- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Đặng Kim Côn Và Những Bài Thơ Tháng 4

04 Tháng Tư 201112:00 SA(Xem: 112430)


vietnam_1974-ap_photo_nick_ut-content
 Việt Nam 1974_ (AP Photo / Nick Ut)


LTS: Đặng Kim Côn lần đầu cộng tác cùng Tạp chí Hợp Lưu, hiện sống và làm việc tại Bắc California.




Những Viên Đạn Cuối Cùng

 

Không còn gọi là vũ khí,

một khẩu colt giữa điệp trùng AK

chỉ còn để yên tâm biết trong tay có bạn

giữa mịt mùng núi rừng

không tìm ra lối đi

 

Để lỡ bị phát hiện

không biết gọi nó là gì

khi chỉ còn dùng để tự sát

 

Để dành, để dành mấy viên đạn cuối cùng

dò dẫm, đi!

 

1975

 

Khiêng Bạn Tù Chuyển Trại

 

Tôi khiêng anh lên dốc,

Đòn nặng hơn tình người

Anh sốt rung trời đất

Đọa đày đành, thế thôi!

 

Thều thào hơi thở mỏng

Dốc lên hoài, dốc cao

Không, không! Tao còn sống

Khoan giùm, đừng quăng tao.

 

Bạn bè đứa ngắc ngoải

Đứa nằm lại mồ sâu

Mong gì đâu, chuyển trại?

Khiêng anh (khiêng đi đâu?)

 

Khiêng hôm qua tới đâu?

Cùm gông hay đáy vực

Từng dấu chân đau nhức

Hằn xuống đời bể dâu.

 

Anh sốt, tôi cũng sốt,

Đom đóm quay ban ngày

Đâu cũng không ngày tháng

Sao không dừng nơi đây?

 

Giá gục bên đường được

Giấc ngàn thu, cũng đành

Gậy run dò dẫm bước

Bóng mây nào bao quanh?

 

Không nghe anh rên nữa,

Đôi chân tôi giờ đâu?

Anh có còn hơi thở?

Lòng đau theo gậy mù.

 

1975

 

Hồng Hoang

 

Có điều gì ở đó

mở giùm đêm tối ra

chằng chịt những ngôn ngữ lạ

hồng hoang nhảy múa khốc liệt, buồn rầu, tanh tưởi,

chung bữa tối nay, sáng dậy không còn!

hỏi nhau

bao giờ đến phiên?

nhẹ nhàng thế thì cũng là can đảm

 

không phải là hy vọng, hy vọng, hy vọng

trùm kín đêm tối, tối đen

nhìn nhau lơ láo mặt mày.

 

mở mắt nhìn buổi sáng

một hai ba bốn năm

hôm qua đến số bao nhiêu nhỉ?

 

1976

 

Cám Ơn Những Con Bò

 

Phải chi đủ những con bò

Ta đâu phải làm chuyện ấy

Con đường nhập kho có khi hằng mươi cây số

Sỏi đá, bùn lầy, ổ gà ổ trâu

Lúa, ngô, khoai sắn, gỗ, đường

Biết về đâu!

Những đồi nương đá sỏi, bom mìn

Đã thành ruộng rẫy

Hoặc đang còn nằm chờ khai hoang

Chắc chi những con bò làm nổi!

 

Mà nếu có đủ những con bò,

Lùa vào đây làm gì đám người bằng này cấp nọ

(Bốc phân, vọc đất có cần đến chữ nghĩa đâu),

Xã hội chỉ còn một màu, đỡ phải canh chừng không phải là hạnh phúc sao

 

Cũng may không đủ những con bò,

Ta còn được nói tiếng cám ơn

Cám ơn những con bò

 

1978

 

Thăm Nuôi

 

Anh đã nợ em

thời gian

hồn

xác

một nửa đời mất mát

một nửa đời nát tan

sao còn bắt anh vay một nửa đời còn lại?

 

Có khi sẽ không thấy anh về

Có khi vác luôn khối nợ đi về phía bên kia

Em không cần đòi nhưng lại buồn, lại khóc

Để anh nặng thêm nợ đời sau

 

Lau nước mắt

Nhìn rõ hình hài hôm nay

Nhớ rõ hôm nay,

Lỡ như có một ngày!

