đời.

 

Tình yêu, dù ở dưới dạng nào, cũng là hạt mầm hy vọng. Tình bạn với em giúp tôi phần nào tìm lại được thăng bằng. Còn em, có khi tôi thấy em như tạm quên những oan khiên trong đời, tung cánh bay cao. Tiếng chim hót dường như cũng thánh thót hơn. Tôi để ý thấy những chuyến bay thường xuyên trở lại Thái Lan tìm mẹ và em cũng dần dà thưa dần. Có thể nào những vết thương đã liền lặn, và cuối cùng trong một góc sâu thẳm nào đó, em đã cho phép đứa con gái sống sót duy nhất trong gia đình được quyền sống, được quyền hiện hữu.

 

Hồi đó tôi thường tự cho rằng mình có một giác quan thứ sáu, nhạy cảm với mọi sự việc, nhất là với những người mình thương yêu. Vậy mà chiều hôm đó, tôi đã không mảy may linh cảm được điều gì, kể cả khi đưa em về nhà, em chỉ chồng sách đặt sẵn trên bàn: “Chị đem về nhé. Ba trong những cuốn sách này là sách em trả lại chị. Những cuốn còn lại em cho chị mượn đọc. Là những cuốn favorite của em.” Đặt chồng sách vào xe, cuốn The Birth of Tragedy đập vào mắt tôi vì màu giấy ngà cũ kỹ, tôi cầm cuốn sách lên, hàng chữ First Edition đã phai màu nhạt thếch và mùi giấy cũ gây cho tôi một cảm giác rờn rợn.

 

*

 

Chị, chị đâu rồi. Em không nhìn thấy chị.

Chị đây. Sát bên em nè.

Không, em không thấy chị. Chị đâu.

Chị đây. Chị đang ôm em đây nè. Tay chị nè.

Không. Em không cảm giác được gì hết.

Chị. Chị ơi. Tay chị đâu. Tay em đâu.

Người ta đè lên em tê cứng. Tay em đâu rồi. Chị, chị ơi.

Suỵt. Đừng sợ. Chị đây.

Chị. Chị ơi. Chị đâu. Đừng buông em ra.

Hẳn nhiên rồi.

 

Thụp, một tiếng động mạnh, hệt như một con thú vừa hạ bàn chân khổng lồ giậm mạnh xuống boong tàu, mọi thứ rung chuyển. Những tiếng la ó thất thanh nổi lên khi những bóng đen từ trong bóng tối nhảy vọt lên tàu. Trong muôn vàn âm thanh hỗn loạn, con bé nghe tiếng em gái ré lên từng hồi. Nó ôm chặt em nó, cảm giác bàn tay ai đó đang lôi nó xềnh xệch. Nó nhắm chặt mắt lại. Chặt đến nỗi mọi cảnh diễn ra sau đó không thể nào lọt vào mắt nó.

 

Năm, mười, mười lăm, hai mươi. Nhắm mắt. Năm, mười, mười lăm, hai mươi. Nhắm mắt. Nhắm mắt. Bầu trời chằng chịt những ngôi sao, hai chị em leo thoăn thoắt lên những hốc đá chơi trò trốn tìm. Nhắm mắt. Bãi cát Nha Trang sớm mai êm ả hiền hòa, hai chị em chân đất nắm thay nhau chạy ra đón những chiếc tàu đánh cá vào bờ. Chỉ cần nó nhắm mắt. Nhắm mắt và cầu nguyện. Những bàn tay thô bạo. Cái thân nặng ngàn cân trên người nó. Cái cảm giác đau nhói liên hồi giữa hai chân nó. Tất cả rồi sẽ biến mất. Chỉ cần nó nhắm mắt. Cầu nguyện. Khi mở mắt, mọi thứ sẽ biến mất.

 

Và như thế, mọi thứ biến mất. Em nó, mẹ nó, tuổi thơ nó, tâm hồn nó, niềm tin tình yêu của nó, tất cả những gì tốt đẹp gắn bó hình thành nó đã vĩnh viễn biến mất – đêm hôm đó.

 

Thứ còn lại là nỗi dày vò, bứt rứt khôn nguôi của người sống sót ở lại, cùng những hồn ma trong lòng.

 

*

 

Chúng tôi thường hẹn nhau vào cuối ngày trước giờ tắt nắng. Có lẽ màu sắc của bầu trời và sự tĩnh lặng của không gian đem đến sự bình yên tạm thời. Cũng có lẽ sự trở lại đều đặn, bền bỉ mỗi ngày của thứ sắp tan biến xoa dịu nỗi bất an vô hình.

 

Đêm đầu tiên khi giấc mơ hằng đêm không về, em thức dậy hụt hẫng. Người không toát mồ hôi, máu cũng không dồn về tim, nhìn ra ngoài mặt trời đã lên cao, em nằm yên không chuyển động chờ cho đêm trở lại. Con người một khi đã quen tiếp xúc với điều gì đó, dù là nỗi đau, sự hành hạ, thậm chí sự đục khoét lở loét vào vết thương, nhưng nếu thiếu nó, người ta sẽ không còn cảm giác mình đang sống, đang hiện hữu.

