- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

HIỆN TƯỢNG VÈ HÓA, VĂN XUÔI HÓA VÀ CŨ HÓA THƠ… CẦN BÁO ĐỘNG

07 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 106148)

 
nguyentrongtao
 Nguyễn Trọng Tạo


Khi đánh giá về ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tác giả đã đẩy ngôn ngữ bình dân lên ngôn ngữ bác học. Nhận định này đã gián tiếp phân cấp ngôn ngữ ca dao hò vè với ngôn ngữ thơ. Tức là thơ cao hơn ca dao bình dân. Đó là một điểm rất đáng chú ý trong việc phân biệt thơ với các thể loại văn vần hay văn xuôi, từ, phú mà dân gian vẫn thường sử dụng. Như ta đều biết, thơ được xây dựng bằng một thứ “ngôn ngữ lạ hóa” mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc còn gọi là “ngôn ngữ quái đản” đã phát triển ở giai đoạn cao, chứa đựng các đặc tính không thể thiếu, đó là nhạc điệu, truyền cảm, hàm súc và giàu tính biểu tượng.


Nhưng thời đại thông tin công nghệ phát triển hiện nay, sự ngộ nhận về thơ xuất hiện nhan nhản trên thế giới ảo (và cả trên những bản in giấy), không những ít được các nhà phê bình chỉ ra bản chất thật giả của thơ mà còn được các cư dân mạng kém hiểu biết về nghệ thuật này tung hứng chia sẻ không tiếc lời. Chính vì thế mà sự ngộ nhận về thơ ngày càng gia tăng hơn bao giờ hết.


Một nguy cơ nữa là thị hiếu độc giả thơ ngày càng ngả dần về nhu cầu giải trí, ngại đọc loại thơ cao siêu bác học mà ưa thích một tinh thần ngộ nghĩnh đùa tếu kiểu dân gian, nên các loại thơ-vè phát triển rầm rộ như nấm sau mưa. Ta dễ dàng nhận thấy nhiều bài thơ-vè được truyền tụng và được đón nhận vô cùng nồng nhiệt:


Xưa kia da sắt mình đồng

Nói năng hoa mỹ, như rồng phun mưa
Bây giờ như cải muối dưa
Bao nhiêu thần dược vẫn chưa ngóc đầu
Cuộc đời chìm nổi bể dâu
Từ “oanh” đến “liệt” gần nhau thôi mà
Nay mai về với ông bà
Ngồi sau nải chuối ngắm gà khỏa thân! 


Hoặc:


Sáu mươi là tuổi dậy thì

Bảy mươi là tuổi bước đi vào đời
Tám mươi là tuổi ăn chơi
Chín mươi tuổi mới ngước trời xem sao
Một trăm tuổi vẫy tay chào
Các em ở lại, anh vào website…


Phải nói, những bài thơ-vè đùa tếu như thế là khá xuất sắc. Nhưng phải chăng đó là thơ? Có lẽ những người làm thơ, hay người yêu thơ đích thực không ai nghĩ thơ là như thế. Đó là một hiện tượng xâm thực thơ, đi ngược lại sự phát triển của nghệ thuật thơ. Dưới đây, tôi xin đơn cử một số hiện tượng xâm thực thơ cần báo động trong nền thơ của chúng ta hiện nay.


1. HIỆN TƯỢNG “VÈ HÓA THƠ”

Có lẽ “trường phái thơ Bút Tre” đã tạo được hiệu quả mạnh mẽ vài ba chục năm nay. Tôi còn nhớ năm 1984 đi cùng nhạc sĩ Văn Cao qua Vĩnh Phúc gặp nhà thơ Bút Tre, Nguyễn Thụy Kha nói “trường phái Bút Tre địch được trường phái Bùi Giáng trong nam”. Nay nhìn lại thì thấy trường phái Bút Tre không những “địch đươc” mà còn đang thắng thế. Thật vậy, làng thơ hôm nay không chỉ có Bút Tre mà còn có cả Hậu Bút Tre: Bút Tre Trẻ, Bút Tre Xanh, Bút Tre Non, Bút Nứa, Bút Sậy, Bút Luồng, v.v…Trường phái này được nồng nhiệt đón nhận và ca ngợi không tiếc lời:


Tham quan, du lịch, nghỉ hè

Thơ văn trường phái Bút Tre đứng đầu.


