- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

THẮNG hay BẠI ? ngày 30 tháng 4 năm 1975

12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37832)


pham_trong_luat-thang_hay_bai-content



Nếu chúng ta cũng ngậm miệng, thì ai sẽ nói thay?

Arthur Schopenhauer

 

«Chiến tranh là sự tiếp nối chính trị bằng những phương tiện khác». Câu văn trứ danh này của Clausewitz, có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe qua. Nó xác lập sự phụ thuộc của quân sự vào chính trị. Từ khi có những tập hợp người gọi là thành quốc hay quốc gia, người ta không làm chiến tranh đơn thuần nhằm chém giết lẫn nhau, mà để giành lấy quyền định đoạt số phận của một cộng đồng. Và kẻ tham chiến có thể thua hàng trăm trận đánh, miễn là thắng trận cuối cùng, nếu sau đó nó mang lại quyền quyết định về việc tổ chức chính quyền trên một lãnh thổ. Nói cách khác, nếu tột đỉnh của quân sự là chính trị, thì bên tham chiến nào đạt được mục tiêu chính trị - đối tượng của cuộc tranh chiến -, bên ấy chính là kẻ chiến thắng.

Lịch sử đầy những địa danh mang tên loại chiến thắng quân sự ấy. Nhưng lịch sử cũng không thiếu những thí dụ đầu voi đuôi chuột, khi sự chiếm hữu chính quyền chỉ đẻ ra nổi một trật tự công cộng đặt trên những giá trị hoàn toàn trái ngược với lý tưởng được viện dẫn để biện minh cho chiến tranh. Nghĩa là khi chiến thắng quân sự không được tiếp nối bằng thứ thành tựu chính trị phù hợp với lời hứa hẹn, mà đôi khi bằng một thất bại sâu đậm hơn bội phần. Ở đây, để không ai sớm chạnh lòng, ta có thể nhìn vào cổ sử phương Tây xa xôi để tìm hiểu trường hợp có lẽ là nghịch lý nhất của nhân loại.

Thừa hưởng một quá khứ tương tranh triền miên, các thành quốc cổ Hy Lạp thường chỉ tập hợp nổi khá muộn màng trong một thứ liên minh phòng ngự, trước tham vọng thôn tính của ngoại bang. Liên minh cuối cùng gọi là «Liên Minh Achée» [Ligue Achéenne], hình thành vào năm 181 trước Tây lịch, đặt thủ đô tại Corinthe, nhằm chống lại đế quốc La Mã. Ba mươi lăm năm sau, Viện Nguyên Lão [Sénat] Roma gửi một đoàn quân và một đội chiến thuyền dưới sự thống lĩnh của Mummius và Metellus đổ vào Bucopétra thuộc thành quốc Corinthe. Quân liên minh ra cự địch bị tiêu diệt trong trận Leucopetra (năm 146 trước Tây lịch): Mummius ra lệnh san bằng Corinthe, chỉ chừa lại thành trên (acropole) và một số đền thờ. Vô số kho tàng văn hoá bị thiêu hủy hay chở về Roma. Hy Lạp từ đây trở thành tỉnh Achaiie của La Mã, cho đến khi đế quốc này cũng suy tàn rồi tiêu vong (khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch).

Ở đây, đâu là phán quyết của lịch sử? Leucopetra không phải chỉ là một trận thắng mà là một chiến thắng, bởi vì sau đó quyền quyết định số phận người dân Hy Lạp không còn nằm ở Corinthe hay một mảnh đất Hy Lạp nào khác, mà trong tay Viện Nguyên Lão Roma. Nó cho phép ta kết luận với Clausewitz: có chiến thắng quân sự khi sự kết thúc chiến tranh dẫn đến một thay đổi chính trị, cụ thể về quyền quyết định tổ chức quốc gia hay thành quốc. Nhưng đây chỉ mới là nửa đầu của câu chuyện thắng bại giữa Hy Lạp và La Mã – cái nửa sự thực của cường lực vật chất.

