- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

RFA Phỏng vấn BS Ngô Thế Vinh về Kênh Funan và Đồng Bằng Sông Cửu Long

22 Tháng Mười Hai 202310:07 SA(Xem: 3520)

RFA Phỏng vấn

BS Ngô Thế Vinh về Kênh Funan

và Đồng Bằng Sông Cửu Long

 

Như bài viết gần đây của ông về kênh đào Phù Nam của Cam Bốt, và đặc biệt như một tuyên bố gần đây nhất của Thủ tướng Cam Bốt Hun Manet: “Kênh đào Phù Nam không lấy nước từ sông Mekong mà chỉ lấy từ sông Bassac và sẽ dùng cho tưới tiêu, nông nghiệp)\”, xin ý kiến của ông về những vấn đề sau: 

 

PV MAI TRẦN _ 1) Theo ông, lập luận cho rằng sông Bassac không thuộc hệ thống Mekong và kênh đào Funan không lấy nước từ Mekong có đúng với thực tế không? 

 

NGÔ THẾ VINH _ 1) Tuyên bố gần đây nhất của Thủ tướng Cam Bốt Hun Manet cho rằng: Kênh đào Phù Nam không lấy nước từ sông Mekong mà chỉ lấy từ sông Bassac và sẽ dùng cho tưới tiêu, nông nghiệp.” [sic]

_ Phải nói ngay rằng đây là một câu nói thiếu thành thật, khinh thường trí tuệ của của giới lãnh đạo Hà Nội và người dân Việt Nam. Không ai có thể nghĩ rằng TT Hun Manet, người tốt nghiệp từ một học viện quân sự danh tiếng West Point của Mỹ, lại có thêm học vị Tiến sĩ Kinh tế từ Anh Quốc mà có thể thiếu kiến thức như thế.

_ Thiếu kiến thức địa lý sơ đẳng mới có thể nói rằng sông Bassac – một trong hai phân lưu [distributary] lớn của sông Mekong mà  không thuộc hệ thống sông Mekong, để từ đó lý luận rằng kênh đào Funan Techo chỉ lấy nước từ sông Bassac mà không lấy nước từ hệ thống sông Mekong. 

_ Nếu hiểu Quatre-Bras [tiếng Khmer là Chamean Mon hay Chaktomuk / tiếng Việt là nơi hội tụ của 4 nhánh sông] là gì, chúng ta có ngay câu trả lời phản bác lý luận nêu trên của TT Hun Manet. Quatre Bras tiếng Pháp là 4 cánh tay – là 4 nhánh của hệ thống sông Mekong:

_  Mekong Thượng [Upper Mekong] là dòng chính sông Mekong chảy từ bắc xuống nam tới Phnom Penh là nhánh thứ (1)

_ Con sông Tonle Sap là nhánh thứ (2) từ Biển Hồ chảy xuống kết nối với dòng chính Mekong Thượng; [sông Tonle Sap có đặc tính chảy 2 chiều theo: Mùa Mưa là dòng chảy ngược vào Biển Hồ và Mùa Khô nước từ Biển Hổ chảy xuôi dòng xuống ĐBSCL].

_ Tại Quatre Bras, nơi con sông Mekong Thượng chia làm hai phân lưu [distributaries]: Mekong Hạ [Lower Mekong] là nhánh thứ (3) và Sông Bassac là nhánh thứ (4); cả hai phân lưu lớn này khi  chảy vào Đồng Bằng Sông Cửu Long của Việt Nam, mang tên khác là Sông Tiền (3) và Sông Hậu (4).

 

Như vậy, khi Con Kênh Funan Techo lấy nước từ con sông Bassac tức là lấy nước từ đầu nguồn của con sông Hậu thì sao lại bảo nguồn nước đó không thuộc hệ thống sông Mekong?

pv NgoTheVinh 1 

Quatre Bras / Nơi hội tụ 4 nhánh sông: (1) Mekong Thượng, (2) Sông Tonle Sap, (3) Mekong Hạ / có tên Sông Tiền (4) Sông Bassac / có tên là Sông Hậu khi chảy vào Việt Nam. Đường chỉ đỏ nối sông Bassac và tình Kep là sơ đồ của con kênh Funan Techo của Cam Bốt sẽ khởi công vào năm 2024 và hoàn tất năm 2028. [Bản đồ với ghi chú của Ngô Thế Vinh]

 

 

PV MAI TRẦN _ 2) Nếu kênh đào Funan không chỉ phục vụ giao thông thuỷ mà còn phục vụ tưới tiêu, nông nghiệp, nó có thể ảnh hưởng tới sông Mekong và ĐBSCL ra sao? 

