Tranh Lea Lafugie
1.
Tình đầu của mẹ tôi là ông Dũ, một thầy giáo làng lưu lạc vô Nam từ Ngọc Hà, nói giọng miền Tây rặt địa phương, vừa dạy học vừa kiếm thêm thu nhập bằng nghề buôn đất ruộng. Mẹ tôi tên Lang. Dũ - Lang. Hai ông bà có đứa con gái đầu lòng da đen nhẻm, được đặt tên Lãng Du.
Cái tên định mệnh, Lãng Du có số di dịch tợn. Do ở làng không có trường trung học, hết lớp nhất chị được gửi từ Vàm Mương lên Vĩnh Khúc trọ học nhà cậu Thìn nơi chị bị coi như cháu ghẻ. Được ba năm chịu không xiết bà mợ chì chiết, chị xin cha mẹ chuyển lên Sài Gòn ở đậu gia đình dì Ngọ, gần khu chợ Thái Bình. Giai đoạn này bà chị cùng mẹ khác cha của tôi trải qua nhiều truân chuyên bởi dì Ngọ ác không thua chi mụ Thénardier trong Những Người Khốn Khổ của Victor Hugo. Bao nhiêu là tiền và quà cáp của mẹ tôi từ dưới quê gửi lên cho dì, những mong chị Du được đối xử tử tế, trái lại, y như tiểu thuyết, chị Du bị coi như một con đòi. Ngoài việc phải bồng nách mấy đứa con nhỏ của dì Ngọ đến chai một bên hông, chị còn kiêm thêm việc vặt trong nhà gọi là phụ tá cho bà người làm tên Tươi có cái mặt chửi cái tên vì trớ trêu là nó thường trực bí xị. Do gian trước cách gian sau một khoảng sân nhỏ lại không có nhà vệ sinh nên cả nhà 6 người, không tính bà Tươi và chị Du, đi tiểu đêm trong một cái khạp mà sáng nào chị Du cũng phải cong lưng khuân đổ vô cầu tiêu ở nhà dưới. Cái mùi a-mô-nhắc, theo như chị nói, nó bám vô trong tóc rồi lần vô óc, nín thở vẫn xì ra theo lỗ tai, có khi làm cay mắt nữa! Đã vậy còn bị ông dượng thỉnh thoảng dê một miếng chơi cho vui. Nựng bóp bậy bạ cho đỡ ghiền vậy thôi chứ thương yêu gì, cũng may chưa dám vượt qua vòng lễ giáo của một người chồng rường cột, một người cha bốn con, trong đó một đứa xấp xỉ tuổi chị Du.
Trong khi chị Du bôn ba phố chợ, vừa đi học vừa ở đợ, ở vườn ông Dũ làm ăn thua lỗ thiếu nợ lút đầu, phải bỏ trốn, sẵn tiện bỏ luôn mẹ tôi với cái thai 4 tháng. Vụ phá thai sau đó với sự giúp sức của môt lang băm miệt vườn đã làm mẹ tôi kiệt quệ cả hồn lẫn xác. Thảm kịch này họ hàng chưa ai kịp biết, chị Du lại càng không, do mẹ tôi muốn bảo mật cuộc đào tẩu của ông Dũ lâu được chừng nào hay chừng nấy, một phần cho sự an toàn của ông ta, một phần cho bản thân và đứa con gái nhỏ lưu lạc. Đồ đạc trong nhà bị chủ nợ xiết hết chỉ còn trơ cái chõng nơi mẹ tôi nằm rên hừ hừ chờ ngày qua.
Không nhận được tiền hàng tháng từ mẹ tôi, dì Ngọ đã thực sự coi chị Du như một con ở. Lu bu vậy nên chị học dở ẹc, có cái bằng trung học đệ nhất cấp mà rớt lên rớt xuống không biết mấy năm. Có lần chị giúp bà Tươi viết cái thư tuyệt mệnh để lại cho dì Ngọ trước khi bà ta bỏ trốn; âm mưu bại lộ khiến cả hai bị phang một trận bằng thước bảng tóe máu đầu. Phải công nhận dì Ngọ có kiểu tra tấn dã man. Phang thước bảng từ xa chỉ là bước lung khởi, qua giai đoạn trực khởi, dì tấn phạm nhân vào kẽ hẹp giữa hai tủ đứng chỉ vừa ngám cho một người rồi quất túi bụi bằng cán chổi lông gà. Kẻ chịu tội hết đường tẩu. Sau đó là một bài mo-ran ngũ vị hương. Tại vậy mà có lần đi lấy 5 cái quần tây của ông dượng ở tiệm giặt ủi, bờ chờ bợt chợt thế nào trên đường về làm tuột mất một cái, chị Du sảng hồn không dám về nhà. Chị chui vào một trong những cái cống xi-măng để lăn lóc chỗ công trường xây dựng, ngồi chồm hổm ở đó đến tối. Một tay khư khư 4 cái quần còn lại, một tay chị nắm cục gạch gói kín trong lòng bàn tay, miệng lâm râm khấn xin Trời Phật biến cục gạch thành cái quần tẹc-gan có màu xám tro kích 42, lâu lâu lại hé ra nhìn coi linh nghiệm chưa. Chị thiếp ngủ với cục gạch nóng hổi trong bàn tay nhỏ xíu, cho tới khi có ông cảnh sát đến rọi đèn pin. Mấy chuyện này về sau chị kể đi kể lại cho tôi nghe hoài, mỗi lần thêm thắt một chút, nhưng lần nào cũng làm tôi mê mẩn.
Ông Dũng, một công tử vườn hơi cứng tuổi hưởng gia tài 400 mẫu ruộng từ cha già là Hội Đồng Chánh mới qua đời, đang loay hoay kiếm vợ thì cảm cảnh bơ vơ của mẹ tôi, một người đàn bà hãy còn nhan sắc, với ánh mắt bén mà không ác, hai bạnh cằm chữ điền đầy cương nghị. Chẳng phải ông không bâng khuâng trước các cô thôn nữ môi mắt đưa đẩy, nhưng vốn có chút tây học, ông muốn cuộc hôn nhân của mình chững và có một ý nghĩa nhất định; hơn nữa người đàn bà này biết đọc biết viết, đã có thời giúp chồng ăn nên làm ra, biết đối nhân xử thế, lại nghe đâu trong huyết quản còn lợn cợn chất Bắc kỳ 18 đời ông bành tổ với gốc gác không tệ, chỉ do đời đưa đẩy về ruộng theo chồng. Vào thời điểm này, mẹ tôi được tin mật ông Dũ đã trốn ra Bắc. Vậy mới biết không phải ai đi theo cách mạng cũng đều có lý tưởng.
Dũng - Lang. Rất không lâu sau khi ông Dũ biệt dạng, tôi ra đời mang tên Lãng Dung. Vẫn cái kiểu nói lái, đích thị là món sở trường của mẹ tôi. Chẳng phải bà hay chữ, nhưng thấy tiện dụng, khỏi mất công suy nghĩ. May mà thuận nhĩ. Thử tưởng tượng một cái tên khác, Hùng - Lang. Lung Hàng, Làng Hung, Hang Lùng. Hoặc Cường - Lang. Cang Lường, Lương Càng, Làng Cương. Thật chẳng ra làm sao. Ông Dũng hoàn toàn tán thưởng, còn khen Lãng Dung đọc lên nghe đắt và mềm. Tên này cũng định mệnh, bởi tôi có một dung nhan cực lãng. Da dẻ có mịn màng trắng trẻo hơn chị Du, mũi không tòe loe cánh dày, môi đỏ chúm chím, nhưng hai mắt mài mại, con này đuổi con kia, không phải kiếu hai em kình nhau sừng sỏ, cũng không phải tỏe về hai hướng. Như thế này, nếu một em ở đúng vị trí, em kia lân la đến gần như hỏi thăm ê, sao đứng đó chi vậy, y như muốn đuổi đi chỗ khác chơi. Đại khái thì sự loạc choạc này không ảnh hưởng gì đến thị lực, tuy về sau tôi bị cận thị, một em luôn phải làm việc nhiều hơn em kia khiến việc xua đuổi lẫn nhau ngày càng gay gắt.
Tuổi thơ của tôi vì vậy không vui. Đi học thường bị bạn chọc. Lêu lêu lé kim, liếm ke. Rồi sẵn dịp lêu lêu Dũng - Lang, Lãng Dung. Bị cười nhạo khuyết tật và bêu tên cha mẹ là chuyện nhục nhã kinh khủng đối với trẻ con. Trường học đối với tôi chẳng khác nào địa ngục. Mặc dù được các thầy cô thương vì học giỏi, chỉ có mấy đứa mù chữ trong Vàm là tỏ ra vị nể, do biết tôi cháu nội ông Hội Đồng, lại được mẹ cho ăn mặc sạch sẽ trông khác hẳn cái đám lam lũ suốt ngày mò tôm bắt ốc, lang thang mót lúa sau mỗi vụ gặt. Gá nghĩa với ông Dũng, mẹ tôi dần hồi phục cơ ngơi, tiếp tục gửi tiền cho dì Ngọ để nuôi chị Du ăn học. Hơn bao giờ hết, mẹ không muốn chị Du về lại Vàm Mương.
Chuyện học hành của tôi không khác với chị Du là mấy. Tôi vừa mới lên lớp ba, mẹ liền đày ra chợ Quản tá túc nhà cậu Thân, xin cho vô trường tiểu học thị xã. Sau mấy năm lình bình, công tử vườn giao mọi thứ cho vợ quán xuyến, lại thêm có chút của ăn của để đâm ra nhàn cư ngày nào cũng nhậu ba xi đế với đám tá điền thân cận đến be bét. Tây học là vậy nhưng khi bí tỉ có bao nhiêu nho rừng mang ra vãi muốn thúi lỗ tai. Dần dà bổ sung thêm ngón khỏa thân cưỡi kim ngưu, rồi chỉ cần ngà ngà đã hươi đoản đao, múa trường kiếm, sẵn sàng chém bỏ mạng tào khang chi thê. Em ơi, tình như một đường gươm…Trong nhà không lúc nào yên, bởi mẹ tôi cứ rình cho ba tôi tỉnh rượu để đay nghiến, chữ nghĩa ra gì; hai người có khi quần nhau đổ máu mặc tôi gào khóc kinh hãi. Tiềm tàng lập trường chính trị ba phải từ hồi nào không biết, hôm thì đội cái vịm trên đầu chân nam đá chân xiêu miệng chửi tổng thống phe quốc gia, hôm khác lại ngâm thơ con cóc cười nhạo chủ tịch phe cách mạng cáo hồ lộ tẩy lòi đuôi. Hai ba tháng bị Việt Minh cảnh cáo, vài ba tuần bị phe chính quyền bắt nhốt dằn mặt. Mẹ tôi một mặt lo gửi tiền lên Sài Gòn cho dì Ngọ, một mặt mướn người chèo ghe lên thị xã cống cho gia đình cậu Thân toàn đặc sản hảo hạng miệt vườn, còn thì cứ chạy vạy tảo tần thăm nuôi người hùng sa cơ trên đường cứu nước.
Đến đây chưa có ma quỷ hiện hình, nhưng rõ ràng là trong mỗi người đã nhập nhòa bóng tối, đầu óc vần vũ mây mù như chực mưa bão. Tám tuổi, tôi lủi thủi tị nạn trong gia đình cậu Thân, chơi một mình trong sân trường, khóc tủi phận trong vườn cà cạnh cái mả đá của ông ngoại.
2.
Cái bóng tối đó trùm kín ngôi nhà ba gian hai chái ở Vàm Mương làm mẹ tôi ngộp vì bùng nhùng. Đường tình duyên long đong, không có mệnh thân cư phu nhưng do tính lo xa, lần này bà đã khôn ngoan tích cóp phần mình đủ để vạch mây đen tìm một chút nắng cho bản thân và hai đứa con gái nhỏ đang ăn nhờ ở đậu nhà họ hàng. Đầu tiên mẹ đẩy tôi từ chợ Quản lên chợ Thái Bình, cho nhập cục với chị Du ở nhà dì Ngọ. Mụ Thénardier tuy thấy vướng víu phải cưu mang thêm một đứa nhỏ, vẫn đánh hơi được cái lợi trước mắt. Thật khó từ chối khi mà cùng theo tôi vô cái gia đình đái đêm trong khạp là đôi bông tai cẩm thạch mẹ trân trọng dâng dì với lòng biết ơn sâu xa. Bỏ tôi lại đấy để về Vàm thu xếp công việc, mẹ hứa sẽ sớm quay trở lên đón hai chị em tôi đến ở nhà mới.
Tôi bắt đầu làm quen với chị Du. Hai chị em cách nhau 10 tuổi. Chị đã lênh đênh 3 năm ở nhà cậu Thìn, 7 năm ở nhà dì Ngọ, khi tôi được sinh ra thì chị đã rời cái hốc bà tó của Làng Duyệt rồi. Thiếu nữ 20 da vẫn ngăm đen dù đã là dân thành thị, tóc túm lơi lơi bằng kẹp ba lá inox, mặc áo dài tê-tơ-rông, vẫn còn ạch đụi lớp đệ tứ, đã có bồ - một chàng tuổi trẻ mặt mũi nhòe nhẹt, dù cố gắng lắm tôi cũng chẳng nhớ được mấy tí nét. Đối với chị, tôi là cục nợ. Mẹ dặn phải lo cho em nghe chưa, đưa đón nó đi học đàng hoàng, dạy nó lễ phép với dì dượng và các anh chị trong nhà, quyền huynh thế phụ, một giọt máu đào hơn ao nước lã. Khoảng cách tuổi tác làm tôi phải ngước lên, ngưỡng mộ lẫn kính sợ. Trong gia đình dì Ngọ, chị vẫn chẳng là gì nhưng sự thâm niên đã cho chị một vị trí nhất định trong quần thể đó. Phần nữa, mấy người anh chị họ của tôi tuy chẳng nể nang gì vẫn có vẻ mến da mến thịt cái người đã bồng nách, rửa đít và đút cơm họ đến chừng ấy năm. Bà Tươi chính thức được tha cho về quê làm ruộng do chị Du đã lớn và đã quen việc.