Đây là nửa sau – cái nửa của sức mạnh tinh thần. Mummius ở lại làm Thái Thú (Proconsul) trên vùng đất ông đã chinh phục. Nhưng người La Mã, dù ở thuộc địa hay chính quốc, dần dần bị thu hút bởi văn minh Hy Lạp. Đến «thế kỷ của Auguste» (Caius Julius Caesar Octavianus Augustus, trị vì từ năm thứ 27 trước, đến năm thứ 14 sau Tây lịch) bao sản phẩm văn hoá và nếp sống Hy Lạp đã hiển hiện nhan nhãn trong đời sống hàng ngày của đế quốc La Mã, đến nỗi thi hào đương thời Horace (Quintus Horatius Flaccus, sinh năm thứ 65, mất năm thứ 8 trước Tây lịch), mà ngay bản thân cũng là đệ tử của nhà hiền triết Hy Lạp Epicure (Epikouros), khi suy ngẫm về quan hệ giữa đôi bên, đã để lại lời than bất hủ: rốt cuộc, «Hy Lạp bại trận đã chiến thắng kẻ thắng trận hung tợn!» (Pháp ngữ: «La Grèce vaincue vainquit son farouche vainqueur!»). Hiện thực này cho phép ta thắc mắc: thế nào là một chiến thắng chính trị? Phải chăng, ở đây, thắng lợi quân sự chỉ chuyển hoá thành chiến thắng đích thực khi sự thay đổi quyền quyết định tổ chức quốc gia hay thành quốc là tiền đề cho việc phổ biến những giá trị văn hoá của kẻ thắng trận?

Tất nhiên, Hy Lạp là một ngoại lệ hãn hữu. Không phải kẻ thất trận nào cũng cao hơn bên chiến thắng về mặt văn hoá. Nhưng cũng hiển nhiên, không phải giá trị văn hoá nào của kẻ thắng trận cũng đáng được phổ biến. Làm sao có thể La Mã hoá Hy Lạp, khi trong lãnh vực thể dục và tiêu khiển chẳng hạn, phe thắng chỉ đẻ ra nổi trò giác đấu mọi rợ, so với những cuộc thi điền kinh của bên thua? Colisée hoành tráng xưa, nay chỉ còn đứng đấy như một tàn dư hầu nhắc nhở du khách về cái thú tính luôn luôn còn tiềm năng bật dậy từ thâm sâu con người, trong khi ngọn đuốc thiêng từ Olympie, cứ bốn năm một lần lại chạy vòng quanh trái đất để vinh danh một lý tưởng cao quý của cả nhân loại… Tất nhiên, quan hệ Hy - La chỉ là một trường hợp giới hạn - một thứ mẫu lý tưởng -, nhưng đấy lại chính là thứ điển mẫu để từ đó đánh giá lại mọi tiếng gáy chiến thắng.

Nói cách khác, chiến thắng hay chiến bại, nói cho cùng, là một vấn đề chính trị - văn hoá. Và bởi vì không ai hy sinh xương máu giành chánh quyền để chẳng làm gì cả, hãy chỉ cho chúng tôi xem cái nền tảng giá trị mới trên đó anh muốn xây dựng trật tự quốc gia của anh, cùng những thành tựu đã thu hoạch được, chúng tôi sẽ nói, rốt cuộc, anh là người chiến thắng hay kẻ chiến bại.

