- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

“EM &TRỊNH” LIỆU CÓ ĐOẠT GIẢI “CÁNH DIỀU” CỦA HỘI ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM?

04 Tháng Chín 20238:30 CH(Xem: 6147)

 EM-tcs

 

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

“EM &TRỊNH” LIỆU CÓ ĐOẠT GIẢI “CÁNH DIỀU”
CỦA HỘI ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM?

 

Trong ngót hai chục phim truyện điện ảnh tham dự tranh Giải Cánh Diều năm nay của Hội Điện ảnh VN, có thể nói “Em & Trịnh” là một tác phẩm hoành tráng bậc nhất. Và cũng cần phải thẳng thắn điều này: những người làm “Em & Trịnh” đã rơi vào cả hai tình huống đặc biệt của Điện ảnh: a. thực hiện một bộ phim chân dung vốn đầy thử thách, b. đặc biệt là phim ca nhạc sẽ cực kỳ khó khăn về các yếu tố kỹ thuật!

Bộ phim được quay hết sức công phu về tạo dựng - tái hiện bối cảnh, về phục trang, diễn xuất, thể hiện bài hát, âm thanh… được thực hiện bởi các nhà tổ chức sản xuất chuyên nghiệp khiến người làm điện ảnh VN nhiều thế hệ phải nghiêng mình kính nể! Cũng chính vì vậy mà nhiều người trong nghề cảm thấy tiếc cho phim, khi bộ phim công phu này đã không đạt được cái điều mà các tác giả mong muốn & khán giả mong đợi…

Ngay từ cái tên phim và cách khai thác xử dụng tư liệu đời tư cả những nhân vật còn sống vào cấu trúc truyện phim, khán giả thấy rõ là người làm phim đã cố gắng xây dựng những “thiên tình sử” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhằm cái đích tối thượng là câu khách, và dùng các nhạc phẩm của ông để minh chứng cho cái chuyện tựa huyền thoại song có thực: “từng người tình bỏ ta đi, như những dòng sông nhỏ”… Nhưng nếu là cái đích Chân dung thực sự thì đã bị phá sản! Người xem phần đông đã bị cái ma mị của nhạc Trịnh vốn đã quen thuộc cuốn đi theo cảnh phim, chỉ sau khi thôi bị âm thanh KTS hiện đại quyến rũ rồi mới ngớ ra: đâu phải thế, Trịnh đâu có những chi tiết tình ái bịa đặt như thế, người sống sờ sờ kia kìa, sao lại làm vậy!? Nhà sản xuất phim “E&T” tuyên bố với báo chí: “Ngay từ đầu, chúng tôi đã khẳng định và còn ghi rõ trong phim “Lấy cảm hứng từ nhân vật có thật”, chỉ lấy cảm hứng và kể câu chuyện bằng ngôn ngữ điện ảnh chứ không copy y nguyên sự thật ngoài đời vào trong phim!” Nhưng họ đã làm ngược với tuyên bố nọ, dẫn đến những kiện cáo đáng buồn tới nay chưa chấm dứt!

Trong khi đó, khán giả quen xem phim và khán giả chưa quen xem phim (cũng chưa thông thạo thủ pháp làm phim) lại hy vọng những tình khúc của Trịnh đã hé lộ một cách chân xác và đầy rung cảm đời sống tâm hồn ông ra sao - cái tâm hồn vật vã trước những lằn ranh nghiệt ngã của đời sống mà lắm khi Ái tình, sự thất tình chỉ là cái cớ cho ông bộc lộ nỗi bi thương, niềm xót đau cho số phận Con người. Điều đó mới tạo ra sự bất hủ cho tác phẩm của ông! Bộ phim dường như chỉ tập trung miêu tả đời sống Tình Ái của ông, nỗi thất tình của ông - dù ông có buồn cho sự đổ vỡ và “từng người tình bỏ ta đi”, nhưng nếu thế đã vô tình hạ Trịnh xuống thành một nhạc sĩ Tình ca bình thường.