Hai chị em được cho ở nhà dưới, ngủ chung trên cái phản bề ngang một thước, bề dài một thước tám. Đó cũng là nơi chúng tôi ăn uống, học hành, kiêm luôn những sinh hoạt khác. Trên cái phản đó tôi bày hàng chơi một mình hoặc nằm ngủ khò chán chê mà chẳng ai để ý tới. Một tháng 2 lần chị Du cắt giùm móng tay móng chân; rủi nhằm lúc ông dượng đang ngủ trưa, hai chị em phải trùm mền ngồi lọ mọ trong đó để dượng không phải nghe tiếng lắc cắc hay xì xào. Nói là xì xào chứ thật ra chỉ có mỗi chị Du vừa cắt móng tay vừa dằn vật chì chiết mắng tôi mày chẳng những ở dơ mà còn làm biếng, ai cho mầy vọc đất dang nắng, đồ ham chơi, đồ ngu tắm không biết kỳ cọ trong nách trong háng, mày vô tắm lại cho tao coi, mày làm toán chưa, sao không chịu hỉ mũi cứ để vậy mà hít tòn tọt…Thi thoảng vui trong người, chị kể lại chuyện đã từng viết thư tuyệt mệnh giùm bà Tươi và chuyện làm rớt mất cái quần tẹc-gan màu xám tro của ông dượng. Những lúc đó hiếm hoi nên tôi sướng lắm. Một lần, do phải tắm đi tắm lại nhiều lần tôi bị trúng nước nằm sốt mê man; cảm thấy trách nhiệm, chị Du chăm sóc ra gì, đêm còn ngồi bên cạnh hát bài Lòng Mẹ ru tôi ngủ. Bài hát này chẳng hiểu vì sao ám ảnh tôi suốt đời, đến nỗi về sau cứ nghe ban nhạc đám ma đánh trống cà ình cà ình thổi kèn tè tẹ te te te tẹ té tè tè tè là tôi lạnh xương sống, nổi da gà.
Rõ ràng đối với chị Du tôi là tai bay vạ gió làm chị thêm cực. Một mặt chị thấy vô cớ mà gánh thêm trách nhiệm đối với đứa em cùng mẹ khác cha, một mặt chị gặm nhấm cảm giác sương sướng đa đã vì nay đã có đối tượng cho chị trút xả hờn tủi sẵn tiện chứng tỏ quyền uy, thứ mà trước đây chị chưa bao giờ được dịp thể hiện với bất cứ ai. Chị không giấu giếm sự khinh bỉ, cho tôi là kết quả của một cuộc hôn nhân ngoài pháp lý, căm ông Dũ bỏ của chạy lấy người, thù ông Dũng lấy mẹ ra khỏi cuộc đời chị rồi lại lấy ý nghĩa cuộc đời ra khỏi mẹ, hận mẹ không có cái chính chuyên của một người đàn bà và ghét tôi đã choán cái chỗ mà lẽ ra tôi không đáng có. Thỉnh thoảng chị long mắt lên nhìn tôi, cắn răng khít rịt rồi buông giọng đắng và uất, tao lắc, tao lắc, lắc cho cái Vàm nó rớt ra khỏi đầu. Về chuyện này, một đứa nhỏ 10 tuổi làm gì hiểu nổi đầu cua tai nheo. Ngoài những cái vừa nêu thì tôi khá được việc khi làm chứng nhân vô tư cho mỗi lần chị đi chơi với bồ. Dắt tôi theo, chị tránh được rắc rối từ phía dì dượng. Thật ra dạo ấy, có bồ chỉ có nghĩa là đi ăn kem hoặc ngồi bờ sông uống nước dừa; hai anh chị thủ thỉ thù thì, có khi sượng sùng nắm tay nhau. Trong khi đó tôi xớ rớ không biết làm gì ngoài việc vọc chán chê mớ ly tách chỉ còn cặn ở đáy rồi ngáp đến chảy nước mắt sống. Cứ như vậy mà hai chị em lây lất với viễn ảnh sớm được về nhà mới mẹ hứa sẽ mua. Trong khi đó, ở nhà trên họ vẫn đái đêm trong khạp.
3.
Mẹ giữ lời. Chắc là phải vất vả lắm mới thoát thân khỏi những đường gươm tào khang chi thê của ông Dũng, chạy băng qua những cánh đồng đàm tiếu của láng giềng, bạnh xương hàm chữ điền chèo ghe nước ngược lên thị xã, đón xe lôi ra bến lục tỉnh, rồi đường trường xa muôn vó câu bay chập chùng mẹ vượt hơn 300 cây số, ngất ngư hai cái đò qua sông Cần và sông Mỹ, phần phật xích lô máy về chợ Thái Bình để cuối cùng có thể nắm tay hai đứa chúng tôi, giọng quyết liệt, đi con!
Đó là một căn phố nhỏ bằng cái lỗ mũi nằm trong hẻm chùa Kỳ Yên, nền lát gạch bông ô vuông trắng xanh, phía trước có hàng rào lưới sắt, kế liền cổng là hàng hiên 5 tấc, rồi một phòng vuông vức cho đủ thứ sinh hoạt của ba người, phía sau bếp có một hồ nhỏ bằng xi-măng dành chứa khoảng 10 mét khối nước, do cả khu phố chưa được lắp hệ thống nước máy. Mỗi ngày mẹ mướn chú tám Nhẫn gánh 5 đôi nước giếng từ nhà ông Tòa đổ vô hồ, xài cầm hơi. Đối với chúng tôi, chừng đó đã đủ thần tiên. Tôi ngây ngất được ở gần mẹ, được ăn những món mẹ nấu, được nhõng nhẽo đòi mua cái nọ cái kia. Tính ra chặng đời vất vả của tôi ngắn ngủn so với 10 năm khổ nạn của chị Du. Có nhà rồi, chị Du học hành khá hơn tuy 24 tuổi mới lấy xong bằng tú tài đôi. Nghỉ học, chị kiếm được chân thư ký trong một hãng buôn, đi làm bằng xe solex. Chuyện bồ bịch bền bĩ qua nhiều thăng trầm nay đậm đà công khai khiến mắt môi chị mướt rượt. Tôi thường len lén ngó chị trang điểm, vô thức niễng đầu theo cách chị ghìm cây bút chì đen viền hai mí mắt, bặm môi theo dõi chị đưa cây chổi nhỏ quét vuốt hai đuôi chân mày.
Mua xong căn nhà 78.000 đồng, mẹ chẳng còn gì ngoài một ít nữ trang. Bà con cô bác mỗi người tử tế góp cho một món. Tủ đựng chén của bà giáo Lương, quạt máy của ông Hai Phước, vạt giường của ông Tòa, tủ đứng của cậu năm Huỳnh. Chị Du mỗi cuối tháng lãnh lương bổ túc thêm vài món lặt vặt. Dần dần chúng tôi gần như không thiếu thứ gì tuy phần lớn xộc xệch chắp vá, phải chêm, kê, chèn, cặp, ràng, nẹp mới dùng được. Tưởng mẹ yên vui, đâu có, lâu lâu lại thở dài đánh thượt, rên rỉ đang ở ba gian hai chái giờ chui vô hốc kẹt này trốn cái hũ hèm. Cỏ vẻ như mẹ vẫn thắt thỏm, ngay ngáy chuyện đời không biết còn gì nữa chăng.
Tôi mười sáu tuổi, tóc dài hơi quăn dợn tự nhiên, da trăng trắng, người mong mỏng, hai mắt mài mại. Hôm nào thần kinh thị giác khoe khỏe, lưỡng nhãn ít hầm hè đuổi nhau, ngó chung chung cũng xinh xinh. Vẫn ít bạn, vẫn sợ chị Du - lúc này đã dứt tình đầu, hướng cảm xúc sang một ông đồng nghiệp trong chỗ làm việc. Quyền huynh vẫn thế phụ bởi tiếng là có cha theo tây học, tôi chưa được ông Dũng dạy cho nửa chữ. Còn mẹ thì bảo, ối, mấy chuyện đó tao biết gì, để chị Hai mày lo. Chị Du thay mặt phụ huynh ký sổ học bạ, ký đơn xin nghỉ bệnh, quyết định sinh ngữ chính sinh ngữ phụ phải học ở trường, chọn ban B bắt tôi theo toán. Mày lơ tơ mơ, lãng mạn chép thơ văn lung tung, lại bày đặt viết nhật ký, theo ban C có mà chèm nhẹp, còn ban A thì mày làm biếng đâu có chịu học thuộc lòng. Tôi giải phương trình đại số, rị mọ hình học không gian, nhưng giấu bên dưới các quyển sách giáo khoa là tập giấy pơ-luya mỏng màu hồng để chép thơ Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Trần Đức Uyển, Viên Linh, Du Tử Lê, Nguyên Sa, Lê Thanh Xuân, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đạt…. Mê tít thò lò những câu như
Tôi mở lớn cửa vườn để mọi người vào nhìn
Nhưng có nhìn xin đừng hái
Lá hồn tôi đã chín vàng
Sắp về đến cội
(Nhã Ca)
Khi nào lấy ta mang theo cái cưa
Nhớ con dao phay nhớ cái dùi to
….
Cưa để cưa chân chứ để làm gì
Chân bị cụt rồi chân chẳng còn đi
…
(Nguyên Sa)
Nếu đôi lúc thầy giảng bài con ngủ gục
Hoặc hò reo như một chỗ không người
Thầy tha thứ cho con đừng gắt gỏng
Vì bây giờ không còn chỗ vui chơi
Thuở mới lớn thèm đôi chân của biển…
(Lê Thanh Xuân)
Tôi tâm niệm như thần chú những câu thơ trong Bài Luận Làm Tại Nhà của Nguyễn Xuân Hoàng.
Tôi chợt sinh ra như loài thảo mộc
Rồi bỗng lớn lên như lũ thú rừng
Xương thịt mẹ cha cho cùng tiếng khóc
Anh em mỗi người tặng chút yêu thương
Năm lên 7 tuổi theo lời mẹ dạy
Sáng sớm đến trường ngồi đó nghỉ ngơi
Đường làng phân trâu ngái mùi cỏ dại…
Những bài thơ tôi chọn, đọc lên nghe bùi ngùi, dễ chịu, âm vọng như trôi theo nhịp thở làm tôi đắm đuối. Điểm Toán vì thế khi nào cũng dưới trung bình. Mo-ran ngũ vị hương từ chị Du, hẳn được ướp lâu ngày bởi dì Ngọ, là thứ mà tôi phải thường xuyên vận nội công để cầm cự mỗi khi đưa học bạ cho phụ huynh ký.
Do không có phòng riêng, tôi chỉ có thể nhấp nhổm chép thơ khi chị Du đi làm. Không có ai để tâm sự, thay vì tỉ tê với Kitty như Anne Frank, tôi viết hàng ngày, bắt đầu bằng Audrey yêu dấu hoặc Alain thân mến, đơn giản chỉ vì mê đôi mắt đẹp của Audrey Hepburn và Alain Delon. Quyền huynh thế phụ có lần đã phát giác trong nhật ký Lãng Dung: năm nay tôi mười sáu tuổi mà vẫn còn trinh, điều này ám ảnh tôi suốt ngày. Câu này chép của Nhã Ca nhưng không được cho vô ngoặc kép. Bốp, bốp. Mày đọc Ngoài Đêm của Thế Uyên? Đã cấm rồi sao còn dám? Sau này đọc Văn Học Miền Nam của Võ Phiến mới biết Thế Uyên chuyên trị tình dục, chứ hồi đó có được phép đọc đâu mà đồi trụy theo sách.
Ăn hai bạt tai oan mạng. Lo mà khóc cho đã đi, bề nào cũng bị bộp rồi, đính chính cũng vô ích. Tôi trở thành đứa hư thân mất nết trong mắt chị Du. Thành thật mà nói, hai cái tát nháng lửa đã khiến độc giả thiếu niên né Thế Uyên đến hai phần ba thế kỷ còn lại, còn Nhã Ca thì bất công thay, vẫn được tiếp tục đọc. Mọi chuyện tồi tệ hơn khi chị Du thỉnh thoảng xin phép mẹ đưa bồ về nhà. Sau ông đồng nghiệp còn vài ông nữa, ông nào cũng phong cách văn học hoặc tiền chiến hoặc hiện đại, chữ nghĩa lưu loát, mắt mũi tinh nhậy chất chứa bao nhiêu là tâm hồn và sự uyên bác. Thần sắc chị Du ngày càng long lanh, nước da ngăm bỗng trở nên duyên. Tôi đứng xa chiêm ngưỡng nhưng mấy ông kẹ thi thoảng lại sấn đến gần bông lơn vài câu với em gái nhỏ; có ông còn thì thầm rủ đi ăn kem, dặn dò nhớ đừng để chị Du biết nghe. Nghĩ mà coi, ông nội tôi cũng không dám đi, dù có mê kem đến chảy nước miếng. Dĩ nhiên thời ông Hội Đồng chưa ai được thấy cục nước đá ra làm sao, nói chi đến chuyện ông nội tôi đi ăn kem với bồ chị Du. Mấy vụ rủ rê này sớm bại lộ thôi, bởi ngó thấy cái mặt gian giảo lấm lét lưỡng nhãn bất đồng tâm bất trung của con trời đánh mỗi lần các ông đến chơi, chị Du sinh nghi đứa em trắc nết hẳn đã phạm tội tổ tông do đã thèm mất trinh quá mà.
Mẹ thắt tha thắt thỏm là phải. Ma men hiện về đứng trước cửa, hồn xác đề huề. Ông Dũng đã truy ra hang ổ của con đàn bà phản trắc. Cái lỗ mũi trong hẻm chùa Kỳ Yên nay chèn nhét 4 mạng. Với số tiền có được từ việc bán sạch mấy trăm mẫu đất ruộng sau khi đã chừa một thẻo hương hỏa, ông Dũng quyết định làm cư dân thành thị, thường trú với sự tự tin. Khổ, tiền ông ông xài. Ba mẹ con vẫn giật gấu vá vai với đồng lương khiêm nhượng của chị Du, nay thêm một miệng ăn. Mẹ lấy cớ gì đuổi người hùng đi chứ ? Thành ra vẫn cứ phu thê tại đường, thiếu kim ngưu để ngất ngưởng và gươm đao để loang loáng, nhưng bí tỉ thì vẫn. Người hùng lâu lâu làm nư ra ở khách sạn, nghe đồn có thuê bao một em tre trẻ miệt dưới. Có lần Người bất chợt hỏi chị Du cặp kiếng mát này mua bao nhiêu, khiến giác quan thứ tám mách bảo mụ đàn bà thiếu cái chính chuyên rằng ma men vẫn hút hồn được gái bằng mãnh lực kim tiền. Chắc mẹ không thèm ghen đâu, nhưng tôi thấy mẹ dùng bút nguyên tử đỏ rạch nát tấm hình em bé quê tìm thấy trong túi áo ông Dũng, bảo cho nó gặp hoạn nạn tai ương đáng đời đĩ ngựa. Với hũ hèm trong nhà, chị Du thôi không mời các văn nhân về chơi, đùng một cái chị tuyên bố lấy ông đồng nghiệp trong hãng buôn.