 

Thử nhìn lại ngày 30 tháng 4 năm 1975 của lịch sử Việt Nam. Đây là một chiến thắng quân sự không thể chối cãi, bởi vì nó mở ra một trật tự chính trị mới. Kẻ thắng trận từ đây có thể vất bỏ mặt nạ. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Đảng Lao Động hiện nguyên hình là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nghĩa là từ đây, hệ thống giá trị được sử dụng làm đích nhắm để kiến thiết quốc gia không thể là gì khác hơn ngoài cái lý tưởng «phân phối theo nhu cầu, và đòi hỏi theo khả năng» trong tương lai cộng sản xa xôi, và cái phương châm «mình vì mọi người, mọi người vì mình» biểu thị «nếp sống văn minh» của thời quá độ được giả định mỗi ngày đang thành hình cụ thể trong hiện thực. Cái lý tưởng và nếp sống ấy tất nhiên không chỉ liên hệ đến người Cộng Sản, mà tất yếu phải quy định tương lai của cả nước, bởi vì đối với đảng cầm quyền, chỉ có loại thể chế này mới có khả năng mang lại và bảo đảm «độc lập, tự do, hạnh phúc» cho đất nước và nhân dân.

Ngày nay, chúng ta đang ở đâu trên bảng giá trị trên của hai cuộc cách mạng, «cách mạng xã hội chủ nghĩa»«cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân»? Trả lời không nhân nhượng câu hỏi đó là dám nhìn thẳng vào cái ngày mai không mấy sáng sủa đang chờ đợi Việt Nam.

Tôi không viết bài này để so sánh Việt Nam với Hy Lạp: «bốn nghìn năm văn hiến» của ta chỉ là một hòn đất tí hon so với chiếc nôi văn hoá vĩ đại kia của nhân loại. Tôi cũng không viết bài này để hàm chỉ rằng Việt Nam Cộng Hoà cao hơn Dân Chủ Cộng Hoà về mặt văn hoá; tất nhiên, tôi không quên chuyện đốt sách ở Saigon và những phát biểu trịch thượng về văn hoá miền Nam trước 1975 - chỉ xin nhường lại sự phán xét cho mai sau. Cuối cùng, tôi cũng không viết bài này để kể tội Đảng Cộng Sản Việt Nam: tôi tự biết không đủ thẩm quyền bằng những người đã hy sinh tuổi trẻ và xương máu cho nó. Tôi chỉ cố gắng viết bài này, với tất cả sự thành khẩn khả hữu, để nói với mọi người, trong cũng như ngoài nước, trong cũng như ngoài Đảng, đôi ba điều tôi tin là thật:

1) Thất bại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong tư thế đảng cầm quyền, dù muốn hay không, đương nhiên sẽ là thất bại chung của cả nước; 2) Chúng ta đang trên đường mất nước (như vẫn thường được cảm nhận ở miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 trước đây), không chỉ theo nghĩa là mất đi một nhà nước (phong kiến, độc tài hay toàn trị), mà là mất hẳn quê hương tổ quốc, lịch sử văn hoá, sông núi đất đai,… bởi vì chúng ta đã hội đủ mọi điều kiện để trở thành một tỉnh của Trung Hoa: lãnh đạo đồng loã, trí thức nhu nhược, dân trí thấp kém. 3) Chỉ một sự thức tỉnh và vùng dậy của cả nước, trong tinh thần hoà giải và cộng tác trong ngoài, trong truyền thống kháng chiến toàn diện, mới có hy vọng giúp ta thoát hiểm.

Đừng bao giờ quên: Mông Cổ, kẻ từng mang quân sang chinh phục Âu châu, nay chỉ còn là một tỉnh của Trung Hoa. Đừng bao giờ quên: Tây Tạng đã bị Trung Cộng thôn tính trong sự bó tay bất động của quốc tế. Đừng bao giờ quên: nếu lại rơi vào cảnh Bắc thuộc lần nữa, với sự chênh lệch một trời một vực về mọi mặt (quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá) như hiện nay, chúng ta khó lòng tránh nổi cái họa bị kẻ thù truyền kiếp Hán hoá vĩnh viễn.

