- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

QUAN HỘ ĐÊ BẮC THÀNH LÊ ĐẠI CANG

25 Tháng Năm 20226:30 CH(Xem: 8040)
QUAN HO DE

QUAN HỘ ĐÊ BẮC THÀNH LÊ ĐẠI CANG     

Mai An Nguyễn Anh Tuấn     

 

Cách đây mấy năm, trong khi làm phim tài liệu chân dung “Lê Đại Cang - nhân cách bậc quốc sĩ”, nhà báo - Tổng BT tạp chí Văn Hiến Nguyễn Thế Khoa đã đưa tôi tới sông đào Ngũ Huyện Khê để ghi hình ảnh bộ cho phim này.

 

Ngũ Huyện Khê là một chi lưu của sông Đuống, bắt nguồn từ địa phận huyện Đông Anh, Hà Nội và đổ vào sông Cầu tại thành phố Bắc Ninh. Sau đó, tôi đã lang thang bằng tàu thuyền là chủ yếu, đi dọc sông Hồng và một vài đoạn sông nhánh quan trọng đến với các làng xã truyền thống vùng châu thổ Hà Nội, để mong tìm được dấu vết của cụ Lê Đại Cang thời được vua Minh Mệnh sung cho chức “Quản lý Nha Đê chính Bắc thành", mà theo một số tư liệu thành văn và truyền miệng, cụ đã được một vài nơi tôn làm Thành hoàng làng...

 

Trên dòng sông Hồng, tức sông Cái, tôi đã suy ngẫm nhiều về hành trạng của Quan hộ đê Bắc thành Lê Đại Cang. Đây là dòng sông mà từ hồi đầu thế kỷ XX, nhà địa lý học nhân văn người Pháp Pierre Gourou đã nhận định: “là con sông chủ yếu của Bắc Kỳ; chính nó đã tạo ra châu thổ bằng phù sa và chính nó luôn luôn đe doạ châu thổ khi tràn ngập. Sông Hồng chảy qua châu thổ như một kẻ xa lạ đáng sợ chứ không phải như một ngưòi cộng sự hữu ích, đó là do sự hung dữ và những trận lụt lớn của nó” (Người nông dân châu thổ Bắc kỳ  - Nxb Trẻ, 2003).

 

Vùng châu thổ sông Hồng trong hàng nghìn năm đó đã tạo ra một nền văn minh từng toả ánh sáng ra các quốc gia lân cận, và được các nhà nghiên cứu lịch sử có uy tín trong nước và nước ngoài mệnh danh là: “ Nền văn minh lúa nước” hay “ Nền văn minh sông Hồng”. Trên cơ sở sự phát triển của Văn minh sông Hồng, từ hàng ngàn năm về trước, những Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam - như Văn Lang và Âu Lạc đã lần lượt được khai sinh. Các nhà nghiên cứu cũng không ngần ngại khẳng định rằng: Văn minh sông Hồng là nền văn minh dựng nước, là nền văn minh đầu tiên xây dựng và khẳng định bản sắc văn hoá Việt Nam.

 

Để tồn tại, ông cha ta đã tiến hành chinh phục châu thổ, một trong những sự nghiệp đó là quai đê, lấn biển. Cả một hệ thống đê điều khổng lồ dài đến gần 2.000km, công trình đắp bằng tay kéo dài trong nhiều thế kỷ! Không những đắp đê để ngăn lũ của các dòng sông, xây dựng những công trình thuỷ lợi vĩ đại, ông cha ta còn đồng thời tiến hành đắp đê ngăn sự xâm lấn của nước biển để bảo vệ những cái nôi của châu thổ. Cạnh đó là những cuộc lấn biển hối hả để mở rộng châu thổ… Công cuộc chinh phục các dòng sông và biển cả quả là một bản anh hùng ca tráng lệ, đó là cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa con người với nước lũ, biển cả, bão tố, úng ngập, hạn hán, và biết bao biến cố khác của thiên nhiên, của lịch sử. Từ 2.500 năm trước đây, những trận lũ lớn của sông Cái còn là thiên tai không kiểm soát được, nhưng vào đầu công nguyên, con người đã bắt đầu đắp đê ngăn lũ, phù sa dày đặc trong nước lũ đã lắng đọng tạo nên những bãi mật phù sa- theo các nhà nghiên cứu, đây có thể là thời kỳ đã ra đời thần thoại Sơn Tinh thắng Thuỷ Tinh…