4.
Đám cưới trọn bộ lễ mễ. Tôi đủ lớn để mặc áo dài phù dâu đứng chung với mấy nàng ẹo ẹo khác. Ông Dũng xì một cái rồi bỏ đi nhậu, nói nó đâu phải con tao. May gì đâu, không thôi thì sui gia đàng gái sần sần hừng chí phun phì phì nho rừng cho phía đàng trai thúi lỗ tai chơi. Mẹ thở cái khì tạ ơn ông bà ông vãi. Xe đưa dâu đưa về Long Thành, mấy nàng phù dâu ngồi băng ghế sau, cô dâu ngồi phía trước, chú rể lái. Nhìn mấy sợi tóc con sau gáy chị Du với từng lọn vén cao gói trong khăn vành dây, tôi chợt nghĩ hay là trong vụ này có vài người hi sinh ?
Chị Du không phải làm dâu ở tỉnh, trái lại còn có nhà riêng khang trang ở hẻm Lập Thành gần cổng xe lửa số sáu. Từ hẻm này về chùa Kỳ Yên gần xịt ; mẹ tôi trưa trưa lại chụp nón lá lên đầu, lúc lắc xâu chìa khóa kép mới được tân lang và tân giai nhân giao cho, bảo tới coi con Du nó cần cái gì, thực ra là để chùi lau quét dọn giùm con gái bận đi làm cả ngày, sẵn tiện tránh ông Dũng sắp xiêu vẹo mò về sau cuộc nhậu từ thuở bình minh, dù chạng vạng hoàng hôn Người sẽ lại lên đường nhậu tiếp. Ở thành phố không có tá điền thân cận để thù tạc, ma men ra quán gần nhà ngồi tì tì cụng ly vô chai chửi đổng đụ mẹ bây coi thường tao đâu có được ! Vậy mà tôi cứ việc coi thường, có lúc còn muốn gây án mạng. Đã có lần nửa đêm tôi bỏ tóc xõa, chân không mang dép vừa chạy vòng vòng xóm vừa rú như bị quỷ nhập. Lỗ mũi hẻm Kỳ Yên không có lối thoát hiểm, gọi là lỗ nhưng bí. Đêm nằm chung với hũ hèm trong cái diện tích nhỏ xíu, nghe chửi thề ngay sát bên tai, ngửi mùi ọc ụa của nhà trí thức yêu nước, rồi người đàn bà thiếu chính chuyên hươi cây treo mùng đập bụp bụp vô cái đống ái quốc thù lù trong bóng tối. Ấm và nhớt, và tanh, và nhão nhoẹt.
Tôi bắt đầu hư. Bây giờ em mới bắt đầu nè chị Du ơi ! Giữa 10 và 20 là khoảng cách giữa một đứa nhỏ và một thiếu nữ, nhưng giữa 20 và 30 thì mình ngang cơ được chưa ? Mới năm thứ hai đại học tôi bỏ ngang đi làm kế toán làng nhàng trong xưởng giấy Cogido, nuốt không vô mấy xấp cours dân luật, công pháp, đối chiếu. Chị Du nói đúng, tôi không sính món học thuộc lòng. Chọn luật khoa vì định giết người rồi tự biện hộ, nhưng coi bộ không xong. Phần nữa, già đầu còn xòe tay nhận tiền từ vợ chồng chị Du coi có được chăng ?
Chồng chị Du tên Kiên, tiêu biểu cho hình ảnh một viên chức cần mẫn. Tuy làm hãng tư, ông ta nguyên tắc thấy ớn. Trước khi cưới được chị Du, chàng ôm mối hận tình 6 năm ngồi chờ nàng đi tìm ý nghĩa siêu hình của cuộc đời nơi những người đàn ông kiến thức hàn lâm. Trong thời gian này chàng tậu nhà cửa, sắm sanh tươm tất đến từng món nhỏ trong nhà bếp, tin chắc như đinh đóng cột rồi sẽ có lúc nàng cần một bến đậu. Hình như việc chị Du muốn chui ra khỏi cái lỗ mũi hẻm chùa Kỳ Yên có hơi hướm máu me từ người cha dượng. Ngoài ra, các văn nhân tuy dập dìu nhưng mắt mũi láo liên, thơ tình viết cho em này đề tặng em khác, phấn hoa lả tả tình chị duyên em. Và Kiên thì, định mệnh thay - cái tên, vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Lấy ông Kiên ở tuổi 30, chị Du chỉ việc bê cái thây qua ở nhà mới, nói theo kiểu của mẹ. Tưởng vậy là sướng đời, lầm chết. Bể một cái chén của lão cũng phải giấu miểng, gẫy một chiếc đũa của lão cũng phải đãi bôi giả lả. Chăn gối thì rạch ròi như khách mua hoa ; cái này chị Du tiết lộ chứ ai chui vô mùng họ ngồi coi đâu mà biết. Có vẻ lão đang rửa hận. Lục trong mớ giấy tờ của lão, chị Du té ngửa té sấp vì mấy tấm ảnh các em ở truồng, tưởng đâu hình người mẫu cắt từ tạp chí playboy, hóa ra phía sau tấm nào cũng có chữ ký đề tặng. Rửa hận kiểu này làm sao sạch được hận. Đàn ông thật là cái thứ... Chị em phụ nữ, hãy cảnh giác với những viên chức cần mẫn ! Nhưng thôi, nói một hồi đụng chạm đến ông Trời, vốn cũng là giống đực chứ đâu.
Vậy mà rồi họ cũng hợp tác hạ sinh được một hoàng nam. Thời gian chị Du ở cữ, lão Kiên ghé tai em vợ nói nhỏ anh cưới chị Du vì muốn ngồi cùng xe hoa với em. Nhợn, nhưng chẳng lẽ cho chó ăn chè như ông Dũng. Tôi cười hi hi nói, giỡn hoài, bà Du xé xác tui đó. Mếch lòng, lão nói em ngu lắm.
Vừa ngu vừa hư. Dạo ấy tôi là người yêu của lính. Ban đầu là thiếu úy thông dịch viên chiến trường, xong tụt xuống chuẩn úy Quân Trường Thủ Đức, rồi leo lên trung úy Quân Y, chặp sau đại úy Hải Quân, cuối cùng trở lại hàm thiếu úy binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Chúng tôi gặp nhau dần lân theo kiểu domino trong các buổi tiệc sinh nhật của bạn bè, phần lớn họ thích tôi vì em có dáng mỏng như thơ - một bài thôi, không dày như toàn tập hay trường thiên, với đôi mắt đẹp và buồn nhìn vào cõi mông lung - hai em hai cõi. Mấy tay này, tiếc thay, chết như sung rụng. Tôi ôm nỗi buồn góa phụ cô đơn rên rỉ nhạc Trịnh anh nằm xuống sau một lần đã đến đây ... Đến hẻm chùa Kỳ Yên đó, nhưng thường bị lão trượng ma men hiện ra múa võ lùa nam nhi chi chí chạy thục mạng nên chưa kịp làm nát đời nhau. Rồi
Em đi qua cầu
Có gió bay theo
Thổi bùng khăn tang
Trắng xóa khung chiều...
Hát chơi đỡ buồn vậy chứ ai mà để tang cho mấy ổng, đã có vợ con anh chị em họ lo chuyện đó. Yêu hàm thụ theo kiểu em gái Dạ Lan thủ thỉ với các anh chiến sĩ trên đài phát thanh, tha hồ nỉ non
Tôi có người yêu chết trận Pleime
Tôi có người yêu chệt trận Chu Phong
Tôi có người yêu chết trận A Shau
Tôi có người yêu chết trận Ba Gia
Chết thật tình cờ chết chẳng hẹn hò
Không hận thù nằm chết như mơ...
Mẹ nói kiếm ông nào già già ưng đại như chị Hai mầy đó, chứ thanh niên đời nay phơi thây chiến địa như cơm bữa.
Đã khá lên đâu mà nghèo xuống mạt rệp rồi. Bắn nhau đùng đùng mấy tháng, hết thành phố này thất thủ đến tỉnh kia rơi vào tay địch. Địch ở đây thật ra là anh em cùng mẹ khác cha giống hai chị em tôi, muốn nối vòng tay lớn. Những người không chịu nối tìm cách chui ra khỏi vòng tay. Vài đêm trước khi máu anh em chảy đến Sài Gòn, dân chúng níu nhau chạy tán loạn, chen chúc leo lên các cao ốc trong thành phố với hi vọng được trực thăng Mỹ bốc đi. Luồn trong các con hẻm, lính tráng phe quốc gia vất bừa vũ khí, tuột bỏ hết quân phục chỉ chừa cái quần đùi, thất thểu ra đường cái tìm lối về nhà. Tôi ngồi trong nhà thò mặt ra cửa sổ nhìn hoạt cảnh buồn, nuốt nước miếng nghe đau trong cổ họng như bị cảm cúm, nước mắt ràn rụa trào nhưng không phải khóc. Có cái gì như đang bị đè xuống nhưng tự trồi lên rồi bung ra. Lâu nay đọc tiểu thuyết diễm tình, đâu có biết thế nào là sự sụp đổ của một chế độ, đâu có hiểu tại sao lại có kẻ chạy trốn hòa bình. Trên đài phát thanh người ta cho tua đi tua lại bài Nối Vòng Tay Lớn của Trịnh sĩ.
Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà
....................................................
Cờ nổi gió đêm vui mỗi ngày,
Dòng máu nối con tim đồng loại
....................................................
Người chết nối linh thiêng vào đời
Những lời hát được lập đi lập lại lõm bõm câu được câu mất chen vào nhịp vỗ gấp của đời sống hàng ngày khiến trong người ai cũng vô thức âm ư cùng một điệu nhạc.
Ông Dũng mất hết số tiền bán đất gửi trong ngân hàng. Tôi thất nghiệp. Mẹ lại tất tả ngược xuôi quơ đồ trong nhà mang ra đường ngồi bán tháo bán đổ kiếm tiền mua bo bo cho 3 nhân khẩu. Chao đảo lập trường chính trị, nhà ái quốc tạm hưu chiến vài hôm khiến không khí trong nhà u ám còn hơn lúc ông ta đang trong thời kỳ hoạt động. Tôi nằm lên nằm xuống thỏa thuê rồi cứ tờ mờ sáng lại cầm sổ đi xếp hàng mua nhu yếu phẩm. Phía chị Du không khả quan hơn là mấy. Hai ông bà mất việc, nhưng kỹ lưỡng như lão Kiên hẳn phải còn của ăn của để, thành ra lâu lâu lại thấy mẹ giấu đồ tiếp tế bên dưới tủ thờ.
Không thấy ông Dũ xuất đầu lộ diện như phần lớn các ông bà tập kết cùng thời điểm ông ta đi trốn nợ. Mẹ nói ngữ ấy chắc đã vợ con đùm đề, không dám trồi đầu về sợ bại lộ tung tích ô uế lý lịch đảng viên ; cũng có thể ông ta đang sống đâu đó cùng một thành phố trong một vi-la tiếp quản có hồ bơi và đàn dương cầm, đang xưng hùng xưng bá ở một địa phương miệt lục tỉnh, đang ngồi ghế chính quyền tung hô vạn tuế lý tưởng cao đẹp. Chị Du không có vẻ gì muốn tìm lại người cha biệt tích, không thôi thì cả nhà đã được hưởng chế độ ưu đãi dành cho gia đình cách mạng rồi. Ai biết chuyện cũng hùi hụi tiếc. Chỉ có người trong cuộc chẳng thà gửi gió cho mây ngàn bay.
Dù gì, trừ vài triệu người bỏ mạng trên đường bôn ba nắm tay nối liền biển xanh sông gấm, nối liền một vòng tử sinh thì mấy chục triệu người còn lại vẫn sống nhăn răng. Người nào người nấy xương sọ muốn lòi ngoài da, không vui cũng thấy hai hàm răng trắng ởn phơi ra như cười. Tôi hóa rồ vác đơn chạy lung tung, cuối lá đơn nào cũng có một đoạn lâm ly y chang thư tình, trước khi ký tên còn thề bán mạng sẽ làm việc với tinh thần tập thể cao ngất ngưởng, quyết tâm đóng góp cật lực cho cách mạng đến giọt máu cuối cùng.
Không vướng lý lịch gia đình quân nhân chế độ cũ, tôi sớm tìm được chân đứng máy ở một hãng dệt do chính quyền mới tiếp quản từ một giám đốc bụng bự đang bị cải tạo vì tội giàu mà than nghèo. Cuộc sống trở lại không y như cũ nhưng nó khiến người ta bận bịu trong nỗ lực thích nghi.
Non non một năm sau, tôi đang giao lưu tình cảm với một ông sồn sồn lừa con phản vợ, vốn là quản đốc trong hãng dệt chỗ tôi làm, thì hay tin lão Kiên uống thuốc trừ sâu. Trừ chi không trừ, nhè mượn con sâu mà trừ mình. Nghe kể sáng đó chị Du bồng hoàng nam đi chích ngừa nói sẽ ghé nhà bạn ở chơi đến chiều, lão nghỉ làm ở nhà ực nguyên chai Visher 25ND, còn quyết tâm tọng thêm một chai Bassa 50EC. Trật tự trước sau giữa hai chai này không quan trọng nhưng chắc cú lão có lăn lộn co giật kịch liệt trước khi trút hơi thở cuối cùng. Khi được phát giác người ta thấy lão nằm đút đầu dưới giường trong phòng ngủ, hai chân thò ra ngoài. Cái chết này khiến tôi đánh giá lão khác đi, cho lão 7 điểm trên 10, khá chênh so với điểm dưới trung bình thuở lão còn sinh tiền chỉ vài hôm trước đó thôi. Suy luận xem, phải có mối sầu u ẩn, niềm đau chôn giấu hay lý tưởng sụp đổ lão mới đủ động lực đi đến một quyết định như vậy. Chị em phụ nữ, hãy cảnh giác với những viên chức cần mẫn, đừng tưởng bở họ không có chiều sâu nội tâm. Thành thật mà nói, về khoản tự tử thì tôi thua lão xa; bởi đã nhiều lần muốn quyên sinh nhưng cứ chần chừ sợ vết cắt lưỡi lam làm độc ở cổ tay, sợ bị mấy con y tá mặt sắt súc ruột trào mật xanh, sợ bỏ uổng mấy cái áo dài mới may chưa kịp mặc.