Và khẳng định:


Bao nhiêu Bút Sắt mòn rồi

Hôm nay còn mãi với đời Bút Tre…


Vẫn biết văn học dân gian vô cùng đa dạng và thông mình, hóm hỉnh, nhưng văn học dân gian và văn học viết là hai phạm trù khác nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Dù có tạo ra những ảnh hưởng không dễ phân biệt, nhưng không bao giờ chúng chồng khít lên nhau. Bởi văn học dân gian sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ “thực dụng”, còn văn học viết sử dụng ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện trong văn xuôi, hay ngôn ngữ “lạ hóa” trong thơ.


Điều dễ thấy hiện nay là ngôn ngữ thực dụng đang lấn át, xâm thực thơ không thương tiếc, nó hăm hở biến thơ thành hò vè hay văn xuôi có vần.


Nhà chị công nhân

Nửa tôn nửa ngói

Nhà mẹ anh hùng

Nghĩa tình xây mới…


Những loại thơ như thế, nó kéo thơ xuống với ngôn ngữ quần chúng bình dân mà hơn nửa thế kỷ trước các nhà thơ đã thi đua “lột mình” phục vụ đại chúng, để rồi sau đó nhiều người thức tỉnh với nhóm “nhân văn giai phẩm” nhằm làm một cuộc cách mạng thơ… bất thành vì những định kiến chính trị. Riêng điều này thì nhóm Sáng Tạo ở Sài Gòn lại sớm nhận ra, và họ cũng đã có một số đóng góp nhất định để đẩy lùi dần ngôn ngữ thơ thực dụng nhan nhản một thời. Đó là sự trả giá cho những non nớt trong quan niệm nghệ thuật phục vụ chính trị theo hướng đại chúng.


Ngày nay, những người thơ đích thực không còn ấu trĩ như xưa, nhưng chính đời sống dồn nén của kinh tế thị trường nửa mùa đã khiến đại bộ phận công chúng lơ là thơ phú, và thị hiếu của họ bị bào mòn, chai cứng với thơ, nảy ra nhu cầu giải trí “mì ăn liền”, khiến không ít nhà thơ hạ mình mua tiếng vỗ tay giá rẻ. Còn những “nhà thơ nghiệp dư” viết thơ theo cảm tính thì ngộ nhận giữa thơ và vè, cũng góp một phần không nhỏ vào công cuộc “vè hóa thơ” trên khắp thi đàn. Vì thế mà cánh đồng thơ cỏ nhiều hơn lúa, cỏ lấn át lúa, cỏ đè bẹp lúa để mang về cho thơ một mùa thơ-vè cỏ dại… Tôi có thể dẫn ra nhiều bài thơ-vè, nhiều tập thơ-vè… nhưng có thể không dẫn ra thì nhiều người cũng đã biết. Vấn đề quan trọng là chúng ta, cả người làm thơ và người đọc thơ phải ý thức sâu sắc rằng, nguy cơ “vè hóa thơ” đã và đang diễn ra với một cường độ mạnh, cực mạnh rất đáng báo động.


2. HIỆN TƯỢNG “VĂN XUÔI HÓA THƠ”

Không kể thời tiền sử sáng tạo ra lối kể chuyện thơ, thì thơ văn xuôi đã xuất hiện từ thế kỷ XIX ở phương Tây. Mãi đến cuối thế kỷ XX, câu chuyện thơ văn xuôi vẫn còn được tranh cãi nảy lửa. Theo một ý kiến được ủng hộ của Jean Claude thì “Bài thơ văn xuôi được cô đúc bởi đối tượng hỗn hợp và bất xác tín của ngôn ngữ thơ, trong khi đó, văn xuôi biến đổi đối tượng tiềm tàng (cô đúc) của nó để đặt nó vào cái thực tại hỗn hợp. Thơ xóa sạch mọi dấu vết hay dấu mốc nhận dạng, trong khi văn xuôi, ngược lại, nhân chúng lên gấp bội, bắt ốc vít bù loong chúng vào nhau thật chắc”. Nghe có vẻ phức tạp thế, nhưng cũng không khó hiểu, bởi thơ có đặc trưng của thơ và văn xuôi có đặc trưng của văn xuôi. Phân biệt các lãnh địa này, nhà ngôn ngữ Nguyễn Phan Cảnh cũng viết: "Tạo hình chủ yếu là vương quốc của văn xuôi nhưng có một khoảng trời giành riêng cho sử thi và thơ ứng dụng, còn biểu hiện, trước hết là lãnh địa của thơ nhưng lại cắt một phần đất cho văn xuôi trữ tình".