 

NGÔ THẾ VINH _ 2) Một câu hỏi rất hay, cùng một lúc Anh Mai Trần nêu ra được 2 vấn đề của con kênh đào Funan Techo.

(a)  Vấn đề thứ nhất, điều mà chính phủ Phnom Penh nói ra trong Thông báo gửi MRC 4 nước Mekong; khi nói về mục đích của Dự án Funan Techo chỉ vỏn vẹn có một câu: “Con kênh nội địa có mục đích vận tải và giao thông đường thủy”, với lợi ích rất rõ ràng: chặng đường sông nếu không phải qua ngả Việt Nam mà nay với con kênh Phù Nam Techo khoảng cách được rút ngắn, như vậy sẽ giảm thiểu thời gian di chuyển và bớt nhiên liệu tiêu thụ, – cũng có nghĩa là giảm đáng kể chi phí vận chuyển và quan trọng hơn nữa là tạo được một trục / hub giao thương mới mà không cần phải đi qua khúc sông Mekong của Việt Nam. Tất cả nhằm tăng tính cạnh tranh, thu hút thêm đầu tư, giảm thiểu chậm trễ và giảm chi phí về tiếp vận.

(b)  Vấn đề thứ hai, điều mà chính phủ Phnom Penh ban đầu không nói ra, muốn dấu nhẹm trong Thông báo gửi MRC 4 nước Mekong, đó là tính đa năng [multipurpose] của con kênh Funan Techo – ngoài mục đích giao thông đường thuỷ, con kênh Funan còn tiềm ẩn nhiều mục đích khác bao gồm: thuỷ lợi [irrigation] chuyển dòng lấy nước [water diversion] từ con kênh Funan giúp cho việc tiêu tưới mở rộng diện tích canh tác [agriculture], tạo những hồ nước nuôi trồng thủy sản [aquaculture], bảo đảm lương thực và cải thiện đời sống các cộng đồng cư dân trong vùng. 

(c)  Nhìn xa hơn nữa qua các cuộc hội thảo của  Diễn đàn Vận Tải và Hậu Cần 2023 [Transport and Logistics Forum 2023], người ta còn bàn tới sự gia tăng giá trị đất đai và bất động sản ven con kênh Funan, khi xây thêm được những giang cảng phụ [subordinate ports], tạo thêm công ăn việc làm, đồng thời với phát triển các khu gia cư, đô thị hoá cùng với nhu cầu cung cấp nguồn nước ngọt cho sinh hoạt. 

Như vậy, với con kênh đào 180 km chiều dài ấy đâu có phải chỉ cho mục đích thuỷ vận, mà còn có những mục đích phát triển cả một vùng châu thổ 4 tỉnh từ Kandal, Takeo, Kampot, và  Kep trước khi đổ ra Vịnh Thái Lan, và như vậy thì lưu lượng nước lấy từ hệ thống sông Mekong, nhất là từ con sông Bassac  -- khúc đầu nguồn của con sông Hậu, thì chắc chắn  không phải chỉ 113 triệu mét khối mỗi năm mà sẽ nhiều lần lớn hơn và hậu quả thiếu nước nơi ĐBSCL phía dưới nguồn -- nhất là vào mùa khô không thể nào lường trước được.  

 

PV MAI TRẦN _ 3) ĐBSCL đứng trước thực trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng (năm ngoái, nước mặn vào tới khu vực thị xã Bến Tre), và dòng sông Cửu Long nghẽn mạch. Việc sông Mekong nghẽn mạch rõ ràng càng lúc càng khó giải quyết. Một mặt, Việt Nam cần thực thi những chiến lược ngắn hạn để điều hướng các bước đi của Trung Quốc và Cam Bốt sao cho nó công bằng hơn với ĐBSCL, nhưng mặt khác, VN cần chuyển hướng chiến lược phát triển cho ĐBSCL. 

 

 

NGÔ THẾ VINH _ 3) Hâm nóng toàn cầu và biến đổi khí hậu là một thực trạng đã và đang ảnh hưởng trên toàn hệ sinh thái của khắp hành tinh này, riêng các vùng châu thổ Deltas / trong đó có ĐBSCL là đang chịu ảnh hưởng nặng nề nhất:

_ nước biển dâng khiến nạn ngập mặn càng ngày càng lấn sâu vào vùng châu thổ -- không phải chỉ có ở các tỉnh ven duyên hải, mà là các tỉnh trong đất liền rất xa biển, do lượng mưa thấp ở thượng nguồn và ngay cả nơi ĐBSCL.  