 

Nhìn lại, tiếng gáy «đại thắng lợi» của ngày 30 tháng 4 năm 1975 thực chất chỉ là «một canh gà báo trượt rạng đông». Có những mặt nạ người ta tự ý vất đi; có những huyền thoại dù không chủ ý vẫn bị lột trần. Không ít trí thức từng tham gia chống Mỹ - đánh Ngụy, để «cứu nước, giành độc lập» nay bỗng khám phá ra rằng không thể nào có cách mạng, vì thực ra chưa bao giờ có những con người cách mạng mà họ tưởng tượng, dù ở cấp bậc nào!

Trên đỉnh, vất vưởng một dúm lãnh đạo lăm le «giải phóng» tất cả, song lại quên tự giải phóng cái đầu, mắc bệnh syđa (sao y đàn anh) trầm trọng. Khoảng giữa, lẫm liệt một đoàn cán bộ «hồng», một lớp tham quan, nấp dưới lớp sơn «cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư» của Bác Hồ để ăn hối lộ, buôn lậu, làm ăn «phi xã hội chủ nghĩa». Bên dưới, chen chúc hàng trăm ngàn đảng viên nghèo đói, thèm thuồng trước cảnh «phồn vinh giả tạo», từ đây nhất quyết đánh đổi cuộc đời vô sản lấy chút của cải phù du bằng mọi thủ đoạn «mánh mung», «móc nối». «Nếp sống văn minh» của thời quá độ, rốt cuộc, dẫn đến một xã hội lưu manh hoá: người ta thi nhau ăn cắp của công, lường gạt cướp giật lẫn nhau, phá hoại từng mảng tài nguyên đất nước, bán tống bán tháo hàng loạt gia sản cha ông để lại. Trên sỏi đá xã hội chủ nghĩa không tưởng «mình vì mọi người, mọi người vì mình», chẳng có gì nghịch lý khi chỉ mọc lên nổi thứ cây trái phong kiến vô cùng hiện thực «phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc».

Nếu đấy là những biểu hiện văn hoá (nền tảng giá trị và thành tựu thu hoạch) của chủ nghĩa xã hội, thì ai thắng ai ở đây? Cái Cũ hay cái Mới? Phong Kiến hay Cộng Sản? Tư Sản hay Vô Sản?

Mặt khác, hàng loạt chính sách giáo điều quái đản (nào cải tạo, nào đổi tiền, nào lý lịch), cùng với sự bao che băng đảng dưới chiêu bài «hợp tình, hợp lý» của Bác, đào sâu thêm hố thẳm Quốc - Cộng vốn đã hun hút. Khi thiên đường của phe «đại thắng lợi» đồng nghĩa với địa ngục cho bên «đợi thắng lại», tất yếu phải xuất hiện thảm cảnh thuyền nhân, và nỗi lo đảo lộn «phản cách mạng» khi cả khối Liên Xô sụp đổ. Bên ngoài, giương cao ngọn cờ quốc tế tơi tả, lãnh đạo dẫn toàn Đảng sang Thiên Triều Trung Quốc xin chiếc dù bảo hộ: «Đánh Tây đánh Mỹ bạc đầu, Ngày nay chống gậy qua Tàu ăn xin!». Bên trong, giương cao lá bài độc lập, lãnh đạo bắt cả nước trốn đằng sau một xác chết: Lăng Bác với tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ đội hai cái mũ: nhà Kominterchik và nhà yêu nước. Nhà Kominterchik chưa bao giờ phát biểu chi đáng giá về chủ nghĩa, về lý thuyết Mác Lênin. Nhưng nhà ái quốc, dù với lập trường vô sản, đôi khi cũng để lại vài câu nghe được về chủ quyền dân tộc: «Thà ngửi phân Tây thêm vài năm nữa, còn hơn ngửi cứt Tàu suốt đời» (tôi trích dẫn theo trí nhớ lời Bác dạy một lãnh tụ mắc bệnh nóng vội). Bác ơi, đám cháu ngoan của Bác, ngày nay dường như đang phản cả Bác để duy trì quyền lực. Ai đi ngang Lăng Bắc, dán giùm dân, đâu đấy cạnh bên, mấy câu thơ nhại từ Ông Phỗng Đá của nhà nho phong kiến Nguyễn Khuyến: «Ông ở làm chi trõng hỡi ông / Bơ vơ cá chậu với chim lồng / Đêm ngày coi sóc cho ai đó / Non nước đầy vơi có biết không?». Bác ơi, nhất nhật tại Lăng, nghìn thu trách nhiệm. Vượt biên đi Bác! Vượt cả tường đá lẫn tường lửa, ra mà xem thế sự xoay vần.

