Nguyễn Trọng Tạo
Khi đánh giá về ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tác giả đã đẩy ngôn ngữ bình dân lên ngôn ngữ bác học. Nhận định này đã gián tiếp phân cấp ngôn ngữ ca dao hò vè với ngôn ngữ thơ. Tức là thơ cao hơn ca dao bình dân. Đó là một điểm rất đáng chú ý trong việc phân biệt thơ với các thể loại văn vần hay văn xuôi, từ, phú mà dân gian vẫn thường sử dụng. Như ta đều biết, thơ được xây dựng bằng một thứ “ngôn ngữ lạ hóa” mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc còn gọi là “ngôn ngữ quái đản” đã phát triển ở giai đoạn cao, chứa đựng các đặc tính không thể thiếu, đó là nhạc điệu, truyền cảm, hàm súc và giàu tính biểu tượng.
Nhưng thời đại thông tin công nghệ phát triển hiện nay, sự ngộ nhận về thơ xuất
hiện nhan nhản trên thế giới ảo (và cả trên những bản in giấy), không những ít
được các nhà phê bình chỉ ra bản chất thật giả của thơ mà còn được các cư dân
mạng kém hiểu biết về nghệ thuật này tung hứng chia sẻ không tiếc lời. Chính vì
thế mà sự ngộ nhận về thơ ngày càng gia tăng hơn bao giờ hết.
Một nguy cơ nữa là thị hiếu độc giả thơ ngày càng ngả dần về nhu cầu giải trí,
ngại đọc loại thơ cao siêu bác học mà ưa thích một tinh thần ngộ nghĩnh đùa tếu
kiểu dân gian, nên các loại thơ-vè phát triển rầm rộ như nấm sau mưa. Ta dễ
dàng nhận thấy nhiều bài thơ-vè được truyền tụng và được đón nhận vô cùng nồng
nhiệt:
Xưa kia da sắt mình đồng
Nói năng hoa mỹ, như rồng phun mưa
Bây giờ như cải muối dưa
Bao nhiêu thần dược vẫn chưa ngóc đầu
Cuộc đời chìm nổi bể dâu
Từ “oanh” đến “liệt” gần nhau thôi mà
Nay mai về với ông bà
Ngồi sau nải chuối ngắm gà khỏa thân!
Hoặc:
Sáu mươi là tuổi dậy thì
Bảy mươi là tuổi bước đi vào đời
Tám mươi là tuổi ăn chơi
Chín mươi tuổi mới ngước trời xem sao
Một trăm tuổi vẫy tay chào
Các em ở lại, anh vào website…
Phải nói, những bài thơ-vè đùa tếu như thế là khá xuất sắc. Nhưng phải chăng đó
là thơ? Có lẽ những người làm thơ, hay người yêu thơ đích thực không ai nghĩ thơ
là như thế. Đó là một hiện tượng xâm thực thơ, đi ngược lại sự phát triển của
nghệ thuật thơ. Dưới đây, tôi xin đơn cử một số hiện tượng xâm thực thơ cần báo
động trong nền thơ của chúng ta hiện nay.
1. HIỆN TƯỢNG “VÈ HÓA THƠ”
Có lẽ “trường phái thơ Bút Tre” đã tạo được hiệu quả mạnh mẽ vài ba chục năm nay. Tôi còn nhớ năm 1984 đi cùng nhạc sĩ Văn Cao qua Vĩnh Phúc gặp nhà thơ Bút Tre, Nguyễn Thụy Kha nói “trường phái Bút Tre địch được trường phái Bùi Giáng trong nam”. Nay nhìn lại thì thấy trường phái Bút Tre không những “địch đươc” mà còn đang thắng thế. Thật vậy, làng thơ hôm nay không chỉ có Bút Tre mà còn có cả Hậu Bút Tre: Bút Tre Trẻ, Bút Tre Xanh, Bút Tre Non, Bút Nứa, Bút Sậy, Bút Luồng, v.v…Trường phái này được nồng nhiệt đón nhận và ca ngợi không tiếc lời:
Tham quan, du lịch, nghỉ hè
Thơ văn trường phái Bút Tre đứng đầu.