Chị Du bị cú này hơi nặng. Buổi chiều đó đi làm về tôi thấy chị đứng trong bếp, chỗ cái hồ xi-măng, nách thằng cu Diên. Môi chị cắt không còn hột máu. Trong hoàn cảnh như vậy, ai nhẫn tâm cắt môi người ta ra làm chi để coi có hột máu nào chăng, nhưng rõ ràng là nó có màu trắng như được phết vôi và hơi dộp lên. Mẹ tôi đang ngồi bệt cạnh sàn nước, mắt lạc thần. Xác lão Kiên đã được đưa vô nhà thương giảo nghiệm, nhưng chị Du khăng khăng đòi ngủ lại hẻm chùa Kỳ Yên. Chị nói nhà đằng kia bị quỷ ám rồi, không ở được đâu. Lần đầu tiên tôi thấy chị yếu cơ, nói mà không nhìn thẳng vào mắt tôi, dù có một con mắt của tôi nhìn thẳng vào hai con mắt cụp xuống của chị, còn con kia thì lãng du vô hốc lăm le đuổi con nọ đi chỗ khác chơi. Ông Dũng đêm đó tỉnh như sáo, chê thằng này dở, chuyện gì ngồi nhậu với nhau rồi anh em tính cho.
5.
Tôi trề môi, giọng gièm xiểm :
- Ba tôi nói ông dở, chuyện gì ngồi nhậu với nhau rồi anh em tính cho.
Lão Kiên cười khẩy :
- Ai anh em gì với ổng. Sống mà liêu xiêu ngoặt ngoẹo như ổng chết đi còn hơn!
- Chứ bộ ông vững dữ; ngon sao kết liễu đời trai?
- Em vẫn ngu. Du Nương coi vậy mà khôn hơn em nhiều. Lãng Dung ơi, sứ mệnh phục thù bất khả thi. Du Nương đâu có thèm buông neo bến đậu. Nàng vẫn hoài mơ chân trời tím.
Tôi tự nhủ, thôi chết rồi, hậu quả từ Z-28 Tống Văn Bình, James Bond và nhạc vàng. Lão Kiên có ăn nói theo cái kiểu thi văn đoàn tạp lục bao giờ đâu. Tôi đánh liều, cắc cớ hỏi:
- Ông nói vậy là sao? Chân trời tím là chân trời nào ?
Bóng tối chập choạng ngả qua phía lão ngồi khiến tôi không thấy gì hơn ngoài cái trán bóng có rắc vài hột tàn nhang. Những đốm lấm tấm nâu bỗng mờ dần như bị nuốt trộng bởi cái họng đen ngòm há toang hoác ngoài cửa sổ. Lão bị hút tọt trong đó. Từ ngày tôi dọn về hẻm Lập Thành ở coi chừng nhà giùm chị Du, cứ nhá nhem là lão xề xuống cái ghế cạnh giường, ngồi tán dóc. Tuy vậy mỗi lần tôi hỏi tới thì lão xéo. Chắc cho là ngớ ngẩn. Muốn lão nấn ná tốt hơn nên để yên lão tự bạch, chớ cật vấn. Quỷ ám đâu không thấy, chỉ thấy một gã cầu bơ cầu bấc thập thò tối tối xin vô ngồi nói chuyện chơi, bảo về thăm nhà chút rồi đi liền. Bà cụ căn phố đối diện một hôm gặp tôi đầu ngõ bỏ giọng rôm rả:
- Đêm nào cũng nghe cô nói chuyện rào rào, có khách hả? Ừ, nhà có âm khí vậy rủ bạn bè tới ngủ cho đỡ sợ ma.
Xóm nhỏ, việc nhỏ cũng thành lớn huống chi là việc lớn. Ai đi ngang cũng ơn ớn chỉ trỏ nhà này có người tự tử, vậy mà có một cô trẻ măng tới ở tỉnh bơ. Nghe nói bà vợ ẵm con đi mất tiêu rồi. Chịu gì nổi, bên chồng làm dữ bảo tại con đàn bà có máu sát phu. Hay là tại bả dẫn trai về nhà khi thằng chả đang còn sống sờ sờ? Vậy hả, ghê vậy! Tôi nghe qua thì độ ra trai ở đây là chân trời tím của chị Du. Nhưng tím đến mức nào thì chịu. Tím than, hoa cà, tím sim hay tím cả rừng chiều. Đâu có nghe chị tâm sự tình sầu chi đâu. Dạo ở nhà dì Ngọ, lâu lâu chị còn kể chuyện này nọ, thực ra là độc thoại với đứa nhỏ 10 tuổi ngồi trơ mắt ếch. Từ khi tôi nhôm nhổm lớn, chỉ có lườm nguýt hoặc bạt tai. Bỏ học đi làm tưởng đâu khoảng cách thế hệ giữa hai người được thu ngắn lại, ai ngờ cũng vẫn mười năm tình cũ. Thông tin về đời sống vợ chồng chị, tôi được biết qua mẹ vốn là người duy nhất trong nhà mà chị có thể tỉ tê. Chính mẹ bảo tôi đến ở trông nhà trong khi chờ có người mua; nhà bỏ không mau hư khó bán, với lại tại tôi luôn miệng hăm he sẽ thanh toán cái hũ hèm nên mẹ nơm nớp sợ phải ôm thêm thảm kịch, muốn đẩy tôi đi cho bớt mầm nhiễu sự. Phần chị Du thì cứ lừ lừ ôm thằng cu nằm thế chỗ con em trắc nết. Chị đã thôi nhìn tôi. Không phải chị yếu cơ đâu.
Ở một mình thật sướng. Tôi thầm van vái lão Kiên cho nhà bán ế chẳng ma nào mua để có thể thênh thang hưởng sự yên tĩnh mà tôi đã thèm suốt thời gian thiếu ngủ đến cứng hai mí mắt vì ông Dũng. Đàm đạo với lão nhiều khi tức trào máu; đang hồi gây cấn thì lão biến. Nghe đồn trong vòng 49 ngày sau khi qua đời, người chết vẫn là đà ở nơi đã sống. Tôi lên kế hoạch dụ lão phá lệ; tự sát sinh như lão thì sẽ đi đâu sau 7 tuần lễ nếu không phải là xuống địa ngục. Ngoài ra thuở sinh tiền lão quậy quá trời, tham sân si lão có đủ, một mặt chơi với mấy em ở truồng một mặt dụ dỗ gái ngây thơ, tức gái ngu không chịu vũ thoát y cho lão thưởng thức nghệ thuật hình thể. Chắc phải dọa lão nào là quỷ sa tăng cắt lưỡi nào là vạc dầu sôi nào là biển lửa. Ở trần gian khổ lắm cũng chỉ bị phá sản, bội tình, giựt hụi hay tù oan. Nhiều lắm là giang mai, lậu; ai bảo ăn ở mất vệ sinh chi. Gần đây thì có sida, cúm gà, cúm heo, nhưng nghĩ kỹ thấy chẳng ăn thua gì so với cõi âm ty.
Nghe tôi nói chuyện rào rào là lầm. Cứ mỗi lần lão Kiên ghé thăm nhà, ly tách chén dĩa của lão nhịp rần rật như nhạc giàn chào. Thuở trước lão yêu quý chúng hơn cả vợ con, bảo sao chúng không mừng chủ. Rồi gió từ cái quạt trần cứ giáp một vòng quay lại xì ra tạch tạch xè đều đặn mỗi 3 giây. Cùng với giọng hơi mai mái của lão là một mớ tạp âm gồm cả nữ cao nam trầm nam trung cao, râm ran như chợ Bà Chiểu. Hình thì chỉ thấy mỗi mình lão, đám kia y như nhạc nền trong phim tài liệu. Một hôm tôi đề nghị:
- Ông bảo cái đám lao xao tốp bớt giùm cái miệng. Ồn quá!
- Họ đòi đi theo coi, nghe nói có cô em nặng vía.
- Ai triển lãm đâu mà coi. Hàng xóm bắt đầu dòm ngó, coi chừng có người cúng một quả là mấy ông bà ngửi mùi nhang ách xì rán chịu.
- Em còn trẻ mà khó tính như bà già, hèn chi ế nhệ. Thấy Du Nương không...
- Á, tôi biết chân trời tím của bà Du rồi. Ông thợ điện.
Tự nhủ, đừng hỏi, đừng hỏi, để lão tự khui. Quả nhiên :
- Không phải thợ điện. Tay này thợ máy, chuyên trị mô-tơ các loại trong chỗ anh làm. Hai người tình trong như đã. Du Nương có mời về nhà ăn cơm, gắp thức ăn cho nhau trước mặt anh.
- Đáng đời.
- Nàng nói anh dê con Lãng Dung trước mặt tôi, lại còn cảnh báo con nặc nô nó đeo anh vì tiền, anh muốn thì tôi cho anh cưới nó. Nàng bê em ra đánh phủ đầu để anh hết cơ đấu súng tay đôi với me-xừ mô-tơ.
Lúc ngồi trên xe hoa đưa dâu về Long Thành, tôi đã chân thành nghĩ trong cuộc hôn nhân này hẳn có vài người hi sinh. Chị Du vu quy để gỡ rối cho cái lỗ mũi hẻm Kỳ Yên, lão Kiên phí cả 6 năm để giữ tròn chữ sĩ, những người tình văn học sống trên cung trăng phải nhường bước cho kẻ có nhà có cửa dưới địa cầu. Hoàn toàn tôi không dính líu chi đến vụ này, lại càng không cảm nổi cha già dịch.
- Rồi ông nói sao ?
Đã bảo đừng hỏi mà cũng hỏi. May quá, lão bị cuốn.
- Anh nói thôi, không lấy đâu; con đó hư lắm. Nói vậy cho nàng tưởng tượng lung tung chơi.
- Thảo nào bà Du khinh tôi ra mặt. Từ hôm nọ đến nay không thèm nhìn thẳng. Chắc tưởng tôi trao duyên cho tướng cướp rồi.
- Nàng nói em mất trinh hồi 16 tuổi do đọc truyện của ông Thế Uyên.
Oan cho ông kẹ. Đọc truyện ông ta mà mất cái nghìn vàng thì đúng là khoa học viễn tưởng. Độc giả đang cầm quyển sách, đến đoạn cao trào nhân vật trong truyện nhào ra đoạt lấy cục vàng về nộp cho tác giả. Nhào ra nhào vô kiểu này cuối cùng tác giả thu gom được một đống vàng, y như mấy gã hát dạo luyện cho con khỉ đi vòng vòng móc túi mấy người đứng xem. Tự dặn dò, đừng đính chính, người trần tim óc tương tác nhịp nhàng, huyết quản lưu thông rộn ràng còn không tin huống chi là ma quỷ. Tôi đưa đẩy :
- Biết ông phục hận, Du Nương cũng muốn báo thù, hoài mơ chân trời xa xa có dáng thuyền viễn xứ.
Lão Kiên bỗng trỗi giọng đưa đám :
- Em có khôn ra rồi. Anh thất bại trong việc gài em vào cuộc tàn sát đã được lập trình. Nàng đã bồng con lên thuyền theo tay mô-tơ.
Tôi vừa há hốc hỏi hả, cái gì thì lão liền chui tọt vô cái họng đen ngòm ngoài kia, hút theo mớ tạp âm nghe đánh ực như húp cháo lỏng.
Hôm sau đi làm về tôi ghé hẻm chùa. Mẹ vẫn ngồi bệt cạnh sàn nước, mắt lạc thần. Chiến sĩ ái quốc gần đây đã trui rèn lại ý chí, đang hành quân đâu đó trong bán kính thuận lợi cho địa điểm rút quân. Có cảm tưởng như đoạn phim hôm trước bị ngắt pause, hôm nay play để xem tiếp. Tôi hỏi :
- Sao nhà tối hù mẹ không bật đèn ?
- Có chi nữa đâu mà ngó. Hai mẹ con nó đi rồi, tốn hết 13 cây vàng.
Dạo ấy ai cũng muốn thành họ hàng của người Hoa ; người tổ chức đã mua bờ bãi, đảm bảo chỉ cần 13 cây là xuống ghe tắc-xi ra tàu lớn. Nghe chắc như bắp, nhưng phần lớn lênh đênh vài tuần ở biển, hoặc nuôi cá mập hoặc nuôi cướp Thái, may thì được trại tị nạn nuôi. Lãng Du hưởng xái của ông chồng quá cố, chẳng những đủ vàng để nộp chủ tàu Chợ Lớn mà còn để lại một ít cho mẹ xây xài. Đi đột ngột như vậy đâu kịp làm giấy ủy quyền, không sớm thì muộn chính quyền sẽ tiếp quản cái nhà vô chủ, lúc đó không chỉ tôi mà cả lão Kiên đều kẹt. Dù gì, sau 49 ngày lão sẽ xuống địa ngục rồi đi đầu thai, còn tôi thì phải lo lộn về hẻm cũ.
Quái, nghe tin chị Du bồng con vượt biển tôi chẳng thấy ưu tư gì về những hiểm nguy chị có thể gặp trong cuộc ba đào, chỉ lo mất chỗ để về nằm mỗi tối sau một ngày đứng máy muốn liệt giò ở hãng dệt. Mẹ không biết gì về chân trời tím, cứ cần mẫn ngày hai bận xá bàn thờ ông bà vái lầm rầm cho mẹ con chị Du tai qua nạn khỏi. Thiên cơ bất khả lậu, vậy mà lão Kiên thọp thẹp với tôi đúng một hôm trước khi chị Du rời nhà. Việc me-xừ mô-tơ cùng đi với chị Du có đáng tin chăng ? Dạo này đồng nghiệp trong hãng chê tôi mặt mũi lơ láo, nghi bị trúng tên có tẩm thuốc phiện. Trái lại thì có, chưa bao giờ tôi cảm thấy bình tâm đến thế. Đêm nào ba đía một hồi với lão Kiên xong cũng đi ngủ sớm, mộng mị ngậu xị, vui vẻ tưng bừng, mỗi sáng thức dậy trong người sảng khoái vô tả, y như vừa trở về từ cuộc hội hè hay chuyến nhàn du. Chả bù lúc trước, thỉnh thoảng nửa đêm lại bỏ tóc xõa chạy chân đất vòng vòng, vừa chạy vừa rú.
6.
Lão Kiên đã lâu không ghé thăm nhà khiến tôi nơm nớp lo mất cơ hội dụ khị lão la đà chốn trần gian chơi. Chị Du đã nhắn tin về báo hai mẹ con đến nơi bình yên, không nghe tiết lộ gì thêm. Một ngày trước bữa cúng thất, lão hớt hơ hớt hải chạy bắn qua cửa, không còn bộ dạng thập thò như mọi khi. Tóc như trượt khỏi trán, hai con ngươi trồi lộ ngoài hốc mắt, quần áo tơi tả. Lão hào hển :
- Giạt vô đảo Bidong rồi. Tay mô-tơ bỏ cuộc vào giờ chót, kêu vợ đang có bầu đi không đành. Du Nương chưng hửng rồi sụm bà chè, nằm thiêm thiếp trong khi tàu tròng trành mắc bão. Thằng Cu Diên ngon lành...