 

Em về đi

Tháng sau

Thôi đừng đến nữa

 

1979

 

Chết Trong Giấc Mơ Ta.

 

Ngoài cồng kia

những con đường ổ gà ổ trâu tảng lờ thinh lặng

đàn chim không dám bay gần mùi tử khí kẽm gai

có những chiếc áo vá chằng vá đụp không dám sắc màu

mỗi ngày thêm một lớp mồ hôi

để ít ra những con bò còn được vừa đi vừa nhìn vào tội nghiệp.

 

Từng luống đất vỡ, từng gốc cây cục đá phải đánh đi

Quên chỗ nằm

Ngàn năm kia là nợ

kẻ vay không bao giờ trả

người phải nợ cứ như những luống cày không đợi nắng mưa.

 

người ra người vào đi qua cổng kiểm soát đếm số phận mình

tính ngày tháng

những hao hụt thịt da, không thể nhặt lại những giọt mồ hôi và những tháng ngày mầu mỡ.

ra vào cũng chỉ là đi,

là tiếp tục đi không phải để về.

 

người bạn gục bên bìa rừng lao động

người bạn chết chân còn bị cùm trong nhà kỷ luật

Ta cũng chết dần trong giấc mơ ta.

 

1979

 

Lốc Đời

 

Bàn chân dã thú

Lội xuống phố người

Cuồn cuộn gió dữ

Xô trời chơi vơi

 

Ngựa khô nước mắt,

Ngựa không im nằm

Bão cuồng quay quắt

Vó câu thét gầm

 

Yên cương hụt hẫng

Lưng đồi cỏ khô

Hí tung bờm lộng

Nan tranh quần hồ!

 

Bên đời quằn quại

Ghì đôi chân đau

Lưng đồi lốc xoáy

Quặn lòng bể dâu

 