Mấy chục năm trước, các rạp - bãi chiếu bóng nước ta có chiếu một bộ phim Áo đen trắng kể về cuộc đời nhạc sĩ thiên tài Áo Franz Schubert, phim "Bản giao hưởng dang dở" (nguyên tác: La symphony inachevée); gần cuối phim, sau khi cô người yêu buộc phải ngậm ngùi chia tay với Schubert vì gia đình phản đối quyết liệt, cô nói trong nước mắt: "Đừng buồn anh ạ, bởi một người như anh có cái mà những người khác không có, đó là sự bất tử..." Lời động viên đó hẳn không thể làm vợi nỗi buồn của chàng nhạc sĩ nghèo, anh ngơ ngác đi lang thang trên con đường đất chìm ngập trong biển lúa mỳ. Ngay sau đó, chồng hình chuyển cảnh sang người nhạc sĩ bước từng bước lên bậc thang Nhà thờ, và "Bản giao hưởng dang dở" nổi tiếng bắt đầu dâng lên, cùng với những dòng chữ phim cuối xuất hiện cho đến khi hết bản nhạc…

Phải chăng nhạc sĩ TCS khi hình thành các nhạc phẩm “Biển nhớ”, “Diễm xưa”, “Hạ trắng”… cũng từng sống trong nỗi buồn tuyệt vọng về Tình yêu dang dở, Khát vọng đang tìm kiếm, Sự nghiệp còn mờ mịt, Cuộc sống như “Hố thẳm” (chữ của Phạm Công Thiện)... Và ông đã nhớ tiếc về những gì tốt đẹp đã có và cần phải có trong cõi đời phù du đương ngập tràn khói đạn, sự giết chóc, nỗi hận thù; ông mượn giọt mưa tủi hờn, biển động, ngọn liễu rủ, tiếng gió lộng… để bộc lộ “nỗi sầu hoang vu” của mình.  Bác tôi, cố nhạc sĩ Lê Lôi có lần bảo: “Đã mang danh nhạc sĩ thì phải có sáng tác khí nhạc; nhưng với trường hợp TCS thì khá đặc biệt, TCS sẽ sống lâu dài trong lòng người Việt chỉ với danh nghĩa nhạc sĩ của ca khúc. Ca khúc của ông khác biệt với tất cả các dòng ca khúc, tất cả các nhạc sĩ khác - trong mélodie (giai điệu) lẫn ca từ. Chính bác cũng đang tự hỏi mình xem cái khác biệt đó là gì?…”. Tôi thiển nghĩ, cái khác biệt đó phải chăng nằm ở chỗ: toàn bộ tình ca của Trịnh chứa đựng nỗi cô đơn ngậm ngùi, sự nuối tiếc thầm lặng, niềm xót xa cho vẻ đẹp và mơ ước cứ mỗi lúc một lùi xa - giữa một thời kỳ đầy xáo động khiến nhân tính bị méo mó biến dạng đến thê thảm mà bản thân người nghệ sĩ tôn thờ cái Đẹp chưa thể lý giải nổi…

Còn trong “Em &Trịnh”, nhiều trường đoạn phim, cảnh phim rất công phu đã chỉ cho thấy một chàng trai tài hoa đau khổ, thất tình, lặn ngụp trong cô đơn cô độc khi không giải thoát được cho người mình yêu… Trên cái nền ý tưởng và cấu trúc phim như thế, những trường đoạn phim nói về âm nhạc Trịnh “dấn thân” vào cuộc sống hôm qua & hôm nay sẽ trở thành những đoạn phim lắp ghép, minh họa một cách lộ liễu, chúng không thể “đọ” nổi những cảnh phim ướt át về Tình yêu chớm nở, Tình yêu tuyệt vọng, Tình yêu dang dở mà người làm phim đã kỳ công xây dựng trước đó!

Thêm một điều tiếc nuối nữa: giá mà nhân vật Trịnh lúc lớn tuổi cũng do chính nhân vật đó lúc trẻ thủ vai (với nghệ thuật hóa trang hiện đại, đó là chuyện dễ dàng); còn nghệ sĩ Trần Lực có lẽ ở vai trò người đứng sau ống kính máy quay chỉ đạo diễn xuất sẽ phù hợp hơn trong việc hóa thân vào TCS thời ông đã nổi danh toàn quốc và sang cả đất nước Mặt trời mọc khiến một cô gái Nhật mê ông, chấp nhận lời cầu hôn của ông - như hư cấu của phim. Một sự hư cấu khiến đại diện của  bà Michiko Yoshii - người được mượn hình ảnh thể hiện trong “Em & Trịnh” - đã gửi công văn yêu cầu nhà sản xuất xin lỗi công khai, bởi “Đây là hành vi không chỉ xâm phạm đến quyền dân sự của giáo sư Michiko mà còn xâm phạm đến bí mật cá nhân, quyền thân nhân của cố nhạc sĩ”…