Tôi đồ rằng nhiều nhà thơ “hiện đại” của ta chưa hiểu thấu điều đó, nhưng đã vội vàng nhảy vào thơ văn xuôi với những trường phái tân hình thức, hậu hiện đại của Tây của Mỹ nên đã mang đến một hậu họa cho thơ mà lại ngộ nhận rằng, mình đang song hành cùng thơ đỉnh cao thế giới. Tôi đã đọc nhiều thơ văn xuôi của các nhà thơ ta cả trẻ lẫn già, và tôi thử nối lại các xuống dòng, thì thấy hầu hết đều là văn xuôi chứ không phải thơ, thậm chí lại còn lủng củng hơn cả văn xuôi. Ví dụ một đoạn thơ, tình cờ tôi mở ra trên bàn viết: “Anh bế em lên như bế cả con sông Hồng phù sa trần truồng tràn ra biển lớn một mùa màng phì nhiêu còng bóng mẹ gieo gặt. Những vì sao thiên hà rơi đầy mắt em mắt anh ướt lòe ánh sáng xua bóng đêm đè xuống vai ta rần rần châu thổ. Anh đi đây những thiên hà đang vẫy gọi anh…”.


Với lối nói ngoa ngôn mê sảng như vậy, nhà thơ có thể giết chết cả ngàn trang giấy mà chả biết để làm gì. Nhiều nhà thơ trẻ, nhà thơ già cũng đã được phủ dụ, ru ngủ bằng những trang văn xuôi như vậy mà tưởng mình là tiên phong thi sĩ . Ở đây phải tỉnh táo mà nhận ra rằng, văn xuôi đang xâm thực thơ vô tội vạ. Đó chính là hành động “văn xuôi hóa thơ” hiệu quả nhất.


Không ai bắt mọi nhà thơ Việt đều phải viết thơ lục bát, dù lục bát là một thể thơ đã thấm vào hồn cốt dân tộc Việt. Nhưng làm được một câu thơ lục bát cho đúng vần đúng điệu đối với một số nhà thơ là không phải dễ, chứ chưa nói đến việc làm một câu lục bát hay để đời. Ngược lại, không phải nhà thơ nào cũng làm được thơ văn xuôi hiện đại, hậu hiện đại ngoa ngôn mê sảng như không ít người thiêu thân vào loại thơ này trên thi đàn nhân danh cách tân đổi mới. Nói vậy, tôi không nhằm phán xét những bài thơ văn xuôi hay hay dở, mà muốn cùng các nhà thơ nhận chân bản chất của thơ dù nó thuộc trường phái nào, cổ điển hay hậu cổ điển, hiện đại hay hậu hiện đại; đồng thời cũng báo động cho những ai đang đeo đuổi loại hình thơ văn xuôi hãy cảnh giác với sự dễ dãi, phô trương hình thức. Thực ra các thể loại, các trường phái không có tội, mà tội lớn là sự thiếu hiểu biết, sự ngộ nhận non nớt của nhà thơ trước ma trận của cái mới luôn mai phục ở phía trước.


3. HIỆN TƯỢNG “CŨ HÓA THƠ”

Năm 1990, trong một cuộc trò chuyện tâm đắc với nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến về thơ, anh có một nhận định vô cùng bất ngờ thú vị đối với tôi: "Thơ trước hết phải mang tới một cái gì khác cổ điển (trước nó), nhưng chỉ có khác thì khó đọc, mà chỉ có cổ điển thì đọc thấy nó tẻ. Thơ nào đọc thấy khang khác mà vẫn phảng phất cổ điển thì đấy là thơ đích thực mang tới giá trị mới. Nhưng cái khác ở thơ thật khó giải thích rõ ràng, có khi người ta chỉ cảm được nó mà thôi”.


Tôi nghĩ, nhận định của anh Hoàng Ngọc Hiến là rất thận trọng và mới mẻ. Giới ghiên cứu, phê bình chưa thấy ai nói thế. Người làm thơ chắc cũng ý thức mơ hồ về điều đó, nhưng đến khi nghe anh Hiến nói thì mới ngẫm lại mình, và thấy đó là một nhận định thật sáng giá.