 

Tính nết ghê gớm của sông Mẹ xuất hiện khi mùa mưa lũ đến. Lũ về, nước sông chảy xiết, dòng nước đục ngầu phù sa, cuốn phăng tất cả những gì có thể. Một nhà khí tượng thuỷ văn đã cho biết: lũ sông Hồng có ba tính chất nguy hiểm với con người. Trước hết là có nhiều con lũ trong cùng một mùa nước lên, khiến cho con người vất vả để thích nghi với mức nước lên xuống trong canh tác nông nghiệp. Thứ hai, lũ sông Hồng vận chuyển một khối lượng nước rất lớn, do mưa to và dốc cao, những khối nước đó sẽ tràn ngập cả châu thổ nếu như chúng không bị ngăn lại kịp thời. Người dân sống hai bên bờ sông Mê Kông thì dễ thích nghi được với lũ của sông Mê Kông vì lũ của nó rất chậm và rất đều đặn, thậm chí họ còn có thể trồng được một thứ lúa nổi mọc theo mực nước dâng lên. ở Bắc Kỳ thì đồng ruộng, hoa màu luôn bị đe doạ bởi con sông Cái chảy xiết (từ 2m đến 3m một giây vào thời điểm có lũ), và có những biến động đột ngột bởi sông bị kẹp giữa những ngọn núi cao có sườn dốc đứng cho đến khi nó vào châu thổ. Người dân châu thổ tưởng tượng cái sức mạnh ma quái của nước sông Hồng bằng những thần tượng như: Long vương, Hà bá, Thuỷ tề, Bạch xà, Thuồng luồng… khi hầu như không làm chủ được nó, và đôi khi còn lập đền thờ các lực lượng siêu nhiên ấy ở bên sông để mong kìm bớt cơn giận dữ khủng khiếp của nước lũ. Trong ký ức của nhiều người dân châu thổ Bắc Bộ vẫn còn in đậm hình ảnh những ngôi nhà đổ sụp khi sóng sông ào tới, từng cụm làng xóm trôi dạt, những gốc cổ thụ bật gốc cuốn đi trong cơn xoáy lũ, những bàn tay phụ nữ con trẻ chới với trong dòng nước đục ngầu gầm réo, đồng lúa ruộng màu bị cướp trắng trước cặp mắt ưá lệ đau đớn xót xa… Những con đê mồ hôi xương máu của biết bao người đã nhiều khi không chịu đựng được sức tàn phá của thuỷ thần. Có thể tạm thống kê: đời Trần Thái tông vỡ đê kinh thành. Năm 1269 vỡ đê Cơ Xá, và từ năm đó đến năm 1393 vỡ đê 16 lần- điển hình là trận vỡ đê Bát Tràng năm 1352. Năm1729 vỡ đê ngập lụt cả hai huyện Văn Giang, Văn Lâm. Đời Tự Đức vỡ đê Văn Giang 18 lần. Trận lụt năm Qúy Tỵ 1893, cả vùng đồng bằng Bắc Bộ chìm ngập trong nước bạc mênh mông… Nhưng đê vỡ, lại tiếp tục việc hàn đê! Hết đời này qua đời khác, người dân châu thổ không chịu đầu hàng lũ lụt, họ đã oằn mình ra để quai đê, hàn đê ngăn lũ không mệt mỏi… Không ít người ngày hôm nay vẫn còn lưu giữ trong ký ức của mình hình ảnh kinh hoàng của một thời:Tiếng trống ngũ liên thúc hối hả, tiếng kẻng canh đê, tiếng quát tháo của tuần đinh, cảnh nhốn nháo như ong vỡ tổ, những ngọn đuốc đỏ rừng rực từng đoạn sông, người dân châu thổ mồ hôi chan nước mắt chân cắm trong đất, tay ken vào nhau làm bức tường chắn sóng… Nhiều thế hệ cha ông đã đắp đê ngăn nước tràn vào làng mạc. Không kể tuyến đê trên các con sông khác, hệ thống đê sông Hồng riêng nó đã dài tới 1.650km. Đó là một công trình lặng lẽ mà vĩ đại không kém bất cứ một kì quan nào… Nhà thơ Võ Văn Trực đã viết về con đê ngàn đời ấy bằng những dòng như sau: “Hòn đất ở dưới tận cùng đáy đê là hòn đất đắp từ đời Lý. Hòn đất đắp trên cùng mặt đê là hòn đất đắp trong thời đại mới. Mười bốn mét chiều cao con đê là cả một bề dày lịch sử được