Vơi đi sông núi đất đai, đầy hơn tủi nhục: bảo hộ nào cũng có cái giá phải trả. Hãy đọc bằng ngôn ngữ sự kiện. Hoàng Sa đã rơi vào tay Trung Quốc nhờ một lá thư dại dột của Phạm Văn Đồng (chuyện này hẳn Bác Hồ phải biết!). Trường Sa cũng có thể mất toàn bộ vào tay đế quốc đỏ cuối cùng này bất kỳ lúc nào, chẳng cần thêm một văn kiện ngây ngô thứ hai. Ấy thế mà lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tiếp tục ký tiếp hai hiệp ước bất bình đẳng với Trung Cộng, về biên giới, về lãnh hải. Rồi bưng bít, không xong thì dối dân, hoặc phản đối suông trước mỗi «diễn biến hoà bình», với đầy đủ chiến thuyền súng ống, của chủ nghĩa bành trướng! Không dám đưa vấn đề các quần đảo ra trước toà án quốc tế liên hệ - dù với khả năng thắng kiện đáng kể, không dám công bố nội dung hai hiệp định - dù nhân dân đòi hỏi, là đồng loã hiến dâng lãnh thổ cho ngoại bang, tiếp tục đánh lừa nhân dân một cách hoàn toàn ý thức. Qua hành trạng này, nhóm lãnh đạo bảo thủ Đảng đã tự xác nhận, không thể nào rõ ràng hơn, như tập đoàn tay sai, như lớp công chức thuộc địa của đế quốc Trung Cộng.

Bây giờ, thử đọc bằng ngôn ngữ biểu tượng. Khi Vi Quốc Thanh tuyên bố hắn mới chính là kẻ thắng trận Điện Biên Phủ, cả tập đoàn lãnh đạo bảo thủ Đảng im lặng. Phải chăng, cùng với tên tướng Tàu này, họ đã nhổ vào hương linh bao thanh niên Việt Nam đã hy sinh xương máu cho cuộc chiến tranh kháng Pháp và gia đình? Khi Giang Trạch Dân nghênh ngang sang Hội An tắm biển không cần hộ vệ, hắn muốn tuyên bố gì với thế giới, nếu không phải rằng cái gọi là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam kia, kể từ nay, đã trở lại quy chế An Nam Đô Hộ Phủ của Thiên Triều trên thực tế? Giả vờ không hiểu (hoặc có khi không hiểu thực!) ý nghĩa của trò ám chỉ đểu cáng, xấc láo trên, phải chăng tập đoàn lãnh đạo bảo thủ Đảng đã khạc vào mặt tổ tiên, chối bỏ lịch sử bất khuất của dân tộc mình? Khi chiến thuyền Trung Cộng giết hại và bắt giam ngư phủ Việt Nam, nếu đại diện của nước phạm pháp không bị Bộ Ngoại Giao gọi lên mắng mỏ như trong cách hành xử thông thường của bất kỳ một quốc gia có chủ quyền và tự trọng nào, thì tập đoàn lãnh đạo bảo thủ Đảng ta đã muối mặt xác nhận với thế giới rằng tên Tề Kiến Quốc kia, thực ra không phải là ông Đại Sứ, mà chính là quan Thái Thú mới của Thiên Triều trên thủ đô «nghìn năm đô hộ» của mình.