Và khẳng định:
Bao nhiêu Bút Sắt mòn rồi
Hôm nay còn mãi với đời Bút Tre…
Vẫn biết văn học dân gian vô cùng đa dạng và thông mình, hóm hỉnh, nhưng văn
học dân gian và văn học viết là hai phạm trù khác nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Dù
có tạo ra những ảnh hưởng không dễ phân biệt, nhưng không bao giờ chúng chồng
khít lên nhau. Bởi văn học dân gian sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ “thực dụng”,
còn văn học viết sử dụng ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện trong văn xuôi, hay ngôn
ngữ “lạ hóa” trong thơ.
Điều dễ thấy hiện nay là ngôn ngữ thực dụng đang lấn át, xâm thực thơ không
thương tiếc, nó hăm hở biến thơ thành hò vè hay văn xuôi có vần.
Nhà chị công nhân
Nửa tôn nửa ngói
Nhà mẹ anh hùng
Nghĩa tình xây mới…
Những loại thơ như thế, nó kéo thơ xuống với ngôn ngữ quần chúng bình dân mà
hơn nửa thế kỷ trước các nhà thơ đã thi đua “lột mình” phục vụ đại chúng, để
rồi sau đó nhiều người thức tỉnh với nhóm “nhân văn giai phẩm” nhằm làm một
cuộc cách mạng thơ… bất thành vì những định kiến chính trị. Riêng điều này thì
nhóm Sáng Tạo ở Sài Gòn lại sớm nhận ra, và họ cũng đã có một số đóng góp nhất
định để đẩy lùi dần ngôn ngữ thơ thực dụng nhan nhản một thời. Đó là sự trả giá
cho những non nớt trong quan niệm nghệ thuật phục vụ chính trị theo hướng đại
chúng.
Ngày nay, những người thơ đích thực không còn ấu trĩ như xưa, nhưng chính đời
sống dồn nén của kinh tế thị trường nửa mùa đã khiến đại bộ phận công chúng lơ
là thơ phú, và thị hiếu của họ bị bào mòn, chai cứng với thơ, nảy ra nhu cầu
giải trí “mì ăn liền”, khiến không ít nhà thơ hạ mình mua tiếng vỗ tay giá rẻ.
Còn những “nhà thơ nghiệp dư” viết thơ theo cảm tính thì ngộ nhận giữa thơ và
vè, cũng góp một phần không nhỏ vào công cuộc “vè hóa thơ” trên khắp thi đàn. Vì
thế mà cánh đồng thơ cỏ nhiều hơn lúa, cỏ lấn át lúa, cỏ đè bẹp lúa để mang về
cho thơ một mùa thơ-vè cỏ dại… Tôi có thể dẫn ra nhiều bài thơ-vè, nhiều tập
thơ-vè… nhưng có thể không dẫn ra thì nhiều người cũng đã biết. Vấn đề quan
trọng là chúng ta, cả người làm thơ và người đọc thơ phải ý thức sâu sắc rằng,
nguy cơ “vè hóa thơ” đã và đang diễn ra với một cường độ mạnh, cực mạnh rất đáng
báo động.