Nói đến đây lão hụt hơi, người gẫy gập, hai tay vịn hai đầu gối để không khuỵu xuống. Xung quanh lặng ngắt rợn người. Hình như lão đến một mình. Mừng gặp lại lão nhưng tôi làm bộ càm ràm :
- Ngồi đại đây đi. Ông chơi nguyên băng tiểu liên muốn điếc con ráy. Vậy ra me-xừ mô-tơ xù. Hừ ! Đàn ông là cái thứ....
Lão ngồi ghé góc đi-văng, tợp một ngụm hơi như cá lia thia đớp bọt rồi xuống nước nhỏ :
- Lãng Dung, em lấy xe đò hoặc xe lam về Long Thành ngay, ngăn gia đình anh đừng cho cúng thất. Anh còn vướng nhiều việc chưa giải quyết xong, mai đi chưa được đâu !
- Tôi lấy tư cách gì làm chuyện đó ? Hồi ông kết liễu đời trai, gia đình ông thiếu điều muốn giết Du Nương, sang đoạt hoàng nam, mẹ tôi phải nhờ một tay bặm trợn giắt súng lục ở lưng quần hộ tống góa phụ đưa xác chồng về quê. Chắc quên rồi ?
- Em không giúp anh thì anh chịu chết ! Xung quanh toàn thứ nhẹ vía.
- Còn chết được lần nữa ? Người chết hai lần thịt da nát tan...
Tôi tí tởn hát ti tỉ. Nặng mùi phản chiến, dù chiến tranh đã lùi lại sau lưng, còn chăng chỉ là bụi mờ của quá khứ. Tưởng mình có khiếu khôi hài, nhưng thua, lão chẳng đếm xỉa đến việc tôi giả giọng mùi mẫn .
- Em làm ơn, muốn chi anh cũng chịu.
- Thật không đó ? Bị đời lường gạt đã nhiều...
- Rồi em sẽ thấy anh giữ lời...
Thấy tội nghiệp ghê. Ma quỷ mà biết giữ lời hứa. Nói vậy chứ tôi thực sự không biết mình muốn gì để gây áp lực cái lão trác táng. Tôi nã bừa :
- Nhớ nghe. Vậy xin khi nào đoàn tụ với Du Nương làm ơn cải chính giùm trước giờ ông chưa lấy cái chi của tôi, phần tôi không hề đeo ông vì tiền bởi chưa nhận của ông đồng xu teng nào ngoài bịch hạt dưa ông cho hồi Tết năm ngoái, trong có kẹp miếng giấy ghi nắn nót bằng mực parker xanh đây em nghìn hạt vui hồng...
Yêu sách vớ vẩn chơi cho qua chuyện, ngờ đâu nghe đến đây bỗng dưng lão buồn hiu, mặt cúi gằm, miệng lí nhí :
- Anh là thằng đáng chết.
Khi xe tới Long Thành đã 10 giờ đêm. Mò mẫm một hồi mới tìm ra cái nhà trước đây đã đến duy chỉ một lần hôm đưa dâu. Hai ông bà già đang ngồi xem tivi. Có khói nhang tỏa ra từ cái tủ thờ quá khổ sừng sựng chiếm nửa phòng khách. Vài tràng hoa cườm dựng xiêu xiêu trong góc. Không khí còn thoảng mùi tang. Bác gái mời, giọng nguồi nguội:
- Cô Dung vô nhà. Ghé đột ngột, chắc có chuyện gì gấp? Hai mẹ con nó khỏe cả?
- Dạ khỏe.
Đến đây tôi cứng họng, hết biết nói gì tiếp.
Lựng bựng một hồi, tôi nói như đột ngột bị đồng nhập:
- Cháu đi công tác gần đây, sẵn tạt qua thăm hai bác chút xíu xong phải trở lộn ra lộ sớm, sợ hết xe về Sài Gòn. Khuya quá rồi. Với lại, chị Du cháu nhắn có tìm thấy mấy dòng trăn trối của anh Kiên để lại dặn gia đình tuyệt đối không nên cúng kiếng vì làm như vậy anh thêm nuối, đi không đành.
Nghe đến đây bác gái nhoài người ra sàn nhà khóc hu hu, trong khi đó bác trai từ chỗ ngồi trong ghế bành đưa mắt ngầu ngầu nhìn tôi căm căm. Ánh nhìn này hẳn vần vũ trong hai hốc tối lâu rồi, vì tôi thấy nó đã sẫm xuống cái màu chịu đựng, không có mấy tí dữ dội. Thấy tình hình hơi căng, tôi đi giật lùi ra cửa, mười ngón tay cài nhau chụm trước ngực xá xá, miệng lập bập:
- Vậy thôi cháu xin phép hai bác.
Không đợi họ nói gì thêm tôi cứ vậy mà nhắm mắt đi một mạch ra quốc lộ không ngoái cổ lại.
Có một luồng khí lạnh trườn ngược từ dưới xương cụt lên 7 đốt xương cổ rồi xộc vào óc. Cảm nhận rõ ràng nó đang len chi chít trong 32 đôi dây thần kinh tủy sống khiến chúng căng rung. Tôi rùng rùng toàn thân mở choàng mắt ra dáo dác. Mình đang ngủ ngồi trên giường, vậy mà tưởng đang khặt khừ trên xe đò. Nhìn đồng hồ dạ quang treo gần tủ lạnh thấy gần 2 giờ sáng. Quạt trần đang vù vù phát ra tiếng tạch tạch xè ở mỗi vòng quay. Lùa quyển sách đang đọc dở xuống đất, vói tay tắt quạt, chuồi người vào chăn, nghe da se se ơn ớn như muốn bệnh. Tôi cố dỗ giấc.
Giấc ngủ bắt lại sau nửa đêm làm hụt chuyến xe sáng đưa đón công nhân hãng dệt. Khi tôi thức dậy nắng đã hanh hanh ngoài hàng hiên. Xóm nhỏ huyên náo bắt đầu ngày với một giàn giao hưởng qui mô gồm đầy đủ các loại đàn dây, kèn hơi và bộ gõ. Tôi lọ mọ đánh răng rửa mặt nghĩ hay là mình nhân tiện nhõng nhẽo với tay quản đốc, gọi điện thoại nói anh Mười Trí à, bữa nay xương cốt em rục rã, anh nhờ cô Vân đứng máy giùm, tuần sau em lấy hai ca.
Trái với dự đoán của tôi, quản đốc giẫy nẫy:
- Thôi đi cô nương, hôm nay cuối quý họp bình bầu chọn ứng viên Bàn Tay Vàng. Em vắng mặt mất điểm ráng chịu.
Tôi làm bộ kêu lên tiếc rẻ chết cha, vậy hả vậy hả nhưng mắt lom lom ngó tờ lịch tháng treo tường, đoạn búng tay đánh tróc, lão Kiên! Nếu đúng như những gì người ta tin về hai cõi âm dương, hôm nay mới thực sự là ngày lão từ giã chốn trần gian để đi đền tội dưới kia, nơi lão sẽ chẳng còn ai để ba đía mỗi tối hay chạy tới chạy lui tung tin lá cải giúp vui thiếu phụ cô đơn.
- Anh Mười, em bệnh thiệt, cả đêm bị vọp bẻ không đứng ngồi gì nổi đâu! Anh cứ ban cho em một bàn tay sắt cũng được, nhưng nhớ bọc nhung nghe!
Bên kia đầu dây quản đốc cười ha hả ra chiều thích thú.
- Em không đẹp nhưng có duyên ác, chả bù con mụ vợ của anh, nó bị liệt cơ môi làm anh triệt luôn dây thần kinh cười.
Với một ngày thênh thang trước mặt, tôi bắt đầu bằng nửa gói xôi bắp và một viên thuốc cảm. Tằng hắng lấy giọng như sắp phát biểu trước đám đông, tôi nghiêm chỉnh ngồi vào bàn, xắn hai tay áo lên sẵn sàng nghênh chiến với cái gọi là bụi mờ của quá khứ. Đầu tiên tôi ghi lại tất cả những buổi trò chuyện với lão Kiên, phăng ngược các chi tiết và ngày giờ những lần lão ghé về thăm nhà, so sánh các sự kiện thật và giả, đúng và sai. Khó nhất là việc kiểm chứng lại chuyến xe đò về Long Thành đêm hôm qua, đặt biệt lúc tôi rời nhà ông bà cụ đi bộ ra quốc lộ. Tại sao sau đó ký ức chợt trắng xóa? Bằng cách nào tôi đã về được nhà để ngủ ngồi ngay trên giường chứ!
7.
Khoảng hơn 6 giờ chiều trời đang ngà ngà bỗng sa sầm. Mưa đánh rầm kèm theo gió quất rào rào nghe như có người vãi đậu trên mái tôn. Từ lúc bảnh mắt ra, tuy đã tỉ mẩn săm soi từng ngóc ngách của vấn đề, mọi thứ càng lúc càng rối tinh rối mù như mớ bòng bong khiến tôi chưa phanh phui ra được manh mối chi thì đã sắp hết một ngày nghỉ bệnh. Vói tay định bật đèn bỗng ghe giọng quen quen:
- Cứ để ui ui vậy dễ nói chuyện.
Xung quanh là một khối xám và sệt của đêm đến sớm, không biết lão Kiên đang đứng phía nào. Tôi xoay người qua trái qua phải, hỏi dò để định hướng:
- Ủa, sao còn cà rà ở đây?
- Đến cám ơn em về phi vụ Long Thành. Du Nương thì ổn rồi; cá một ăn mười còn lâu nàng mới lập bàn thờ cúng cầu siêu. Anh chỉ lo phía ông bà già, nhưng may quá em đã can ngăn kịp thời.
Hóa ra lão đang ngồi trên mép giường sau lưng. Giọng lão tưng tửng, có vẻ giỡn. Tôi nói:
- Tôi chưa kịp động thủ.
- Xạo. Tối qua em về đến nhà khuya lắc khuya lơ.
- Ký ức trắng xóa.
- Đó là vì em đã ngủ một giấc ngon lành không mộng mị ngậu xị.
- Ai đã đi bộ ra quốc lộ đón xe về Sài Gòn?
- Lương tri của em.
- Tôi có thứ đó hả? Nó đi bộ sao?
- Chậc, nàng Du đã diệt sạch của em lòng tự tín. Nàng phun thuốc diệt cỏ Paraquat.
- Bọn ly tách chén dĩa sao hôm nay không nghe trỗi nhạc dàn chào?
- Vì xe lửa chưa đến giờ băng qua cổng số sáu.
- Ông làm tôi muốn bệnh.
- Không phải anh. Cây quạt trần. Sau này đừng để quạt quay đêm vù vù như vậy; có người sáng ra đã quay cu đơ.
- Vụ vượt biển của Du Nương là sao?
- Em thừa biết nàng sẽ không để cu Diên lớn lên ở một nơi ai cũng quen nhau.
- Chân trời tím ?
- Ai chẳng hoài mơ một chân trời, sắc độ tùy gu thẩm mỹ.
- Mô-tơ có thật ?
- Em có thể trụ lâu với một thằng chồng vừa khốn nạn vừa chết máy trong tình yêu?
- Phục hận rồi ân hận ?
- Yếu tố cá nhân ít thôi em. Trong mọi vụ tự tử, tác động gia đình và xã hội thường là thủ phạm giật dây. Cái này ông Emile Durkheim nói chứ không phải anh, nhưng anh đã làm như ông ta nói.
- Đây em nghìn hạt vui hồng...
- Anh đã có bâng khuâng, và hổ thẹn nữa.
- Hổ thẹn vì đã bâng khuâng ?
- Vì đã bôi đen một hình ảnh mà trước đó Du Nương đã cố tình làm cho bê bết bằng những bệt màu tối.
- Tại sao ông lấy nàng Du ?
- Để có cảm tưởng mình về đích và đã ghi bàn thắng.
- Ông tìm hạnh phúc theo tinh thần thể thao thế vận hội?
- Kiêu hãnh giống đực là chiến lợi phẩm có được từ giống cái.
- 50 ngày rồi, sao không đi mà đầu thai đi?
- Buôn thần bán thánh như em lại tin ở nhang khói ?
- Vậy sao ông mè nheo nài nỉ tôi về Long Thành ?
- Không phải anh. Sự cô đơn khiến em tưởng mình muốn giữ con ma lại để đốp chát cho vui trước khi ngủ. Y như em đang đọc Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh.
- Thiên cơ bất khả lậu. Ông đã thọp thẹp với tôi về vụ Du Nương vượt biển một ngày trước khi nó xảy ra.
- Em trộn thời gian với trí tưởng tượng, vo viên nó thành tiểu thuyết rồi nhóp nhép nhai ngậm như ăn xí muội.
- Ông là ai?
- Lương tri của em. Hihi.
- Nó đi bộ, nên chậm ?
Lão này hôm nay phá lệ, sẵn sàng trả lời tất cả các câu hỏi mà thường khi lão cho là ngớ ngẩn thay vì chạy biến như mọi khi. Thấy lão cà rỡn, tôi đổ quạu, đứng dậy bật hai ba ngọn đèn cùng một lúc rồi la lớn vào khối ánh sáng chan hòa xung quanh, giọng lạc :
- Hãy đi đi, cái lương tri. Và đi nhanh lên.
Nghe thì có vẻ hai bên đều diễn, õng ẹo làm dáng, nhưng thật sự là chúng tôi đã trò chuyện như thế gần hết buổi tối. Bị xua kiểu đó lão chỉ còn nước lộn trở lại Bidong theo hai mẹ con Lãng Du định cư ở nước thứ ba. Ngày hôm sau tôi thức dậy tỉnh mỉnh, đón xe buýt đưa rước công nhân hãng dệt đúng giờ như thường lệ. Mất danh hiệu Bàn Tay Vàng nhưng vẫn còn bàn tay sắt bọc nhung của tay quản đốc. Nhịp sống đều đặn tiếp diễn, có mòi dễ thở. Mỗi sáng mặt trời vẫn lên, vòng xe vẫn quay. Lão Kiên thôi trở lại, và tôi yên chí mình chẳng còn sót tí tẹo lương tri nào để thỉnh thoảng tự cật vấn. Kỳ diệu là chính tôi đã trục cái âm khí quỷ ám ra khỏi nhà chị Du kịp lúc chủ tịch phường 3 tiếp quản nó. Đã đến lúc tom góp đồ tế nhuyễn, quay về hẻm chùa.