Bảo hộ nào cũng có cái tiến trình của nó. Xưa, bao che Bảo Đại, Pháp tìm mọi cách tô son, trét phấn cho ông vua phường tuồng - một cách vuốt ve tự ái dân tộc để dân dễ chấp nhận. Nay, Trung Cộng vừa che chở, lại vừa công khai hạ nhục tập đoàn tay sai lãnh đạo Đảng Cộng Sản anh em. Nghịch lý ngoài mặt này chỉ tố cáo ý đồ nham hiểm bên trong. Càng gục đầu, cúi mặt, càng bị nhân dân khinh oán; càng bị khinh oán, nhóm lãnh đạo bảo thủ Đảng ta càng phải khuất phục nhục nhã Thiên Triều. Hố phân cách giữa lãnh đạo và nhân dân Việt Nam ngày cành khuếch rộng, đào sâu; nhưng dù theo kịch bản nào cũng đều có lợi cho Trung Cộng. Hoặc tập đoàn bảo thủ Đảng tiếp tục thống trị: đủ tham để tự tay triệt hạ khả năng kỹ nghệ hoá và phát triển đất nước qua việc buôn lậu hàng hoá «made in China», đủ mạnh và khôn vặt để trấn áp phong trào dân chủ, duy trì ngăn cách trong ngoài, lũng đoạn tôn giáo, v. v… - đương nhiên Trung Quốc sẽ tiếp tục gặm nhấm lãnh thổ và lãnh hải, làm thực dân mới. Hoặc đến một lúc nào đó, bất mãn sẽ nổ bùng thành bạo loạn - dựa trên một thỏa ước chính thức và hợp pháp chắc chắn đã được ký kết ngầm giữa hai bên, lúc ấy Trung Cộng sẽ gửi quân sang cứu nguy Đảng anh em, rồi viện cớ ngăn ngừa một đệ tam nhân tưởng tượng thừa nước đục thả câu để vĩnh viễn ở lại, làm thực dân cũ như ở Tây Tạng. Đấy là cái tương lai tăm tối đang chờ đợi Việt Nam. Không phải phim chính trị giả tưởng đâu, hiện thực Hung, Tiệp, Tây Tạng tái diễn đấy!

Độc lập là giá trị văn hoá tối cao của bất kỳ một dân tộc nào. Bởi vì mọi kiến trúc thượng tầng đều phải được xây dựng trên cái nền tảng ấy. Do đó, trong suốt thế kỷ qua, chủ quyền dân tộc đã là đối tượng đấu tranh của cả nước - kể cả Đảng Cộng Sản Việt Nam, dù bằng một con đường lắt léo, nguy hiểm. Nếu bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu xương máu đã mất đi chỉ để đánh đổi lấy một sự lệ thuộc nhục nhã - tiệm tiếm nhưng chắc chắn - vào Trung Quốc như hiện nay, thì ngày 30 tháng 4 năm 1975, bước đầu của cái tiến trình mất độc lập ấy, là chiến thắng hay chiến bại cho cả nước?

 

Trước khi mất, ông Hồ hứa hẹn sẽ xây dựng lại quê hương tổ quốc đẹp hơn gấp mười. Một nhà thơ còn minh hoạ cái ngày mai tuyệt vời ấy, rồi xuýt xoa kết luận «Đất nước bao giờ đẹp thế này chăng?». Ngày nay, nếu chưa hoàn toàn đui mù, có lẽ chúng ta nên tự hỏi: «Đất nước bao giờ nhục thế này chăng?» hoặc «Đất nước bao giờ nguy thế này chăng?». Tôi tin rằng, chỉ với ý thức nhục nhã, ý thức hiểm nguy, song song với ý muốn giải ảo toàn diện khỏi mọi ảnh hưởng tai hại của một thứ chủ nghĩa cứu thế không tưởng, đất nước ta mới có khả năng hồi sinh hầu đương đầu với tình hình bi đát hiện tại. Chính vì bị chủ nghĩa tha hoá mà ta đã nhìn kẻ thù truyền kiếp thành đồng minh quốc tế. Chính vì bị giáo điều tha hoá mà ta đã giết hại anh em ruột thịt như kẻ thù không đợi trời chung. Cái chủ nghĩa trên, dù nay đã bị cả thế giới phế thải, bất hạnh thay, vẫn còn không ít tàn dư trên mảnh đất cha ông để lại. Bởi vì chẳng nhân danh gì khác ngoài cái chiêu bài «bảo vệ thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa» mà hai tập đoàn lãnh đạo của Trung Hoa và Việt Nam đã nối lại quan hệ bất bình đẳng xưa cũ - một bên để bành trướng bá quyền, một bên để duy trì quyền lực băng đảng.