 

Đạo diễn Mai An Nguyễn Anh Tuấn

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Giêng 20224:09 CH(Xem: 11870)
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới. Thế nhưng, ở một nơi xa kia, có một ông già gầy gò, ốm yếu, tóc bạc hàng ngày đến thư viện các trường đại học ở Mỹ để photo các tài liệu về văn chương Miền Nam Việt Nam, hàng ngày ông “ngồi khâu lại di sản”, vá lại một nền văn học đã bị đốt cháy trên chính quê hương mình, tự mình thành lập tủ sách di sản văn chương Miền Nam nhằm lưu giữ, chia xẻ lại cho đời sau, đó là nhà văn Trần Hoài Thư.
28 Tháng Mười Hai 202110:43 CH(Xem: 10381)
Cuộc triển lãm này nêu ra luận điểm rằng bản chất nội tại của sự sống và của tất cả các sinh vật là không đồng nhất, mà đúng hơn là được kết cấu bằng nhiều mối tương quan dị biệt để tạo ra Cái Khác. Luận điểm này, vì thế, đã phá vỡ mọi tôn ti dựa vào những khái niệm áp đặt về bản sắc và tính đồng nhất.
15 Tháng Mười Hai 20219:00 CH(Xem: 10323)
Dohamide, người gốc Chăm, sinh năm 1934 tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang), có thêm ba bút hiệu nhưng ít được biết đến: Linh Phương, Châu Giang Tử, Châu Lang. Khi Dohamide có bài viết đầu tiên “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1962, Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã giới thiệu anh với độc giả như sau: “Bạn Dohamide, tác giả loạt bài sau đây, là người gốc Chàm, sanh tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang). Bạn đã có can đảm thoát ly những ràng buộc khắt khe của tập tục địa phương để lên thủ đô Sài Gòn vừa đi làm nuôi gia đình vừa đi học, và hiện nay bạn đã tốt nghiệp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Ngoài tiếng Chàm là tiếng mẹ đẻ, bạn Dohamide biết nói và viết các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Á Rập, Mã Lai, Cam Bốt, những thứ tiếng này đã giúp bạn Dohamide rất nhiều trong những thiên khảo cứu như trình bày với bạn đọc.” [Bách Khoa, số 135, 15/8/1962]
08 Tháng Mười Hai 202110:17 CH(Xem: 9980)
Chúng tôi xin được lấy tên thiên tiểu luận đặc sắc Một cuốn kinh về tình thương [12, tr.139] của nhà văn Lưu Trọng Lư làm nhân lõi cho nội dung bài viết này. Người viết vốn được mệnh danh là “nhà văn của tình thương” từ đầu những năm 30 của thế kỷ trước đã “chiêu tuyết” cho nhân vật từng bị phán xét là “đĩ đứng đầu” bằng những lời nồng nhiệt, đặc biệt nhận định Thúy Kiều là “kẻ có một mối từ tâm lớn” [13, tr.1690]. Và suốt từ khi Truyện Kiều ra đời đến nay, tình thương hay “mối từ tâm lớn” toát ra từ kiệt tác này cùng những giá trị nội dung tư tưởng nhiều mặt của nó đã/ đang được bàn luận sôi nổi, với nhiều lý thuyết cũ - mới chắc không bao giờ chấm dứt…
28 Tháng Mười Một 20219:39 CH(Xem: 9932)
Xem xong phim “LEVIATHAN”, tôi nhớ tới bộ phim màu Liên-xô “ILIA MUROMET” từ hơn nửa thế kỷ trước và chợt nghĩ: nhiều người có tuổi thơ đã từng say mê dán mắt trên màn ảnh bộ phim quay về một câu chuyện cổ tích Nga nọ, nếu hôm nay được xem bộ phim Nga hiện đại “LEVIATHAN” dựa theo câu chuyện về một quái vật thần thoại trong Kinh Thánh, chắc sẽ bàng hoàng, ngỡ ngàng đến đau đớn… Cái vẻ đẹp phi thường của dũng sĩ huyền thoại Nga chiến thắng rồng lửa nhiều đầu để bảo vệ hạnh phúc dân lành giờ đã biến mất tăm, chỉ còn lại trên đất nước hùng vĩ ấy sự thống trị & lộng hành của cái ác, sự giả dối đáng kinh tởm, trở thành lãnh địa của những kẻ ngang nhiên chà đạp lên quyền sống người lương thiện, bên đống xương mục của Cá Ông voi,Vua Biển cả - vết tích sót lại của một thời cổ tích tựa ánh tàn của mơ ước Con người từ ngàn xưa đang hấp hối…