Có một thực tế là những nhà thơ cách tân thường chạy theo cái mới, cái lạ, cái độc đáo chưa từng có, như muốn cắt đứt với quá khứ. Nhưng nghệ thuật lại có ký ức của nó. Ngay cả khi anh muốn làm một cuộc bạo động chữ thì cũng không thể cắt đứt với ký ức ngôn ngữ của chính nó. Còn khi anh đã cắt đứt hoàn toàn với ký ức nghệ thuật thì chính anh sẽ rơi vào khoảng chân không, xa rời ký ức của con người, và như vậy thì chỉ tạo ra những tác phẩm hoàn toàn xa lạ với cuộc sống. Đó chính là sự thất bại mà nhiều nhà cách tân cực đoan đã mắc phải.


Ngược lại, nhiều nhà thơ lại chỉ viết theo bản năng mà ít chú trọng đến sự nghiền ngẫm về văn hóa thơ quá khứ và hiện tại của nhân loại, nên cái anh tưởng là mới lạ lại hóa ra thành cũ kỹ đến sáo mòn. Đó là căn bệnh phổ biến của thơ ta gần đây. Nhan nhản những tập thơ vô thưởng vô phạt xuất hiện trong các giải thưởng, trên quầy sách, trên bàn thờ tổ tiên hay trên những trang mạng cá nhân. Đó là thứ thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, tưởng như vừa khai quật trong bãi thải của quên lãng. Có người biết điều đó, và họ khẳng định họ không làm thơ mà chỉ ghi lại những cảm xúc cá nhân, in ra làm kỷ niệm. Nhưng cũng không ít người say mê với nó và tưởng mình không thua gì Nguyễn Bính, Xuân Hương khi được một số độc giả khen vuốt ve trên mạng ảo…Đối tượng này nhiều vô kể, thậm chí có thể che lấp cả những giá trị thơ đích thực không phải lúc nào cũng có. Đây cũng là nguyên nhân xói mòn giá trị của thơ, khi nó trở thành hiện tượng “cũ hóa thơ”.


Tóm lại, những hiện tượng xâm thực thơ như đã kể trên là hoàn toàn có thật, nó đang diễn ra hàng ngày chung quanh ta. Đó là những hiện tượng ăn lấn, xói mòn và hủy hoại sự phát triển của thơ trong một thời đại mà “người người làm thơ, nhà nhà làm thơ” rầm rộ khắp hang cùng ngõ hẻm. Để thay cho lời kết, tôi xin dẫn hai câu lục bát của “Hậu Bút Tre” Bảo Sinh, cũng là tâm trạng của tôi khi viết bài này:


Đêm nằm nghĩ mãi không ra

Tại sao thằng ấy lại là nhà thơ?