Trong số những «thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa» nói trên, tất nhiên có cả ngày 30 tháng 4 năm 1975. Do đó, xác định lại nó như ngày thất bại chính trị văn hoá bi thảm nhất của lịch sử dân tộc, chính là góp phần giải ảo một huyền thoại nguy hại, thức tỉnh những ai còn chút lương tri để suy nghĩ một cách thực tế và trách nhiệm về tương lai đất nước. Đây không thể là một chiến thắng chính trị, vì sau đó đất nước trở lại mô hình Bắc thuộc tưởng đâu đã vĩnh viễn trôi qua, dân tộc bị phân hoá trầm trọng thành bao mảnh đối kháng (Bắc / Nam, cai trị / bị trị, trong nước / ngoài nước, trong đảng / ngoài đảng). Đây cũng không thể là một chiến thắng văn hoá khi kẻ cầm quyền đã tự tay tổ chức sự tụt hậu về mọi mặt của quốc gia (giáo dục, y tế...), phá hủy nền đạo lý cổ truyền thoát thai từ các đạo giáo toàn nhân loại mà không thay thế nổi bằng bất cứ chủ trương, chính sách giáo điều nào. Rốt cuộc, gần như cả thế kỷ 20 đã bị phung phí, với bao nhiêu xương máu và tài nguyên, chỉ để đỡ đạn cho Trung Cộng trở thành cường quốc hầu quay lại nuốt chửng Việt Nam! «Đại thắng lợi vinh quang», hay khúc ruột thừa mưng mủ?

 