18 Tháng Mười Một 20213:43 CH(Xem: 11783)
Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà… Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình. Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Tạ Tỵ [thư gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 29.2 & 27.7.2000]
01 Tháng Mười Một 202111:05 CH(Xem: 10705)
Tôi xin tạm mượn nhận định của một nhà văn học sử Nga viết về văn hào F. Dostoyevsky để nghĩ về phim AIKA (sản xuất năm 2017) - bộ phim đã đoạt một số giải thưởng Quốc tế mà tôi vừa được xem, vì thấy rõ một điều: truyền thống hiện thực chói sáng của văn học Nga cổ điển - tiêu biểu là F. Dostoyevsky hóa ra vẫn được tiếp tục một cách xứng đáng trong văn học nghệ thuật Nga hiện đại (ở đây tôi chỉ xin nói tới một dòng của điện ảnh Nga tạm gọi là “Hiện thực tàn nhẫn không thương xót”) - có nghĩa là đã vượt qua vòng “Kim cô” Hiện thực xã hội chủ nghĩa từng thống trị tinh thần xã hội Xô Viết một thời gian dài dẫn đến những tác phẩm nghệ thuật nặng tuyên truyền phục vụ kịp thời và đã rơi vào lãng quên…
26 Tháng Mười 202112:17 SA(Xem: 10760)
“… những cố gắng suy nghĩ của một người vẫn ước muốn tự đặt cho mình một kỷ luật đồng thời cũng là một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua và cứ như thế mãi mãi…” [Cùng bạn độc giả, Lược Khảo Văn Học I] [1] Nguyễn Văn Trung
10 Tháng Mười 202111:31 CH(Xem: 10746)
Sau khi đưa một cảm ngôn về bức tranh của họa sĩ Lê Sa Long & ý kiến của nhà văn Trần Thùy Linh như một lời kêu gọi các nhà điêu khắc, họa sĩ, nhà văn, nhạc sĩ hôm nay: “DỰNG TƯỢNG ĐÀI NÀY ĐI: CUỘC “THIÊN DI” CỦA NHỮNG ĐỨA TRẺ VÀ BÀ MẸ CHƯA TỪNG CÓ TRONG LỊCH SỬ…”, nhằm góp phần miêu tả “nhân vật chính của Thời Đại, biểu tượng cho cả một dân tộc vượt lên cảnh ngộ bi kịch tìm lối thoát cho quyền sống của mình”, rất nhiều người đã ủng hộ. Nhưng cũng có không ít người lồng lên phản đối như bị “chạm nọc”, thậm chí chửi bới rất tục tĩu (xin lỗi không viết ra vì xấu hổ thay cho họ). Để trả lời họ, với tư cách là một người làm phim, tôi xin có vài suy ngẫm về NHÂN VẬT THỜI ĐẠI giúp họ tham khảo.
08 Tháng Mười 20219:37 CH(Xem: 10031)
Trong toàn bộ thơ văn chữ Hán, chữ Nôm của Đại thi hào Nguyễn Du, có một kiểu/ loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt được ông thể hiện với cảm hứng thi ca và nghiệm sinh sâu sắc - đó là những người phụ nữ Tài - Sắc mà số phận bất hạnh, những “má hồng phận mỏng”, những giai nhân bạc mệnh, “hồng nhan đa truân”, phải chịu số phận “Tài Mệnh tương đố” với lời nguyền ác nghiệt: “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”… Cần khẳng định ngay một điều là, cái vẻ đẹp bí ẩn, quyến rũ, cuốn hút, thấm đẫm hồn cốt phương Đông kèm theo tài hoa hiếm có của họ, với Nguyễn Du là “chất ngọc quý” của đời, như một giá trị mang tính nhân bản - dù họ ở tầng lớp con hầu, kỹ nữ dưới đáy xã hội, hay ở bậc nữ hoàng, phi tử cao vời…