 

Khi những bóng ma quá khứ vĩnh viễn không trở về nữa, em thấy mình như kẻ thất tình, cảm giác một lần nữa bị bỏ rơi giữa dòng không một liên hệ nào sót lại trên đời. Cuộc sống. Mọi hệ lụy. Giấc mơ. Hy vọng. Thế giới. Tất cả. Một sự vắng bóng.

 

Điều cuối cùng con người phải làm là tan biến. Như bóng chiều – mất biến vào đêm tối.

 

*

 

Ngày được tin em ra đi ở Thái Lan, tôi hình dung đến cảnh hoàng hôn sà thấp xuống một chuyến tàu. Trên cao, từng đàn chim yến nối đuôi nhau soãi cánh về hướng mặt trời. Người phụ nữ đứng dựa lan can tàu thản nhiên đưa chân bước vào khoảng không trước mặt.

 

Tiếng chim trời ngoài khơi kêu vang, như tiếng kèn hiệu hồi kết. Cũng có thể là kèn hiệu bắt đầu. Biết đâu khi người ta đi hết quãng đường thế gian, có một chốn nào đó nơi khổ đau không hiện hữu, và đàn chim có thể tự do lượn cánh không sợ bị bắn rơi nửa đường.

 

Bất kể nơi nào, tôi tin rằng có một nơi chốn tốt đẹp hơn cho em, xa hẳn thế giới này.

 

 

Nguyên Yên

 

– Viết tưởng nhớ Kim Yến [1972-2017]

 

Ý kiến bạn đọc
23 Tháng Sáu 20193:09 CH
Khách
Một bài văn pha như thơ. Một sự tiếc nuối không cùng.
Người đi rồi tình buồn bay trong không gian.
Và,
"Thứ còn lại là nỗi dày vò, bứt rứt khôn nguôi của người sống sót ở lại, cùng những hồn ma trong lòng."
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 86507)
Larsson lìa đời trước khi đứa con tinh thần, bộ tiểu thuyết thuộc loại trinh thám, Millennium Trilogy, gồm ba cuốn, mà ông đã viết vào mỗi tối như một trò giải trí cho thần kinh bớt căng thẳng, ra đời sáu tháng sau khi ông ký giao kèo với một nhà xuất bản Thụy Điển, Norstedts Förlag, nhà xuất bản thứ hai Larsson liên lạc và ký giao kèo, sau khi gửi cho một nhà xuất bản thứ nhất tới hai lần mà gói sách không hề được mở ra.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92005)
Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng Tư 1975, chúng tôi có cái hân hạnh được Công đoàn bảo hiểm Pháp ( Fédération Française des Sociétés d’Assurance ), qua thỏa ước với Bộ Tài chánh CHXHCNVN, gởi về nước cùng với một số nhà giáo Pháp giảng dạy bộ môn Bảo hiểm còn mới này trong trường Đại học Tài chính và Kế toán Hà nội - nay trường đã lột xác trở thành Học viện Tài chính.
14 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 108396)
Về đi thôi nhật ký ngày chân đất Gốc đa già bà kể lá bùa yêu Em ôm giấc thị thành nửa mùa cổ tích Hỏi gió trời sao giấu lá bùa yêu 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83680)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 82696)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75052)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80032)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.
28 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 84811)
Con tàu đã trở nên ọp ẹp, mấy mươi năm còn gì. Người ta nói đây là chuyến tàu tốt nhất hiện nay. Hành khách bực dọc phàn nàn tốt gì mà tốt, như đống sắt vụn, làm như họ là kẻ trên trời rơi xuống không bằng.
23 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 88120)
Tình yêu, cũng như chiến tranh, là hai đề tài muôn thuở của con người. Văn chương ngoại quốc nói về chiến tranh, viết về những trận chiến gần, xa trong lịch sử, chúng ta vẫn thích đọc. Vậy thì tại sao, người Việt Nam viết về chiến tranh Việt Nam lại nhàm chán?
20 Tháng Mười Hai 201012:00 SA(Xem: 91563)
... Tôi đã từng ăn thịt chuột. Tôi ăn vụng của em tôi. Bố cấm tôi nói cho ai biết. Bố đã cho thằng em tôi ăn bao nhiêu con chuột tôi cũng không nhớ nổi. Chỉ có điều bố thích như vậy. Bố nướng con chuột lên, thế thôi. Thằng em tôi cười hềnh hệch, nước dãi chảy dài, cầm con chuột gặm như một bắp ngô nướng. Những tảng máu chưa đông rịn đỏ hai mép. Tôi thấy đầu mình ung ung. Những hình ảnh như những mảnh vỡ lộn xộn va đập vào nhau liên hồi ...