8.
Thấy vụ này quai quái, tôi biên tập lại những buổi trò chuyện với lão Kiên, thêm thắt chi tiết, dựng đứng một vài cảnh ngộ, biến nó thành truyện huyền bí hù thiên hạ chơi, đầu truyện ghi rõ không nên đọc lúc nửa đêm, xong gửi chui cho một tạp chí văn học hải ngoại được đánh giá là cấp tiến, đăng tả-pín-lù bài vở phe ta phe địch. Thật bất ngờ, ít tháng sau tôi nhận được thư mời lĩnh nhuận bút chợ đen qua trung gian người môi giới, kèm theo là mấy lời khen nhã nhặn khích lệ gửi thêm sáng tác mới.
Không phải tôi muốn trở thành nhà văn hay làm thêm để tăng thu nhập. Âm vọng từ những bài thơ chép trong tập giấy pơ-luya hồng, mớ tiểu thuyết diễm tình với những nhân vật thuộc thế hệ lạc loài mất phương hướng, tư tưởng hàn lâm siêu hình của các triết gia nội ngoại, nhạc vàng với ca từ đầy dẫy những ngu ngơ thụy du vô thường miên trường tinh cầu ngã son vàng lả tả ... bấy lâu nay ngủ đông đâu đó, bỗng chỗi dậy xô giạt các công thức hình học đại số, lao động tiền lương, kết toán cuối năm, ca đêm trực hãng dệt, thi đua bình bầu... Những câu chuyện của tôi mang khí hậu nhiệt đới oi oi âm ẩm lồng trong bối cảnh ma quái đầy ám ảnh dĩ vãng có vẻ như hợp khẩu vị độc giả Việt kiều xa quê. Thời kỳ này tôi nhũn xuống, mềm đi. Chỉ là nhu cầu bày hàng cảm xúc thôi, nhưng khi viết tôi thấy thống khoái như đang rong chơi với một người bạn đường đồng điệu. Người bạn này không lêu lêu mắc cỡ lé kim liếm ke hay Dũng-Lang Lãng Dung. Đại khái là ban ngày đứng làm việc xác, ban đêm ngồi vọc phần hồn. Không thể có sự quân bình nào tuyệt đối hơn.
Sực đếm ngược thấy thấm thoát đã gần 10 năm tính từ cuộc ba đào của chị Du. Không lần nào chị về thăm. Thằng cu hẳn sắp xong trung học. Mẹ nhiều tóc bạc hơn nhưng lưng vẫn thẳng trong khi ông Dũng càng ngày càng cong vẹo. Yếu rồi. Chỉ ngửi ngửi chút đế đã lừ đừ, làm như trong người có sẵn hèm, hơi cồn bay thoảng qua cũng đủ làm dậy men. Nội công chửi thề cũng xìu, miệng ú ớ phát ra hết nổi hai chữ đụ mẹ vành vạnh như trước kia. Tôi được tay quản đốc tin dùng, cất nhắc lên làm phó phòng nhân sự, thôi đứng máy. Lực viết vẫn vậy, đều đều tâm cảnh nhiệt đới với các nhân vật không ai khác hơn là người trong nhà, không có dấu hiệu đột phá hay cách tân khiến các nhà phê bình văn học lúc đầu nhấp nha nhấp nhổm, nay chỉ ngồi ngáp ruồi ứ hự. Lâu lâu chị Du gửi về 100 đô-la cho mẹ ăn trầu. Chị quên là dạo phải chắt bóp từng đồng mua gạo, mẹ đã trải qua thời kỳ cai trầu vất vả thấy thương đứt ruột.
Giữa lúc mọi thứ như đã vào nếp, kể cả nếp nhăn cuối hai đuôi mắt mông lung của cô em gái nay đã 30, chị Du gửi thư về tỏ ý muốn bảo lãnh mẹ qua Mỹ. Trong thư chị kể chuyện đi làm phải lái xe rất xa giữa trời tuyết, chuyện chị đi học lại, vừa lấy được bằng cử nhân trễ tràng ở tuổi 40, chuyện thằng cu rất ngoan biết săn sóc khi mẹ bệnh, chuyện chỗ ở gần chợ có bán cả trầu cau. Cuối thư chị không quên kèm thêm một câu mặn chát, mẹ đừng để con Dung giặt quần áo dơ ở máy nước công cộng. Mẹ tôi hỏi, chị Hai mầy nói vậy là sao ? Tôi cười một mình đắc thắng. Chị Du, vì lý do nào đó, vẫn theo dõi cuộc chạy bộ việt dã của con nặc nô.
Để xúc tiến giấy tờ xuất cảnh, tôi phải đưa hai ông bà già 70 tuổi lụm cụm ra tòa án nhân dân quận làm thủ tục ly dị tuy trước giờ họ chưa hề có giấy hôn thú. Luật pháp gọi đó là hôn nhân xã hội vì hai cụ đã có 30 năm chung sống như vợ chồng xóm giềng ai cũng biết. Tôi được giải thích rằng việc ly dị đơn giản chỉ để làm cho thủ tục xuất cảnh của bà cụ được dễ dàng, không bị ràng buộc tài sản chung. Hiểu vậy nhưng vẫn thấy oái oăm, mặc dù trong những năm qua đã biết bao nhiêu phen tôi muốn rủ mẹ bỏ trốn lần nữa mà không phải nhờ đến pháp luật. Nhà ái quốc biết phận, chẳng những không đòi xuất ngoại còn khẩu khí bảo :
- Sang đó khó chơi. Muốn giấy tờ chi tao ký tuốt miễn mẹ tụi bây sung sướng tuổi già.
Bà thẩm phán nheo nheo mắt tra vấn từng người vì tò mò hơn là nguyên tắc. Tới một lúc tự dưng ông Dũng mếu máo :
- Tôi còn thương bả lắm, bởi thời cuộc đưa đẩy mới ra nông nỗi này.
Mẹ tôi hứ một tiếng rồi quay ngang.
Lình xình giấy này giấy nọ cũng lâu mẹ mới thực sự chuẩn bị cho ngày đi. Trước khi rời nhà mẹ đi vòng vòng vừa sờ món này nắn món nọ vừa quệt nước mắt. Cầm cả hai tay của tôi bóp bóp, giọng mẹ rớt ra từng mảng :
- Thôi con ở lại rán lo cho ba, ổng già rồi chắc không còn sống được bao lâu ; chị con số phận chìm nổi phải vượt sông vượt biển tính mệnh lắt lẻo vậy mà bây giờ mẹ đường hoàng bay trên trời thật quá bất công...
Ông Dũng đang sần sần ngồi gần đó nghe vậy đâm hơi :
- Giày dép nó còn có số...
Hai người có nhìn nhau một khắc, tình như một đường gươm... Không ngờ đó là nhát cuối cùng họ đả thương nhau.Tôi đưa mẹ ra phi trường, hai mẹ con ôm nhau hoài đến nóng cả ngực.
Mẹ khuất trong kia rồi tôi còn đứng nán lại rất lâu, mắt nhìn xuống chỉ thấy chân người rộn rịp đan mắc chằng chéo với hành lý kéo rèn rẹt trên sàn gạch trơn bóng. Họ nô nức đi đâu vậy, có bao nhiêu tâm trạng ? Phần lớn chắc hăm hở đi tìm chân trời mới, chỉ có mẹ ê chề nghĩ chính ở cái lằn tiếp giáp với mặt đất đó, mặt trời sẽ lặn xuống. Nói theo lão Kiên, ai cũng ôm ấp một chân trời, sắc độ tùy gu thẩm mỹ. Gu của mẹ giờ đây là màu vàng cam đang ngã tía và bầm. Thử tưởng tượng xem mẹ sẽ làm gì nơi đó ? Xần quần trong căn hộ chung cư của chị Du trong khi chị đi làm, thằng cu đi học, cuồng cẳng nhưng không biết đường sá để có thể trưa trưa chụp cái nón lá lên đầu đi bộ qua nhà bà giáo Lương nói chuyện chợ búa chơi, trời lạnh co ro nằm đến xoạc cả tóc tai, vật dụng trong nhà không dám mó tới sợ cháy nổ... Mẹ đi vì mỏi mệt. Mẹ đầu hàng cuộc kháng chiến trường kỳ của ông Dũng, dù ánh nhìn vẫn còn bén mà không ác và xương quai hàm vẫn cứ vuông vuông.
Còn chân trời của tôi màu gì ? Chắc như đinh đóng cột, màu tím không phải gu tôi. Nó phải xanh lá cây, vì thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ điếng khu vườn bao quanh căn nhà ba gian hai chái ở Vàm Mương. Có khi nó có màu nâu quạch của đất, đỏ tươi của chuồn chuồn, trắng ngà của bông dừa rụng đầy lạch nước sau hè. Hiện giờ nó màu gì vằn vện thấy ớn. Đã đến lúc xếp đặt lại cuộc đời một lần nữa. Ôi, sao chỉ có một cuộc đời mà cứ phải làm đi làm lại hoài phát mệt.
Không thể bỏ ông già 70 lớ ngớ một mình cả ngày để bươn chải cho chuyện bá láp bá xàm ở hãng dệt, tôi nộp đơn xin thôi việc. Lương lậu ổn định nhưng tính ra không bao nhiêu, nhu yếu phẩm theo tiêu chuẩn công nhân viên thì ai nấy cũng đã ngán ngược chuyện chia chác lụn vụn, gây thù chuốc oán, nói hành nói tỏi miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan lên đầu. Mỗi người cố sức làm như chỉ có mình là thanh cao. Cầm lá đơn, quản đốc ớ ra, nói một câu na ná kiểu ông Dũng phê lão Kiên :
- Bức xúc gì anh em tính cho, sao lại nghỉ việc ?
- Anh Mười thông cảm, ba em già quá rồi, nhà lại neo đơn không có ai trông nom. Em đã được anh em giúp đỡ rất nhiều trong thời gian dài làm việc ở đây.
- Rồi em làm gì để sống ?
- Có chị Bảy ở gần nhà rủ em hùn hạp bán cơm tấm cho khách trong xóm.
- Bán như vậy mỗi ngày được bao nhiêu đâu ! Em suy nghĩ cho kỹ, cần gì nói anh giúp cho.
Quản đốc tử tế thật. Ngoài cái miệng bông lơn tán phét với đám thợ nữ cho vui qua ngày, ông ta không hề bốc hốt suồng sã. Nghe thì tưởng âm mưu lừa con phản vợ rủ các em gái ngồi quán cà phê với ý đồ đen tối, thực sự ông ta chỉ muốn giao lưu tình cảm vu vơ để châm cứu dây thần kinh cười vốn bị triệt vì có mụ vợ bị liệt cơ môi. Nghe giọng cười ha hả hào sãng thì biết người lành. Vậy chứ đã có lúc tôi hiểu lầm nghĩ đàn ông là cái thứ...
9.
Phải khởi sự từ đâu đây. Sáng đầu tiên sau khi nhận quyết định đồng ý cho thôi việc, tôi cho phép mình không hấp tấp, rề rà pha cà phê, chiên cơm nguội còn dư chiều hôm qua. Ông Dũng đã dậy từ hồi nào, không thấy dấu hiệu sẽ ra khỏi nhà. Hôm nay lại thêm món tọa thiền. Mắt nhắm tịt, chân quặp kiết già, hai tay bắt ấn. Thiền nhưng miệng mấp máy như đang cầu kinh. Tôi se sẽ đến gần ghé tai nghe thử. Nam Mô A Di Đà Phật Mười Một, Nam Mô A Di Đà Phật Mười Hai... Hú vía, không phải đụ mẹ. Ba tôi đang tu, nhưng kết hợp nhiều phương pháp, còn cẩn thận đo đếm công quả, kiểu người ta lần tràng hạt. Càng nhiều hạt càng mau thành chánh quả tuy không ai biết rõ giá sát trần là bao nhiêu. Cảm thấy có người đứng gần, ông bỗng mở choàng mắt ra nạt lớn làm mất vía:
- Rình cái gì?
- Dạ, ba ăn cơm chiên.
Tôi cười lỏn lẻn làm hòa. Từ nay chỉ có hai chúng ta, có muốn chạy trốn hòa bình cũng không được. Chắc ông cóc biết tôi đang hi sinh. Mẹ có để lại một ít tiền, hai chiếc vòng tay cẩn hổ phách, một đôi bông tai hột đá đen, một mặt dây chuyền cẩm thạch, dặn dò nức nở, mấy món kha khá mẹ đã nộp cho dì Ngọ hết rồi, chỉ còn chừng này; đây là của hồi môn bà ngoại cho lúc mẹ lấy ông Dũ, bây giờ là của con; chị Hai con may mắn lấy được thằng Kiên khá giả nên mẹ không cho nó gì nhiều; thôi lo mà kiếm chỗ tử tế đừng có lông bông thơ văn, thấy mấy thằng mang kính trắng trước đây ve vãn chị mầy không, có thằng nào ra đám ớt gì đâu; tội nghiệp con bây giờ gánh thay mẹ cái hũ… Sao mẹ không nhận ra tôi đã lủi thủi suốt những năm ấu thơ, quắt queo cả tuổi xuân cũng vì cái hũ đựng hèm mẹ ôm suốt 30 năm. Nó làm tôi té chúi nhũi bởi còn một đầu vẫn nhẹ tênh. Tôi lấy đâu ra tình yêu ém đầy thêm hũ nữa cho cân cả hai đầu? Bây giờ đổ thừa cho ông Dũng thì giải quyết được gì chứ? Tôi chợt làm mặt nghiêm:
- Con nghỉ việc rồi. Ba cũng nghỉ nhậu đi.
- Thì ba cũng tính vậy.
Giọng ông chùng xuống, có vẻ lép vế. Nghe sao dễ ợt như húp cháo. Tôi hỏi đố:
- Ba nói thiệt?
- Yếu rồi con…
Chữ con được kéo dài ra nhề nhệ làm như không thể ngưng. Đàm trồi lên làm ông khò khè một lúc nhưng cố nén lại trước khi khạc ra. Nó đặc queo và có màu vàng chanh.