kết dính bằng bùn, mồ hôi, nước mắt và máu. Cả khi trời quang mây tạnh, cả khi gió táp sóng xô, con đê kiên gan đứng im với một tình yêu thầm lặng! …” (Thượng nguồn và châu thổ, Nxb Thanh niên). Không biết đê dọc sông Hồng được đào đắp từ bao giờ, chỉ biết sử ghi chép đời Lý Nhân Tông năm Mậu Tí 1108 đắp lại đê Cơ Xá, như thế từ trước đã có đê và ngót 1.000 năm nhân dân đã tôn tạo thêm sự vững chãi của đê sông Mẹ dài trên 2000km! … Ngoài đê sông, dân ta còn đắp đê biển. Năm 1248, vua Trần Thái Tông khuếch trương việc trị thuỷ sông Hồng, hạ lệnh đắp một hệ thống đê gọi là đê Đỉnh Nhĩ, chạy từ đầu nguồn tới bờ biển phòng nước lụt sông Hồng và đặt chức Hà đê chánh, phó sứ trông coi đê điều. Nhưng Thăng Long vẫn không tránh khỏi bị lũ lụt, nhiều lần nước tràn vào Hoàng thành. Năm 1243 đê Đại La thành bị vỡ... Từ thời Hồng Đức (Lê Thánh Tông), việc xây dựng đê điều ngăn nước mặn đã được tiến hành, cho đến thời Nguyễn Gia Long thì lần đầu tiên đạt tới độ quy mô lớn với Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ. Như vậy là, dòng sông, luỹ đê và công sức của con người đã tạo ra một vùng châu thổ rộng lớn đến một ngàn năm trăm kilômét vuông và hàng năm nhận được một lượng phù sa khổng lồ. ở đây, chúng ta lại cần nhắc đến P. Gourou, người tiên phong của ngành Nông dân học thế giới, một nhà khoa học Pháp rất am hiểu châu thổ sông Hồng và có cảm tình với người nông dân Việt nam, song ở một công trình viết về thổ nhưỡng Đông Nam Á, ông lại có một nhận định vội vàng: do việc đắp đê hai bên sông Hồng, phù sa không thể tràn lên các cánh đồng được, vì thế, “châu thổ đã chết trong tuổi vị thành niên của nó”! Nhưng Gourou không thể ngờ rằng, cảnh quan địa lý châu thổ vào những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI hoàn toàn không  phù hợp với lý thuyết và sự phỏng đoán của ông trong năm 1940. Ông cũng không thể hình dung được là sẽ có cả một hệ thống mương máng, đập tràn của các công trình đại - trung - tiểu thủy nông với nhiệm vụ dẫn thuỷ nhập điền và đưa phù sa sông Hồng vào những cánh đồng bất ngát. Nhiều nơi, hệ thống mương phai chính còn rẽ xương cá để đưa phù sa vào từng thửa ruộng nhỏ… Như vậy là tuổi thành niên của châu thổ vẫn còn đang phát triển với sức vóc phi thường của nó, thậm chí, châu thổ còn đang trẻ lại với màu xanh phủ kín các vùng miền. Sau Hiệp định Genève, miền Bắc chỉ có bốn hệ thống thuỷ nông tưới cho hai mươi vạn ha và tiêu cho hai mươi lăm vạn ha đã bị chiến tranh tàn phá; nhưng chỉ trong vòng hai mươi năm sau, nhiều công trình đại thuỷ nông mới đã được xây dựng: Bắc - Hưng - Hải, Chí linh - Nam Sách, Thuỵ Phương - Gia Thượng, bảy mươi vạn ha được nhận nước từ những công trình đó; còn vùng chiêm trũng Hà Nam Ninh, Hải Hưng đang được các trạm bơm điện tiêu úng… Nhưng công trình đại thuỷ nông Bắc - Hưng - Hải là một bước chuyển quan trọng đánh dấu thời kì mới trong cuộc chinh phục sông Hồng. Cho đến nay, công trình này và những công trình thuỷ lợi khác vẫn phát huy tác dụng của nó trong sản xuất nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng, với những chính sách khuyến nông ngày một mạnh dạn hơn của Nhà nước...