2. HIỆN TƯỢNG “VĂN XUÔI HÓA THƠ”
Không kể thời tiền sử sáng tạo ra lối kể chuyện thơ, thì thơ văn xuôi đã xuất hiện từ thế kỷ XIX ở phương Tây. Mãi đến cuối thế kỷ XX, câu chuyện thơ văn xuôi vẫn còn được tranh cãi nảy lửa. Theo một ý kiến được ủng hộ của Jean Claude thì “Bài thơ văn xuôi được cô đúc bởi đối tượng hỗn hợp và bất xác tín của ngôn ngữ thơ, trong khi đó, văn xuôi biến đổi đối tượng tiềm tàng (cô đúc) của nó để đặt nó vào cái thực tại hỗn hợp. Thơ xóa sạch mọi dấu vết hay dấu mốc nhận dạng, trong khi văn xuôi, ngược lại, nhân chúng lên gấp bội, bắt ốc vít bù loong chúng vào nhau thật chắc”. Nghe có vẻ phức tạp thế, nhưng cũng không khó hiểu, bởi thơ có đặc trưng của thơ và văn xuôi có đặc trưng của văn xuôi. Phân biệt các lãnh địa này, nhà ngôn ngữ Nguyễn Phan Cảnh cũng viết: "Tạo hình chủ yếu là vương quốc của văn xuôi nhưng có một khoảng trời giành riêng cho sử thi và thơ ứng dụng, còn biểu hiện, trước hết là lãnh địa của thơ nhưng lại cắt một phần đất cho văn xuôi trữ tình".
Tôi đồ rằng nhiều nhà thơ “hiện đại” của ta chưa hiểu thấu điều đó, nhưng đã
vội vàng nhảy vào thơ văn xuôi với những trường phái tân hình thức, hậu hiện
đại của Tây của Mỹ nên đã mang đến một hậu họa cho thơ mà lại ngộ nhận rằng,
mình đang song hành cùng thơ đỉnh cao thế giới. Tôi đã đọc nhiều thơ văn xuôi
của các nhà thơ ta cả trẻ lẫn già, và tôi thử nối lại các xuống dòng, thì thấy
hầu hết đều là văn xuôi chứ không phải thơ, thậm chí lại còn lủng củng hơn cả
văn xuôi. Ví dụ một đoạn thơ, tình cờ tôi mở ra trên bàn viết: “Anh bế em lên như bế cả con sông Hồng phù
sa trần truồng tràn ra biển lớn một mùa màng phì nhiêu còng bóng mẹ gieo gặt.
Những vì sao thiên hà rơi đầy mắt em mắt anh ướt lòe ánh sáng xua bóng đêm đè
xuống vai ta rần rần châu thổ. Anh đi đây những thiên hà đang vẫy gọi anh…”.
Với lối nói ngoa ngôn mê sảng như vậy, nhà thơ có thể giết chết cả ngàn trang
giấy mà chả biết để làm gì. Nhiều nhà thơ trẻ, nhà thơ già cũng đã được phủ dụ,
ru ngủ bằng những trang văn xuôi như vậy mà tưởng mình là tiên phong thi sĩ . Ở
đây phải tỉnh táo mà nhận ra rằng, văn xuôi đang xâm thực thơ vô tội vạ. Đó
chính là hành động “văn xuôi hóa thơ” hiệu quả nhất.
Không ai bắt mọi nhà thơ Việt đều phải viết thơ lục bát, dù lục bát là một thể thơ đã thấm vào hồn cốt dân tộc Việt. Nhưng làm được một câu thơ lục bát cho đúng vần đúng điệu đối với một số nhà thơ là không phải dễ, chứ chưa nói đến việc làm một câu lục bát hay để đời. Ngược lại, không phải nhà thơ nào cũng làm được thơ văn xuôi hiện đại, hậu hiện đại ngoa ngôn mê sảng như không ít người thiêu thân vào loại thơ này trên thi đàn nhân danh cách tân đổi mới. Nói vậy, tôi không nhằm phán xét những bài thơ văn xuôi hay hay dở, mà muốn cùng các nhà thơ nhận chân bản chất của thơ dù nó thuộc trường phái nào, cổ điển hay hậu cổ điển, hiện đại hay hậu hiện đại; đồng thời cũng báo động cho những ai đang đeo đuổi loại hình thơ văn xuôi hãy cảnh giác với sự dễ dãi, phô trương hình thức. Thực ra các thể loại, các trường phái không có tội, mà tội lớn là sự thiếu hiểu biết, sự ngộ nhận non nớt của nhà thơ trước ma trận của cái mới luôn mai phục ở phía trước.