Trụ sở cơm tấm được đặt ngay trước hàng hiên nhà tôi, ngang nửa mét dài 3 mét. Chị Bảy phụ trách đi chợ và tiếp khách, tôi nấu cơm làm bì pha nước mắm ớt. Khi thấy làm ăn coi bộ được, tôi bổ túc thêm món chả trứng. Tổ trưởng thông cảm hoàn cảnh cho buôn bán lẻ nhưng dặn trên phường có xuống thì nói nấu cho trong nhà ăn, đừng để khách chiếm lòng lề đường. Ông Dũng thấy có người lui tới, biết phận lui ra sau ngồi thiền gần hồ xi-măng dưới bếp. Có lúc bị ma men hành tội, ông xỏ chân vô quần dài định lên đường cứu nước, nhưng chỉ mới loạc choạc đưa vô được một ống thì đã loạng choạng muốn té. Con, buổi sáng bán cơm tấm, buổi chiều chuẩn bị các thứ cho ngày hôm sau, buổi tối nuôi phần hồn; cha, nỗ lực tu, đồng thời hạ quyết tâm kháng chiến chống lại kháng chiến. Đại để là sinh thái cân bằng, chỉ có mẹ thỉnh thoảng viết thư về than mập và buồn; có hồi đòi chết nhưng hễ trời lạnh thì than nhức xương không biết làm sao, phải chi ở nhà đã thoa dầu nóng, ở đây cửa kính tứ phía xức dầu nó bảo làm hôi nhà.
Việc mẹ ra đi có vẻ như đã giải quyết phần nào thảm kịch, ít nhất cũng làm thay đổi đáng kể mối quan hệ giữa hai cha con, nhưng khi nữ thánh tử đạo vừa ngưng than thân trách phận thì mọi hoạt động bài tiết của ông Dũng bỗng tuột ngoài vòng kiểm soát. Bây giờ mới thực sự vác thánh giá nè. Nhà luôn có mùi phân và nước tiểu dù tôi đã cật lực dùng bàn chải tre cọ rửa với xà bông bột. Quần áo nhà ái quốc, tuy vò vắt muốn thúi móng tay vẫn phảng phất mùi thum thủm. Cũng may xóm nhỏ bình dân không hôi rác thải cũng bốc mùi cống mùa mưa, dân chúng cứ hồn nhiên ăn điểm tâm ở sạp Bảy-Dung không nhận thấy có gì khác lạ. Mấy cô chú trong hẻm còn khen ông già lúc này im ru bà rù, giữa khuya lũ chó hết sủa hoảng, con nít thôi giật mình khóc đêm.
Ông Trời thương cả hai cha con, hay việc tu hành của ông Dũng đã hiệu nghiệm? Chiều chủ nhật, trong khi tôi đang trộn thính dưới bếp thì nghe đánh rầm ở nhà trước. Đạo sĩ té lộn đầu từ đi-văng xuống đất nhưng vẫn giữ tư thế ngồi quặp chân. Lúc ấy, kỳ lạ thay, điều duy nhất nhá lên trong đầu tôi là đường gươm loang loáng hai ông bà già đã chém nhau ngày mẹ lên đường đi Mỹ. Vết thương đó chưa kín miệng, chắc chắn còn làm đau rát cả hai, vì tính ra chỉ mới ngót nghét 3 tháng.
Đám tang đơn giản và lặng lẽ. Nhà đòn đã phải làm đủ cách để kéo thẳng chân người chết trước khi liệm. Hình như họ đã bẻ răng rắc hai bên nhượng như bác sĩ chỉnh hình chuyên nghiệp. Tôi đã đắp cho người hùng tấm mền gấm màu rượu chát mẹ khâu tay trước đây để chuẩn bị cho chung cuộc của chính mình. Viết thư cho mẹ, tôi vẫn khoe ở nhà bình yên, cơm tấm đắt khách, ông Dũng đang trên đà đắc nhân tâm.
Tôi có cảm thấy nhẹ nhõm vì cuối cùng đã vác thập tự đến nơi mình sẽ bị đóng đinh? Lôi xềnh xệch và bị đóng cạch cạch tòn teng trên kia, cái nào đau dây dưa hơn?
10.
Ông Dũng tằng hắng:
- Nên nhớ, kẻ vác thánh giá và bị đóng đinh là một, phải chịu mọi khổ hạnh.
Tôi tỉnh táo nghĩ, lại nữa rồi. Lão Kiên nói tôi thường vo viên mọi thứ thành tiểu thuyết rồi nhóp nhép nhai ngậm như ăn xí muội. Nhưng ngó kìa, ba tôi đang ngồi kiết già trên bàn thờ, một tay tì trên gối trái, tay phải giơ ngón trỏ nhịp nhịp chỉ xuống chỗ tôi ngồi. Tôi vặn vẹo:
- Ba có vẻ an nhiên tự tại như Đức Chúa Trời sau khi gửi đứa con duy nhất của mình xuống thế để thực thi điệp vụ bất khả.
- Xì, ông đó hả? Rất lôi thôi. Nghe ba nói đây, ái nữ. Nếu ông ta không muốn Adam và Eva ăn trái cấm, sao không trồng cái cây ôn dịch chi đó bên ngoài vườn Địa Đàng, lẫn với đám cây rừng đàng xa kia? Khi đã trồng sai địa điểm rồi, tại sao sơ suất không cài bảng cảnh báo hay rào chắn khiến bất cứ ai cũng có thể gặp nguy hiểm. Đã vậy lại còn chỉ, đó cây đó đó. Có phải là vẽ đường cho hươu chạy không? Ông ta đơn thân lập pháp xong tìm cách dụ cho người ta phạm pháp để có cơ hội hành pháp. Rốt cuộc như con biết, ông ta bắt con mình chịu tội cho những gì mình gây ra nhưng lại đổ thừa cho cái đám lôm côm là chúng ta đây.
Hoan hô bài thuyết trình, nhưng sao nghe quen quen. Hình như nhân vật luật sư của Paulo Coelho đang truy tố chứ không phải ba tôi. Mà tự nhiên đưa ra vấn đề này để chi?
- Vậy ba ngon hơn?
- Chứ sao! Ba đã không để con đau đớn lâu.
Tôi bật khóc, giọng kể lể:
- Ba đã không đếm xỉa chi đến con.
- Có chứ con. Nhưng con ma men nó hãm, không cho ba nói với con thậm chí một lời xin lỗi.
- Ba đổ thừa cho ma quỷ?
Ông Dũng im bặt, thu ngón trỏ lại chậm rãi đặt ngửa bàn tay lên gối phải, khoan thai bắt ấn. Trong căn nhà quạnh quẽ hai tuần sau đám tang, chỉ còn mình tôi ngồi khóc thê lương, ai oán như bị xử oan. Ngọn đèn chong trên bàn thờ hết dầu lụi dần rồi tắt ngúm. Bỗng có giọng mai mái, giêu giễu :
Khóc cho vơi đi những nhục hình
Nói cho quên đi những tội tình
Đời con gái cũng cần dĩ vãng,
Mà em tôi chỉ còn tương lai...
Tôi ngó quanh quất vừa hỉ mũi vừa hỏi, giọng nghẹt :
- Đứa nào hát Bài Không Tên Số 4 dở ẹc vậy ?
- Buuhuuuu ! Ma Việt Kiều nè ! Sợ chưa ?
Lão Kiên ! Tưởng lão đã đi đầu thai tuy trễ một ngày, đâu ngờ xuất cảnh theo vợ con cả chục năm, nay còn bày đặt hồi hương. Hay là lương tri mình đang lội bộ về ? Dạo này lão ta có vẻ mất tư cách viên chức cần mẫn. Chị em phụ nữ, hãy cảnh giác !
- Hừ ! Về thăm quê cha đất tổ ? Còn nhớ hẻm chùa ?
- Nhà đàng kia có gia đình ông kẹ nào quản lý rồi.
- Dạo này ông làm ăn khá không, thấy coi bộ vui ?
- Làm ăn gì đâu em ơi ! Đi chăn thằng nhỏ coi nó học hành ra sao.
- Bây giờ thì tôi cầm chắc là ông trường kỳ yêu nàng Du, và thương con nữa.
Lão Kiên trầm ngâm một lúc, đoạn xuống giọng bùi ngùi :
- Chỉ có em cảm nhận được điều đó. Du Nương vẫn coi anh như ác mộng. Thỉnh thoảng nàng lại ngoái cổ ra sau ngó chân trời cũ nay đã ngã sang màu khói lam chiều. Nàng cũng thường nhìn trân trân thằng cu Diên rồi rùng mình bảo giống quá, giống ông Kiên phát sợ ! Cũng cái đầu dèm dẹp, lưng dài thòn, đùi ngắn ngủn.
- Ông nhập vô thằng nhỏ hả ?
- Đâu có. Di truyền mà. Dốt quá trời, không biết chi về gien lặn gien trội!
- Vậy lúc này tình hình sao rồi ?
- Xấu. Du Nương dọn nhà hai lần vì đổi việc, thằng cu bỏ học kêu chán, không thích bị người ta dạy, bà cụ u ám đòi về Việt Nam.
Từ trên bàn thờ ông Dũng bồn chồn hỏi vọng xuống :
- Nè cậu Kiên, bà Lang biết tôi cưỡi hạc qui tiên chưa ?
- Dạ chưa, nhưng cụ nói dạo này một bên mắt máy lia chắc ở nhà có chuyện không hay.
- Có chuyện hay, tại bả không biết. Tôi với con Dung làm lành với nhau, huề một đều rồi. Mấy tháng cuối nó lo cho tôi rất đàng hoàng, chỉ phải cái tật hay than trời trách đất. Tôi nói hoài, giày dép còn có số mà nó không nghe, lại còn lý sự cùi, hứ, vác thánh giá với lại đóng đinh.
- Dạ, em Dung đọc nhiều sách nhưng thiếu người hướng dẫn.
- Hồi trước chị Hai nó nhắc chừng chừng, giờ không có ai dạy nên hư.
Tôi chen vô cãi :
- Hư, mà từ hồi muốn...
Lão Kiên thấy căng, lái câu chuyện qua hướng bang giao quốc tế :
- Thưa, ở trên tiên chắc khỏe ?
- Đâu có biết. Cậu là đà dưới này miết, thần thức u mê không tỏ đường đi lối về, quên hết việc sổ sách của Nam Tào Bắc Đẩu. Tôi còn ở đây chơi với con Dung hơn cả tháng nữa mới đi. Mà cũng chưa chắc sẽ lên đó. Có một đám bạn nhậu rủ tôi về tái lập trụ sở ở Vàm Mương tạo điều kiện cho anh em hoạt động lại.
Tôi đứng dậy châm dầu vô cây đèn chong, khêu lại tim, thở đánh thượt :
- Thôi, họp mặt gia đình hôm nay như vậy là vui quá rồi. Ba nghỉ ngơi. Ông Kiên đi thăm bà con một vòng đi, hôm nào gặp lại. Tôi phải đi cắt tóc xả xui trước khi làm lại cuộc đời.
Độ chừng mươi ngày sau buổi tọa đàm với ông Dũng và lão Kiên, chiến sĩ gái với mái tóc mới cắt tém tự nhiên cảm thấy hưng phấn như vừa phục sinh. Trong người nghe vang vang rầm rập âm điệu những bản hùng ca.
Mãi mãi lòng chúng ta, ca bài ca người lính
Mãi mãi lòng chúng ta, vẫn hát khúc quân hành ca…
11.
Đã quyết định rồi, phải làm lại cuộc đời. Đời mình chứ đời ai, mình không làm ai làm giùm cho. Trước hết cương quyết không lây lất kiếp công nhân viên nhà nước. Quay trở lại hãng dệt chỉ cần nhỏ nhẹ vài lời, quản đốc sẽ cho nhận việc lại ngay coi như vừa nghỉ phép hơn 3 tháng không ăn lương, nhưng thôi, phải biết xấu hổ đã hứa lèo hứa cuội trong đơn xin việc. Nhớ không ? Lúc túng quẫn, đã từng thề bán mạng sẽ làm việc với tinh thần tập thể cao ngất ngưởng, quyết tâm đóng góp cật lực cho cách mạng đến giọt máu cuối cùng. Thực tế, ngày nào cũng lãn công, vậy nhưng được đề cử Bàn Tay Vàng của hãng dệt, may mà hụt không thôi mỗi ngày đánh răng súc miệng không dám ngó mặt trong gương.
Tiếp theo, cương quyết ngưng làm văn chương vớ vẩn. Nghe bà Du cảnh báo chưa ? Mẹ đừng cho con Dung giặt đồ dơ ở máy nước công cộng. Không oan. Đúng là bao nhiêu người trong nhà, cả trong xóm chùa và hẻm Lập Thành đều đã bị sơn phết cho biến thành nhân vật múa may quay cuồng ở các buổi dạ vũ hóa trang. Người nghệ sĩ nghe nói phải có sứ mệnh thay đổi thế giới, phục vụ cho cái đẹp và mang lại lẽ sống cho nhân loại. Ba cái chuyện ma quỷ chỉ để hù những ai nhẹ vía, tuyên truyền sách động mê tín, hoặc nhiều lắm là gửi gắm vài thông điệp hời hợt về khắc khoải âm dương. Để làm văn chương hàn lâm, đứng ngang ngửa với các nhà văn nhà thơ hải ngoại chỉ là ảo vọng ; so với trong nước lại thiếu hẳn màu đỏ, màu vàng.
Mục tiêu kế tiếp là nói lời tạm biệt chị Bảy, em xin ngưng hợp tác dịch vụ cơm tấm để chuyển sang nghề môi giới bất động sản. Có tiền rồi sẽ hoài mơ chân trời màu xanh lá cây. Thể nghiệm đầu tiên : sẽ đập cái nhà, dùng tiền để dành và của hồi môn xây mới xong rao bán với giá ...cảm ứng. Vì sao ? Đây đã từng là chốn thần tiên sau những ngày ở đậu nhà cậu Thân và dì Ngọ, nơi chuyển tiếp từ ấu thơ sang niên thiếu rồi thanh xuân, nơi lớn lên cùng những tác phẩm văn học trác tuyệt, nơi chợt nhận ra mình là nàng thơ của những người đàn ông mang kính trắng ve vãn chị Du, là người tình hậu phương của lính chết trận, nơi khám phá bản thân có tiềm tàng những cơn điên xõa tóc lúc nửa đêm... Ôi,
Lệ xóa cho em được không
Những kỷ niệm đắng ?
Lời nói yêu thương ngày xưa
Có trở về tìm ?
Mục tiêu cuối chắc chắn phải là Thế Uyên. Sẽ đọc Ngoài Đêm để tìm hiểu xem tại sao Du Nương cho ăn hai bạt tai 14 năm trước, sẽ kiểm chứng lại có phải trong Tiền Đồn rành rành 15 cuộc làm tình và 69 chỗ liên hệ đến dục tình như lão nhân Võ Phiến đã thống kê. Hi vọng trong khi nghiền ngẫm các tác phẩm của Thế Uyên, một nhân vật đàn ông bất thình lình nhào ra, sẽ chụp lấy cơ hội để hiến dâng cái nghìn vàng, đồng thời thầm xin lỗi Nhã Ca vì đã bê trễ. Chớ quên thỏ thẻ với kẻ được vàng, anh yêu, em đã dùng sạch của hồi môn để dựng vốn làm ăn.