PHẠM TRỌNG LUẬT

tháng 3-2005

(Nguồn HỢP LƯU 82)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 41573)
Q ua một loạt truyện gởi đến độc giả Hợp Lưu gần như liêu trai và siêu thực, Uyên Lê tâm sự: “ Em chỉ thích viết về quê hương này, về Việt nam, có những điều đẹp như hoang đường ... Chỉ có yêu thật lòng người ta mới thấy cái đẹp của người mình yêu. Em viết về Phan Thiết và nước mắm rất nhiều, em cho đó là cái đẹp và tình! Em cũng viết nhiều về Huế… em không biết HL có thích chất tự tình quê hương đó của em không…” Chúng tôi xin gởi đến quí bạn đọc một bài viết về Phan Thiết của tác giả Uyên Lê.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 68841)
R ồi đến cuộc sụp đổ của miền Nam mùa Xuân 1975 và nhiệm kỳ Tổng thống vừa tròn 40 tiếng đồng hồ của Tướng Minh. Lệnh buông súng đầu hàng của Tướng Minh sáng ngày 30/4/1975 khiến nhiều người, vốn chẳng biết nhiều về những diễn biến tại hậu trường sân khấu chính trị, trút mọi trách nhiệm việc “ mất nước ” (sic) lên đầu ông “ hàng Tướng ” này. [Những lời thở than, khóc lóc “ mất nước ” cũng chẳng khác gì việc đồng hoá một chế độ chính trị với “ Tổ Quốc ” trên trình độ hiểu biết chữ Việt!]
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 45979)
C hỉ còn một góc phố Và một ngã tư chơ vơ không người chờ đợi Em đi qua hôm nào anh đâu biết Một nửa tình buồn lạc nhịp ngoài đêm
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 38664)
Đ ồng hồ cũng dừng lại đối với những người phải bỏ nước ra đi, sau khi ông Trần Mai Hạnh và bạn bè của ông vào Sài Gòn. Họ ra đi từng đợt: đợt di tản, đợt thuyền nhân, đợt đoàn tụ gia đình, đợt H.Ọ Mỗi đợt ra đi mang theo một loại quê hương, và trong hoài niệm, không ai muốn thay đổi hình ảnh thân yêu ấy. Bạn bè, nhà cửa, phố xá, tên đường tên đất, cả đến ngôn ngữ trao đổi thường ngày...giống như một cuốn phim đột ngột bị đứt, ngưng lại, thành tĩnh vật.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 44324)
T hế kỷ chúng tôi trót buồn trong mắt Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư. {Bây giờ} Qua hai câu thơ đó Nguyên Sa đã diễn tả tâm trạng của thế hệ ông, thế hệ của những người trai trẻ ở miền Nam thời 1954-75, đã nuôi nhiều kỳ vọng cho tương lai đất nước, nhưng chẳng bao lâu đầy tuyệt vọng trong một quê hương khói lửa.
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 43094)
T ôi mãi bước trên con đường uốn cong chữ S móc nhau nối xích lại gần để biến dạng một hình lưỡi câu đu đưa trước cuống họng khát giữa tiếng rền than
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 42597)
LTS: Một năm rưỡi trước khi từ trần, tướng Trần Độ đã hoàn thành một tập nhật ký mà ông đặt tên là Nhật Ký Rồng Rắn: bắt đầu từ cuối năm 2000, viết xong tháng 5 năm 2001. Nhật ký Rồng Rắn là một bút ký chính trị trong đó, với tất cả tâm huyết, tác giả trình bày suy nghĩ của mình về các vấn đề chính trị của đất nước. Tháng 6.2001, Trần Độ vào Sàigòn thăm con và nhờ người đánh máy bản thảo. Ngày 10.6, ông đi lấy bản thảo, bản vi tính và sao chụp thành 15 bản. Trên đường về nhà, ông bị tịch thu toàn bộ các bản thảo và bản in chụp, xem là "tang chứng" của tội "viết và lưu hành tài liệu xấu". Cho đến ngày từ trần 9.8.2002, tướng Trần Độ không được trả lại nhật ký của mình. Trích đoạn dưới đây là một phần của nhật ký này. {theo tạp chí Diễn Đàn}.
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 40593)
Đ ại văn hào Gabriel Garcia Márquez, tác giả cuốn tiểu thuyết danh tiếng “One Hundred Years of Solitude” và là người đã đoạt giải Văn Chương Nobel năm 1982, đã qua đời ngày 17 tháng 4 vừa qua, hưởng thọ 87 tuổi.
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 39826)
K hi em vừa lên 7 tuổi, anh Hai anh Ba tròn 15 tuổi, nghề trầu cau Nam Phổ hầu như suy tàn, đã qua thời kỳ cực thịnh. Vườn cau xưa san sát nhau vắt vẻo nhìn trời xanh đã thưa thớt, hàng cau già khẳng khiu trong gió. Cảnh thương lái thu mua tấp nập vào mùa cau rộ chỉ còn lại trong những câu chuyện kể chen lẫn tiếng chắt lưỡi thở dài như thạch sùng đeo dính thân cau của vú Mười hàng đêm.
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37242)
Đ ặng Mỹ Hạnh là một nữ nhiếp ảnh gia của những “Xứ sở rừng mưa” như tựa một bút ký của cô. Nếu nhiếp ảnh là đam mê chính, văn chương là đam mê thứ nhì mà cô tự định nghĩa: "Tiếp cận với nghệ thuật bằng ngữ ảnh của cảm xúc và viết ra cõi lặng bên trong như một nhu cầu thở." Một cõi lặng đôi khi ngấm ngầm dữ dội, như tùy bút "Những cơn man dại của trái phá".