_ nạn đất lún do khai thác quá mức các tầng nước ngầm [aquifers] đến  mức cạn kiệt, với hơn một triệu giếng bơm hoạt động ngày đêm, lấy nước ngọt, không chỉ phục vụ tiện dụng gia cư mà cả cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp và kỹ nghệ, khiến vận tốc đất lún có nơi còn nhanh hơn mực nước biển dâng.

_ với những con đập thuỷ điện khổng lồ bậc thềm [Mekong cascades] Vân Nam, và với chuỗi những con đập dòng chính ở Lào, do nguồn phù sa bị giữ lại trong các hồ chứa, nguồn nước ngọt đổ về ĐBSCL là nguồn nước đói [hungry water], thay vì ĐBSCL được bồi đắp như trước kia, thì nay bị sói mòn [erosion], tạo nên một tiến trình đảo ngược khiến cả một vùng châu thổ, về lâu về dài đang trên một tiến trình tan rã.

_ do vận hành giữ nước của chuỗi đập thuỷ điện thượng nguồn, không có lực đẩy của nguồn nước ngọt đổ về, nạn ngập mặn có thể vào sâu tới 60km với nồng độ mặn cao tới 40/00 [bốn phần ngàn], có nơi còn cao hơn. Cùng một lúc phải ứng phó với thiếu nước ngọt, và canh tác trong tình trạng “chạy mặn”, khả năng thích nghi của người nông dân nơi ĐBSCL phải nói là rất cao, đây chính là yếu tố tích cực cho sự chuyển hướng phát triển của ĐBSCL.

 

Trước tình trạng Cửu Long ngày thêm Cạn Dòng, thiếu “nước ngọt”, thừa “nước mặn” – một vùng châu thổ bấy lâu được thiên nhiên ưu đãi đã không còn nữa. Việc  chuyển hướng phát triển nơi ĐBSCL – không phải chỉ có thuần nông nghiệp, mà còn nhiều lãnh vực khác như nuôi trồng thuỷ sản, cả trên nhưng vùng nước lợ với hỗ trợ của công nghệ cao.

 

Như Anh Mai Trần đã thấy, Đồng Bằng Sông Cửu Long  đang trở thành một địa bàn đầy thách đố, lối làm ăn cũ manh mún chỉ có tập trung vào cây lúa [nông dân lam lũ này đêm mà vẫn không đủ ăn] không còn hợp thời nữa và nhu cầu một chuyển hướng phát triển phải là một mệnh lệnh của thời đại. Và để trả lời “câu hỏi lớn” như vậy, đề nghị RFA lập ra một Diễn đàn Mở [Open Forum] quy tụ nhiều tiếng nói của nhiều nguồn chất xám từ trong nước ra tới hải ngoại, và ban điều hợp Diễn Đàn ấy sẽ là nhóm Ký giả Môi Sinh của Đài RFA.  

 

 

MAI TRẦN                                

RFA Broadcaster/ Webcaster

Washington, 20.12.2023

Radio Free Asia

 

pv NgoTheVinh 2

 

BS Ngô Thế Vinh, tác giả 2 cuốn sách: Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng [2000], và ký sự Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch [2007], liên quan tới vấn đề môi sinh và phát triển Lưu vực sông Mekong và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Hình tác giả đang băng qua Biển Hồ, tới khu Bảo Tồn Sinh Thái Tonlé Sap. [12.2001]