Xóa nhòa khoảng cách 10 năm giữa hai chị em cùng mẹ khác cha có lẽ là điều duy nhất bất khả thi, tuy nhiên không sao, lắm khi máu chảy nhưng ruột chẳng chịu mềm do bị xơ cứng mãn tính. Chị Du sẽ ngậm cười nơi chín suối với một đùm ruột hóa đá, gọi là thạch tràng. Hi vọng lúc đoàn tụ Du Nương chốn suối vàng lão Kiên sẽ giữ lời đính chính dùm con nặc nô đã không đeo lão vì tiền. Bảo đảm lão sẽ giấu nhẹm vụ án bịch hạt dưa có kèm dòng chữ viết bằng mực parker xanh đây em nghìn hạt vui hồng. Lão sẽ không dại gì thú nhận đã có lần mình bâng khuâng và hổ thẹn, nhưng vẫn sẽ úp mở bảo con đó hư lắm cho nàng Du tưởng tượng lung tung chơi.
Tổng hợp và phân tích xong các vấn đề nêu trên, rõ ràng chẳng còn gì phải ưu tư. Các dự án này có thể sớm được thực hiện, chỉ còn chờ cúng 49 ngày cho ông Dũng không thì nhà cách mạng không chịu đi đầu thai, quay trở xuống Vàm Mương làm chính trị với các bạn nhậu. Đất nước hòa bình rồi, những tổ chức phản động cò con có nguy cơ chết từ trong trứng nước, loại lý tưởng lên men như của ông Dũng chỉ để nhấm với khô cá thiều.
Trong những tuần lễ tiếp theo, hai cha con thường trò chuyện râm ran sau mỗi lần cúng cầu siêu. Vào tuần chung thất tính từ lúc viên tịch, cuối cùng đạo sĩ đã thốt lời tâm huyết :
- Ba đã hủy hoại đời mình và làm khổ ba người đàn bà.
- Lại sắp sửa lôi con ma men ra.
- Lúc đầu ba chỉ cà rỡn với nó thôi, nhưng con này mạnh lắm, nó quay ba trong những khoảnh nhàn rỗi, xúi giục ba chớ ngu ngốc tỉnh táo nhìn lại những điều xằng bậy của ngày hôm qua ; khi bị vợ con và mọi người ruồng bỏ, nó trở thành người bạn duy nhất để ba trò chuyện với. Nhờ nó, ba đã rơi vô chân không, bập bềnh mụ mị. Cảm giác đó ít nhất cũng giúp ba xiêu vẹo bước sang ngày hôm sau.
Tôi đã mừng hụt.
- Ba vẫn thọ ơn con… bạn vàng ?
- Con ơi, ơn nghĩa gì, thứ ma đó mỗi người ai cũng có riêng một con ; có điều con ma của ba nó có mùi hèm, vậy thôi. Con ma của bà Lang là nghĩa tào khang ; nó đã ám mẹ con suốt 30 năm mới chịu buông tha nhưng vẫn bay theo tà tà trong những năm cuối đời để khều khều cái lòng trắc ẩn của người đàn bà nhân hậu.
- Chà, câu này nghe hay nè ba. Còn con ma của chị Du ?
- Bất mãn số phận, tị hiềm trộn lộn nhẫn nhục và kiêu ngạo, tự ái, tự ti lẫn tự tôn.
- Ma gì tên dài ngoằng. Ma men, nghe vừa thanh vừa gọn vừa súc tích.
- Ma tôi. Nó giục mình tàn nhẫn đánh giá người khác nhưng lại ngăn không cho khe khắt với bản thân. Còn con ư ? Con bị con ma khô nó triệt mọi dòng cảm xúc. Con ôm nó trong người làm vũ khí để tự phòng vệ, xong cười khà khà như hài lòng với hệ thống an ninh.
Phải vậy không ? Dám trúng lắm à. Tôi đã thu mình lại thành con chi chi nhỏ xíu núp trong hốc tối nhìn ra cõi đời hung tàn với lưỡng nhãn bất đồng, ngờ vực mọi thiện chí tiếp cận, nơm nớp lo mình sơ hở. Phải chăng có những người viết văn chỉ vì muốn tận hưởng cảm giác được quyền sinh sát các nhân vật, do trong cuộc sống họ vốn là kẻ chết nhát ? Có nên đổ thừa cho hiệu quả thuốc diệt cỏ Paraquat ? Dù gì, mọi thứ trong người như đang quắt lại, có lẽ rồi trong cơn hấp hối cọng cỏ cú vẫn cố ngửa cổ ré lên cười đắc thắng. Hừ, cỏ mà có cổ, lại còn biết cười ré. Buổi nói chuyện hôm nay làm tôi mất tập trung. Đang nghĩ đến việc mở cửa sổ cho thoáng chợt quay trở vô xối nước rửa nhà cầu. Đang định ra chợ mua vài món về nấu bữa cơm chay cúng thất, bỗng loay hoay đi kiếm cái giẻ để lau bụi bàn thờ.
Khúc quanh của định mệnh : tôi làm ngã cây đèn chong.
Dầu loang ra. Lửa phựt lên liếm tấm nhựa trải trên bàn thờ, bắt qua bó nhang, hực lên bức ảnh đen trắng trong đó người hùng với đôi môi hơi dày đang méo đi như thay lời muốn nói. Thoạt tiên cả ngôi nhà bỗng thơm lừng mùi chùa chiền rồi chuyển nhanh sang khét lẹt. Mình đã hỏa thiêu Hồng Lâu Mộng ! Bất cứ món gì trong tầm tay đều được chụp lấy để trùm lên ngọn lửa nhưng phản tác dụng, y như được châm thêm mồi. Bên ngoài có tiếng người la hoảng đến lạc giọng, cháy, cháy nhà cô Dung cơm tấm. Tiếng chân chạy huỳnh huỵch, khói bung xì xì. Ai đó hét lớn, chạy ra đi cô Dung ơi, chết cháy bây giờ ! Tôi quơ hũ tro cốt của ông Dũng ôm vô ngực, trên đường sặc sụa băng khói bung ra cửa thuận tay vớ lấy cây gậy đạo sĩ dựng gần cổng, hoàn toàn không hiểu vì sao.
12.
Vụ cháy nhà làm rụi hai phần ba cái lỗ mũi, táp qua mái nhà ông Tâm bên trái, bà Hương bên phải, thím Mẫn đâu đít sau lưng. Không có tổn thất về người nhưng bà con bị một mẻ hồn phi phách lạc. Mấy gia đình túm của chạy hoảng đang lục tục quay lại, tụm năm tụm ba bàn tán sôi nổi. Không thiếu những lời mắng nhiếc, quỷ sứ, bờ chờ bợt chợt, mém chút nữa cả xóm màn trời chiếu đất, cháy thêm vài phút coi như chết cả lũ, may nhờ mấy ông phía sau nhanh trí chuyền nước từ lan can nhà cô Tư Lụa, chờ xe chữa lửa là tiêu rồi, ba cái vụ cúng kiếng làm cháy nhà như cơm bữa, kiểu này bắt đền sao đây, có bà bác với bà chị bên Mỹ lo gì, ờ phải, cháy cái nhà chớ cũng còn cái địa chỉ để gửi tiền về...
Tôi bị phỏng sem sém hai cánh tay, lòng bàn chân trái chảy máu do đạp phải vật nhọn trên đường chạy ra, quần áo te tua, mặt mày không tự ngắm nghía nhưng chắc giống con ma lọ nồi. Dự án môi giới bất động sản giờ đây chỉ còn cái nền nhà nám đen, bốn mặt tường liêu xiêu lỗ chỗ, trần nhà bếp còn vắt vẻo tì trên miệng hồ xi-măng . Một tay ôm hũ tro cốt, một tay cầm gậy, tôi đứng lớ ngớ nghe chửi cho đến lúc mỏi rục giò thì ngồi xuống, chặp sau lại đứng lên. Tổ trưởng đưa cho chai nước và một tấm bạt dặn ở đó coi chừng, chờ trên phường xuống làm biên bản, chừng nào nguội nguội vô bươi moi coi còn vớt vát được món nào hay món nấy, có tiền của gì không sao coi bộ tỉnh rụi không thấy tiếc ? Tiếc chứ, nhưng con ma khô nó hãm không cho giẫy lên đành đạch khóc kể trời ơi tiêu rồi cái hộp đựng gói tiền để dành, hai chiếc vòng cẩn hổ phách, đôi bông hột đá đen, mặt dây chuyền cẩm thạch, tập giấy pơ-luya chép thơ tình...
Chiều tối có một cơn mưa nhỏ khiến không khí bớt oi, tro bụi trôi xuống làm nền nhà như dầy lên. Đồ đạc bể mẻ lôm côm vương vãi chèm nhẹp lẫn với nước mưa và nước chữa cháy. Chị Bảy lôi kéo :
- Đứng chi đây tối hù. Chắc còn lâu người ta mới nối lại đường dây điện. Vô nhà chị mà nằm nghỉ, thong thả tổ phụ nữ giải quyết cho chuyện ăn ở tạm trong khi chờ chòm xóm mỗi người một tay cất giùm cho cái chòi dã chiến. Dù gì gian bếp chỉ mới rụng cái la-phông. Nghe đồn mấy vụ như vầy trên phường trích quỹ cứu trợ ủng hộ một phần chi phí vật tư.
Tôi nói, lưu loát như có chuẩn bị trước:
- Em tính làm sạch gọn một góc bếp, lót tấm bạt ngủ coi chừng nhà. Còn nhiều món xài được, để em mót lại. Chị cho em mượn vài ngàn mua bánh mì, bán được xà bần em trả lại cho.
- Mượn gì, bày đặt. Nè cầm chút đỉnh xây xài. Bà con không bỏ rơi đâu mà lo. Còn cóc khô gì nữa đâu mà canh chừng, khùng quá trời !
Chị Bảy đi rồi tôi ngồi chồm hổm nhìn chằm chằm vào chỗ cách đây không bao lâu đã từng có cái gọi là tủ thờ. Dưới đít tủ này có một hốc bí mật, nơi trước đây mẹ thường giấu lương khô do phía chị Du tiếp tế những năm đói kém. Cũng nơi này tôi đã cất cái hộp. Nó đang nằm bên dưới gạch đá lụn vụn, ván ép cháy dở, bàn ghế bị xô gẫy. Tôi sẽ để yên cho nó ở đấy được lâu chừng nào hay chừng nấy. Đó là chút hi vọng mà tôi muốn nuôi, dù không biết để làm chi.
Trong góc bếp gần sàn nước, nơi một buổi chiều hơn mười năm trước mẹ ngồi bệt hai mắt lạc thần, còn chị Du nách thằng cu Diên đứng cạnh hồ xi-măng môi trắng nhách như phết vôi, tôi trải tấm bạt ra và nằm xuống. Mùi khen khét nặng và dày làm ngộp nhưng nền gạch loang lổ vẫn còn âm ấm một cách dễ chịu. Đêm càng lúc càng đặc đến không cần nhắm mắt. Đang thao láo trong cái màu đen thui đó thì chợt thấy mình dềnh lên chìm xuống như đang ngồi trên một chiếc xuồng ba lá tròng trành không có người chèo, băng ngược sông Ghành ở Làng Duyệt. Ông Dũng đứng trên bờ ngoắc ngoắc hỏi vói xuống :
- Xương cốt cháy thành tro rồi ôm theo chi ? Sao không ôm cái chi chưa cháy ?
Nước táp ồ ồ hai bên mạn xuồng khiến tôi phải la lớn :
- Định mang đi gửi trong chùa Già Lam sau khi cúng thất.
Không nghe rõ, ông Dũng hét :
- Chùa gì ? Chùa gì ăn thua gì ! Đi xuồng nước ngược biết chừng nào tới ?
Xuồng vẫn vật vã trườn về phía trước, tiếng nói nhỏ dần và cái bóng cong cong bỗng gẫy làm đôi. Ngoái nhìn hút mắt chỉ thấy một cái cây còi còi thâm thấp đang lặn từ từ xuống đất. Tôi đứng chàng hảng giữ thăng bằng giữa lòng xuồng kêu vói ba ơi ba, bỗng cảm thấy từ âm hộ rớt ra một vật gì, tiếng chạm xuống lườn nghe đùng đục. Vói tay nhặt lên mân mê. Từ chỗ nó chui ra không có cảm giác gì đặc biệt, giống phụ nữ có tháng thỉnh thoảng nhợn ra một cục huyết bầm bằng nửa miếng gan gà. Lạ là thoạt nhìn nó giống miếng tóp mỡ hay thẻo vỏ quýt phơi khô đã trỗ màu sậm sì. Phải chăng cái trinh tiết, do bị hãm bởi con ma men và con ma tôi, đã nằm chờ từng ấy năm đến quắt queo nhăn rúm ? Chắc cú không phải thai chết lưu, bởi cái nghìn vàng vẫn còn đó nỗi buồn nên nó đành tự sản tự tiêu ?
Rõ ràng nó là một phần trong cơ thể rụng ra, như cuốn rún của trẻ sơ sinh bị héo do đứt dinh dưỡng từ nhau của người mẹ. Nó là cái gì thì cũng là điều thầm kín, phải được cất ở hốc bí mật dưới tủ thờ cùng với tiền để dành, của hồi môn và những bài thơ tình. Thôi chết, cái hộp ! Phải móc nó lên từ đống xà bần trước khi xe ba bánh đến xúc đi trong ngày mai! Hốt hoảng với ý nghĩ phải lấy cái chi khều cho xuồng tấp vào bờ, tôi mò dưới chỗ đứng tìm cây gậy đạo sĩ, lúc bấy giờ không biết tại sao có mắc tòn teng một sợi nhợ với cả lưỡi câu. Một cách vô thức, tôi móc cái vật vừa nhặt được vào lưỡi câu rồi vung lên quơ quơ kiểu người ta giương cờ trắng đầu hàng. Trời nổi gió đùng đùng lùa chiếc xuồng quay mòng mòng. Trong nỗ lực cuối cùng, tay vung vẫy cây gậy có miếng gan gà khô queo đong đưa, mắt dõi về phía chân trời mờ mịt, tôi lấy hết sức bình sinh gào lên nhưng tiếng la chết ngắc trong họng.
Trần Thị NgH
Ribière, 12.2010