1982

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
05 Tháng Mười Một 201112:00 SA(Xem: 101823)
S au nhiều năm bị giam cầm và cả 7 năm quản thúc tại gia, lãnh tụ dân chủ đối lập bà Aung San Suu Kyi được thả ra. Ngay sau đó, từ tháng 8 năm 2011, bà đã mạnh dạn lên tiếng kêu gọi phong trào quần chúng hãy bảo vệ con sông Irrawaddy cùng với yêu cầu phải tái lượng giá ảnh hưởng môi sinh...
05 Tháng Mười Một 201112:00 SA(Xem: 117004)
N hà thờ vắng vẻ. Những hàng ghế trống im lìm. Chúng tôi đứng cạnh nhau sau hàng ghế cuối, tôi bảo nàng nhìn lên tượng Chúa và im lặng. Rất trang trọng, mấy phút sau tôi hỏi nàng, Kim có biết tôi vừa nói gì với Chúa không. Nàng gật đầu, mắt long lanh ướt. Tôi thầm cám ơn Chúa và nắm tay Kim rời nhà thờ. Tôi đã cầu hôn nàng như thế đó.
25 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 91665)
H ợp Lưu 115 đến với quí độc giả và văn hữu vào những ngày cuối tháng Mười khi “Cuộc cách mạnh Mùa Xuân Ả Rập” ở Lybia đã thành công bằng sự ra đi vĩnh viễn của Gaddafi, một tin ngắn của Reuters cho biết: “Ông Gaddafi và con trai đã bị thương, bị bắt sống nhưng sau đó đã chết. Theo truyền thống Hồi giáo, người chết phải chôn cất trong vòng một ngày, nên việc trưng bày xác chết cho người xem trong nhiều ngày đã làm cho nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng […]mọi người và các nhà lãnh đạo Libya đều đến xem xác Gaddafi để rút bài học và đừng bao giờ đàn áp người dân.” Đoạn tin trên khiến cho chúng ta liên tưởng đến nhiều việc...
23 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89153)
C uộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 , trên bối cảnh liên hệ ngày một xấu đi giữa Bộ Ngoại Giao Mỹ và chính phủ Ngô Đình Diệm trong hai năm 1962-1963. Mặc dù chỉ nhấn mạnh vào cuộc tự thiêu bi tráng của Thượng tọa Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963 [...] “Vài Ý Nghĩ Về Thượng Tọa Thích Quảng Đức” công bố lần đầu tiên một số tài liệu văn khố Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa và Phủ Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa, giúp vùi chôn một lần và mãi mãi loại sử văn suy tôn, nhớ ơn và đào mộ. Tạp Chí Hợp Lưu
23 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 105712)
D ưới tiểu tựa Vài Vấn Nạn Lịch Sử Thế Kỷ XX, tác giả đưa ra hai vấn nạn từng bị xuyên tạc trầm trọng bởi các hệ thống tuyên truyền của nhiều hơn vài ba thế lực chính trị. Vấn nạn thứ nhất là vai trò nhà ngoại giao của ông Hồ Chí Minh (1892-1969), Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ 1945 tới 1969, trong giai đoạn 1945-1946, một giai đoạn cực kỳ quan trọng cho sự sống còn của nhà nước Việt Nam hiện nay [...] Vấn nạn thứ hai là cuộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, trên bối cảnh liên hệ ngày một xấu đi giữa Bộ Ngoại Giao Mỹ và chính phủ Ngô Đình Diệm trong hai năm 1962-1963...
16 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89015)
H iệp ước sơ bộ 6/3/1946 [Convention priliminaire de 6 mars 1946] là văn kiện ngoại giao đầu tiên ký giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] với đại diện Cộng Hòa Pháp tại Đông Dương, qua trung gian chính phủ Trùng Khánh. Mặc dù chỉ có tính cách tạm thời, văn kiện này công nhận sự hiện hữu của VNDCCH. Nó chính thức cải biến, nói theo các viên chức Bri-tên và Pháp, một thực thể chính trị “sinh ra trong hỗn loạn” thành một chính phủ lâm thời, của một “nước tự do” [un état libre] “có quốc hội, quân đội, tài chính và ngoại giao riêng,” nằm trong Liên Bang Đông Dương và Khối Liên Hiệp Pháp.( 1)
15 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 101572)
N hạc sĩ Phạm Duy có cái nhìn xuyên suốt, không rào cản so với nhạc sĩ cùng thời. Người lắng nghe giao thoa những tiến triển nền âm nhạc Việt so với thế giới từ những năm 1930 cho đến nay.Từ cái bắt gặp đầu tiên trên bộ đồ bà ba xanh, đôi mắt sáng trên vành tai thính âm tài hoa ấy. Nhạc sĩ Phạm Duy chợt cười, nụ cười nhéo mắt luôn điểm lại con người ấy từng nốt nhạc vượt không gian thời gian. Hồn nhiên Phạm Duy cười nói: : “Tôi có hai con mắt, một con trái mắt tỉnh tảo thực tế với dòng đời. Và mắt phải luôn làm việc sáng tạo.” Cuộc phỏng vấn sau đây ghi lại một vài nét về cuộc đời nhạc sĩ Phạm Duy với thế hệ trẻ tại Việt Nam đang muốn cùng ông bày tỏ tâm sự.
14 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 96601)
T rong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết có bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 89426)
T rần Hoài Thư đến với văn chương rất sớm, sớm hơn truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1965. Và nếu phân chia các giai đoạn văn học miền Nam theo cách của Võ Phiến (xem Văn Học Miền Nam, tập tổng quan, nxb Văn Nghệ, Hoa Kỳ 2000) thì Trần Hoài Thư được xếp vào ( Những Cây Bút Trẻ , theo cách gọi thời đó) giai đoạn 1964-1975 giai đoạn mà chiến cuộc bắt đầu bùng nổ dữ dội.
11 Tháng Mười 201112:00 SA(Xem: 118993)
Đ ó là Tetbury, một thành phố thơ mộng nằm về phía nam Luân Đôn khoảng 200 cây số (?).Tôi chỉ nhớ phải mất ba giờ lái xe để đến nơi. Thành phố nhỏ, những con đường dốc, hẹp. Nhà với mái xuôi nhọn hoắt, nằm liền nhau, phần lớn mở shop bày bán đồ cổ, quán ăn uống, tiệm cà phê.