NGUYỄN TRỌNG TẠO

Hà Nội, 9.2011

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Tư 20244:07 CH(Xem: 9364)
On the evening of December 21, 1946, the Bach Mai radio resumed its operations somewhere in the province of Ha Dong after a day of silence. One of its broadcasts was Ho Chi Minh’s appeal to the Viets for a war of resistance. He reportedly said: The gang of French colonialists is aiming to reconquer our country. The hour is grave. Let us stand up and unify ourselves, regardless of ideologies, ethnicities [or] religions. You should fight by all means at your disposal. You have to fight with your guns, your pickaxes, your shovels [or] your sticks. You have to save the independence and territorial integrity of our country. The final victory will be ours. Long live independent and indivisible Viet Nam. Long live democracy.
09 Tháng Giêng 202511:36 SA(Xem: 1061)
Tháng 5 năm 1990, chúng tôi sang Quận Cam, nhà văn Mai Thảo dẫn đến thăm và giới thiệu với một họa sĩ, mà chúng tôi chưa quen: Khánh Trường. Mai Thảo cho biết Khánh Trường dự định ra một tập san văn học, đăng những tác phẩm ở trong và ngoài nước, và cần được giúp đỡ. Đó chính là Mai Thảo: ông ghét cộng sản, vì cái chết của Vũ Hoàng Chương và bản thân ông bị truy lùng trong gần hai năm, trước khi vượt biển, thoát. Ông không đọc tác phẩm trong nước, nhưng «đứa nào» làm chuyện hòa giải, giao lưu, ông ủng hộ; «đứa nào» bị đánh, ông tận tình bênh vực và giúp đỡ. Ở Mai Thảo là hai chữ Tự do đúng nghiã mà nhiều người Việt không hiểu, dù họ sang Mỹ để tìm «tự do». Bên cạnh Mai Thảo, Nhật Tiến cũng công khai ủng hộ Khánh Trường. Lập trường giao lưu của Nhật Tiến ai cũng rõ. Đó là hai nhà văn đàn anh, đứng đằng sau Hợp Lưu, trụ đỡ Khánh Trường trong những ngày sóng gió. Phía chống Hợp Lưu, cũng không thiếu những cây đa cây đề. Mai Thảo sang Paris cùng với Khánh Trường, để ra mắt Hợp Lưu số 1.
07 Tháng Giêng 202510:28 CH(Xem: 783)
Anh với tình quên cả rừng thơ / Dỗ trái tim trở chứng dại khờ / Tập ảnh cũ nụ cười ở lại / Con đường về xốc nổi lời ca
07 Tháng Giêng 20259:23 CH(Xem: 932)
đưa em qua ngõ phù vân / kịp mùa xuân chạm đến gần nở hoa / anh đi mang nặng tính nhà / gởi theo hương tóc phồn hoa giữa trời /
07 Tháng Giêng 20259:15 CH(Xem: 921)
không hẳn là nhớ, không hẳn thương / chỉ một chút vấn vương / những mảnh rời rạc của giấc mơ rất ngắn / không phải Hồ Gươm hay cầu Thê Húc / nhưng là con đường dốc đưa lên đỉnh Phượng Hoàng / mây trắng và cơm lam / tiếng cười cao và trăng hoa đáy mắt /
07 Tháng Giêng 20258:42 CH(Xem: 570)
Nắng ươm cánh mai vàng lên mùa tươi mới / những cánh én mang tới niềm vui mùa Xuân / vườn xanh muôn hoa đơm mật ngọt / mê mẩn bướm, ong lơi lả hương ngần /
06 Tháng Giêng 202510:10 CH(Xem: 802)
Mười lăm năm trước, vào cuối mùa thu, tôi có chuyến đi đến sa mạc Sahara ở Maroc. Tôi đã mang trong mình "cảm giác sa mạc" trước và trong khi viết tập thơ SA MAC (1975). Sau khi lấy bằng Tiến Sĩ Kỹ Sư Dr.-Ing. tại Viện Đại học Kỹ Thuật Stuttgart, tôi đã có một chuyến đi dài ngày xuyên nước Mỹ vào năm 1977 để xem liệu mình có thể định cư, làm việc và sinh sống ở đó hay không. Trong suốt hành trình dài xuyên Bắc Mỹ, cảm giác về cuộc sống sa mạc dần dần mạnh mẽ hơn trong tôi.Tôi trở về Đức, nơi tôi sống và học tập từ năm 1967. Tôi sống từ đó cho đến ngày nay (2025). Tôi bắt đầu làm quen với triết học và âm nhạc Đức từ rất sớm, khi mới 16-17 tuổi. Trên thực tế, Heidegger và Bach là lý do khiến tôi học ở Đức chứ không phải ở Pháp, Anh hay Mỹ...
06 Tháng Giêng 20252:41 SA(Xem: 865)
Nhớ anh đi lạc trong Thung Mây / Làm sao ra thoát khỏi anh đây / Sương mù dày đặc trong tâm thức / Rượu cần không uống mà em say
03 Tháng Giêng 20256:27 CH(Xem: 537)
Yosano Akiko (1878-1942) là nhà thơ, nhà cải cách xã hội và nhà nữ quyền tiên phong Nhật Bản. Bà được ngưỡng mộ như là nữ thi sĩ lớn nhất nhưng gây tranh cãi nhất của Nhật Bản thời hiện đại. Bà đóng góp một phần lớn trong việc cải cách thể thơ tanka phổ biến với lịch sử trên 12 thế kỷ thành một thể thơ hiện đại. Những bài thơ dưới đây là từ tuyển tập thơ “Tóc Rối” (Midaregami) qua bản dịch tiếng Anh của Roger Pulvers. Đây là tập thơ đầu tiên và cũng nổi tiếng nhất của bà được xuất bản năm 1901 khi bà mới 23 tuổi và nó gây một chấn động văn hóa lớn.
03 Tháng Giêng 20253:32 CH(Xem: 1032)
Hoang vu rất mực áo dài / Lên núi ngồi thở tóc mai bệt hồng / Nàng chưa từng thấy sương không / Hồn tôi mộ địa đã thông suốt trời / Chuông đồng lệch tiếng kinh rơi /