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
26 Tháng Mười 200812:00 SA(Xem: 16704)
Ly Hoàng Ly là khuôn mặt đầu tiên, trong số những khuôn mặt văn nghệ trẻ xuất hiện những năm gần đây, đang tự xác định mình qua tác phẩm nghệ thuật, mà chúng tôi giới thiệu.
26 Tháng Mười 200812:00 SA(Xem: 14309)
Đỗ Hoàng Diệu sinh ngày 5/2/ 1976 tại Thanh Hoá, đỗ cử nhân luật và cử nhân báo chí. Làm việc tại Hà Nội. Xuất hiện lần đầu trên văn đàn hải ngoại với truyện ngắn Tình chuột, in trên Hợp Lưu số 74 (tháng 12/2003- 1/2004), rồi liên tiếp: Những sợi tóc màu tang lễ (HL 75), Cô gái điếm và năm người đàn ông (HL 76), Bóng đè (HL 78), Dòng sông hủi (HL 80) và Vu quy (HL 82).
26 Tháng Chín 200812:00 SA(Xem: 14085)
Lúc bấy giờ tôi cũng ở quân đội về tiếp quản thủ đô, tôi phụ trách một đoàn văn công. Lúc bấy giờ văn công quân đội chia làm ba đoàn: Thủ đô, Khu ba và Khu bốn. Tôi phụ trách đoàn 1, về tiếp quản Hà Nội. Trong giai đoạn đầu cuộc tiếp quản thủ đô -độ 3 tháng- thì lúc bấy giờ việc làm thơ của tôi cũng không tiến hành được bao nhiêu, bởi vì công việc của đoàn văn công choán khá nhiều thời giờ. Nhưng đến Tết, cái Tết năm 1955 sang 1956, tôi và anh Lê Đạt bàn nhau là bây giờ ta phải tiến hành một cuộc đổi mới thơ đi
26 Tháng Chín 200812:00 SA(Xem: 12434)
Dự định tìm lại dấu vết phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đã đến với chúng tôi từ cuối năm 1984, khi trở lại lần đầu, sau 30 năm xa Hà Nội. 1984, lúc ấy tôi chưa hề cầm bút, và 1954, khi rời Hà Nội, tôi mới lên mười. Như phần lớn học sinh miền Nam, tôi đã thuộc lòng, không chỉ những câu thơ nổi tiếng của Trần Dần
26 Tháng Chín 200812:00 SA(Xem: 15110)
Thực tế gần như bất biến là chính sách văn hóa của nhà nước, một chính sách vẫn còn ngăn cấm tự do tư tưởng và sáng tác. Vì thực tế ấy, những người muốn tìm hiểu về sáng tác thơ trong nước gặp khó khăn. Tôi hình dung đó là một tảng băng thạch, chúng ta chỉ thấy được phần nổi. Thỉnh thoảng chúng ta đọc được một tập thơ của Đặng Đình Hưng, hay gần đây thơ Phùng Cung hoặc nhật ký Trần Dần vừa được công bố, ngoài ra còn biết bao tác phẩm hay khác vẫn còn nằm trong bóng tối.
26 Tháng Chín 200812:00 SA(Xem: 11900)
Trong các tài liệu chính thức, lớp đấu tranh Thái Hà được gọi là hội nghị: "Đầu năm 1958, có hai cuộc hội nghị của anh chị em công tác văn nghệ, nghiên cứu nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương đảng Cộng Sản Việt nam, kết hợp với hai bản tuyên ngôn và tuyên bố của hội nghị các đảng Cộng Sản và các đảng công nhân họp ở Mạc Tư Khoa, cuối năm 1957. Hội nghị đầu, tháng 2 năm 1958, gồm có 172 người dự. Hội nghị sau, tháng 3 năm 1958, gồm có 304 người dự.
25 Tháng Chín 200812:00 SA(Xem: 13030)
Tôi có một người bạn mà anh ta làm cán bộ cao cấp trong chính quyền hẳn hoi, anh ta nói với tôi cứ mỗi buổi chiều, sau khi tan sở hoà mình vào phố phường đông đúc của Hà Nội, anh lại thấy cô đơn, lạc lõng khủng khiếp. Và có lúc cô đơn đến cùng cực, anh ta đã tìm đến cái chết.
24 Tháng Chín 200812:00 SA(Xem: 11423)
Trong một bài in trên Đông Pháp Thời báo, số ra ngày 1/9/1928 giữa thời Pháp thuộc, Phan Khôi viết: “Ở vào thế kỷ XX là thế kỷ mà thiên hạ làm phách hô lớn lên hai chữ tự do, nói rằng đâu đâu cũng phải tôn trọng sự tự do, đâu đâu cũng phải tôn trọng quyền ngôn luận, quyền xuất bản. Bỗng dưng nghe đến hai chữ “cấm sách” thì há chẳng phải là một sự lạ hay sao.
21 Tháng Chín 200812:00 SA(Xem: 12976)
Đêm giao thừa Bính Tuất chúng tôi có dịp nói chuyện văn nghệ tản mạn với nhà thơ Lê Đạt, và như thường lệ, nhà thơ luôn luôn có những ý kiến độc đáo, những kinh nghiệm thực tiễn, những nhận định sâu sắc về tình hình văn học nói chung và những người viết trẻ nói riêng. Chúng tôi ghi lại buổi nói truyện này (đã phát thanh trên đài RFI ngày, 28/1/2006) để gửi đến bạn đọc Hợp Lưu.