3. HIỆN TƯỢNG “CŨ HÓA THƠ”
Năm 1990, trong một cuộc trò chuyện tâm đắc với nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến về thơ, anh có một nhận định vô cùng bất ngờ thú vị đối với tôi: "Thơ trước hết phải mang tới một cái gì khác cổ điển (trước nó), nhưng chỉ có khác thì khó đọc, mà chỉ có cổ điển thì đọc thấy nó tẻ. Thơ nào đọc thấy khang khác mà vẫn phảng phất cổ điển thì đấy là thơ đích thực mang tới giá trị mới. Nhưng cái khác ở thơ thật khó giải thích rõ ràng, có khi người ta chỉ cảm được nó mà thôi”.
Tôi nghĩ, nhận định của anh Hoàng Ngọc Hiến là rất thận trọng và mới mẻ. Giới
ghiên cứu, phê bình chưa thấy ai nói thế. Người làm thơ chắc cũng ý thức mơ hồ
về điều đó, nhưng đến khi nghe anh Hiến nói thì mới ngẫm lại mình, và thấy đó
là một nhận định thật sáng giá.
Có một thực tế là những nhà thơ cách tân thường chạy theo cái mới, cái lạ, cái
độc đáo chưa từng có, như muốn cắt đứt với quá khứ. Nhưng nghệ thuật lại có ký
ức của nó. Ngay cả khi anh muốn làm một cuộc bạo động chữ thì cũng không thể
cắt đứt với ký ức ngôn ngữ của chính nó. Còn khi anh đã cắt đứt hoàn toàn với
ký ức nghệ thuật thì chính anh sẽ rơi vào khoảng chân không, xa rời ký ức của
con người, và như vậy thì chỉ tạo ra những tác phẩm hoàn toàn xa lạ với cuộc
sống. Đó chính là sự thất bại mà nhiều nhà cách tân cực đoan đã mắc phải.
Ngược lại, nhiều nhà thơ lại chỉ viết theo bản năng mà ít chú trọng đến sự
nghiền ngẫm về văn hóa thơ quá khứ và hiện tại của nhân loại, nên cái anh tưởng
là mới lạ lại hóa ra thành cũ kỹ đến sáo mòn. Đó là căn bệnh phổ biến của thơ
ta gần đây. Nhan nhản những tập thơ vô thưởng vô phạt xuất hiện trong các giải
thưởng, trên quầy sách, trên bàn thờ tổ tiên hay trên những trang mạng cá nhân.
Đó là thứ thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, tưởng như vừa khai quật trong bãi
thải của quên lãng. Có người biết điều đó, và họ khẳng định họ không làm thơ mà
chỉ ghi lại những cảm xúc cá nhân, in ra làm kỷ niệm. Nhưng cũng không ít người
say mê với nó và tưởng mình không thua gì Nguyễn Bính, Xuân Hương khi được một số
độc giả khen vuốt ve trên mạng ảo…Đối tượng này nhiều vô kể, thậm chí có thể
che lấp cả những giá trị thơ đích thực không phải lúc nào cũng có. Đây cũng là
nguyên nhân xói mòn giá trị của thơ, khi nó trở thành hiện tượng “cũ hóa thơ”.
Tóm lại, những hiện tượng xâm thực thơ như đã kể trên là hoàn toàn có thật, nó đang diễn ra hàng ngày chung quanh ta. Đó là những hiện tượng ăn lấn, xói mòn và hủy hoại sự phát triển của thơ trong một thời đại mà “người người làm thơ, nhà nhà làm thơ” rầm rộ khắp hang cùng ngõ hẻm. Để thay cho lời kết, tôi xin dẫn hai câu lục bát của “Hậu Bút Tre” Bảo Sinh, cũng là tâm trạng của tôi khi viết bài này:
Đêm nằm nghĩ mãi không ra
Tại sao thằng ấy lại là nhà thơ?
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Hà Nội, 9.2011