 

Nhắc qua về lịch sử lũ lụt và các công trình đắp đê chống lụt của dân tộc ta từ thời cổ đại cho tới nay để có thể thấy rõ hơn vị trí, vai trò và trách nhiệm của Lê Đại Cang khi cụ gánh trọng trách của một quan Đê chính Bắc thành lãnh đạo nhân dân chống chọi với hung thần lũ sông Cái!

 

Cụ Lê Đại Cang đã sống giữa một giai đoạn cực kỳ phức tạp của lịch sử; dấn thân vào chốn quan trường nhiều cám dỗ và đầy bất trắc, cụ đã chọn cho mình con đường “ngày đêm chăm chỉ, một lòng báo quốc… vì nước quên nhà, vì công quên tư” (Lê thị gia phả)  để có thể đem trí tuệ xuất chúng và tài năng đa diện của mình cống hiến cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước đầy gian khó, lập nên một sự nghiệp lớn. Sự nghiệp ấy của Lê Đại Cang trải dài trong thời gian 41 năm làm quan qua 3 triều vua, trải rộng trong không gian cả ba miền đất nước từ biên giới cực Bắc đến biên giới cực Nam, từ kinh đô Huế đến cố đô Thăng Long, qua rất nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, giáo dục, văn hóa, ngoại giao… Lặn lội suốt từ Nam chí Bắc, khi làm Cai bạ Quảng Nam, Cai bạ Vĩnh Long, quyền Tổng trấn Bắc Thành, Tổng đốc Sơn - Tuyên - Hưng, Tổng đốc Hà nội – Ninh Bình hay làm Tổng đốc hai tỉnh An Giang - Hà Tiên, ở đâu Lê Đại Cang cũng lo tìm đất hoang cho dân cày cấy, lo đào sông, khơi dòng chảy, tạo điều kiện cho dân canh tác nông nghiệp thuận lợi... Nhưng có một sự nghiệp lớn, sự nghiệp để đời của Lê Đại Cang mà trong Lê thị gia phả hầu như không kể, nhưng lại được chính sử triều Nguyễn ghi chép lại rất nhiều: đó là công việc của một quan đê chính ở Bắc Thành những năm 1828-1831, với sứ mệnh cao cả là "giữ dân và vệ nông"- như sớ cụ tâu vua mà sử có chép lại (Những tư liệu về giai đoạn làm quan Hộ đê này của cụ Cang đã được các nhà nghên cứu lịch sử dày công khảo cứu qua hàng ngàn trang thư tịch cũ, đặc biệt là hai nhà sử học: TS. Nguyễn Minh Tường và TS. Nguyễn Thị Phương Chi).

 

Dân gian còn lưu truyền: tại công đường Nha đê chính - ở cửa Nam thành Hà Nội, cụ Cang đã cho treo hai câu đối: "Đê tồn Cang tại - Đê hoại Cang vong" - bộc lộ rõ quyết tâm sống chết với đê của một vị quan liêm chính, cương trực, ý thức sâu sắc về công vụ, người đặt trách nhiệm tồn vong của đê - tức sự sống còn của Dân lên trên sự sống còn của bản thân mình. Thực cảm động, và quả là bài học thấm thía đối với những công bộc của Dân hôm nay!

 

Khi đảm nhiệm phụ trách việc đê điều ở Bắc Thành, Lê Đại Cang đã lặn lội đi khảo sát, gặp các bô lão nhiều kinh nghiệm khắp các vùng Sơn Nam, xứ Đoài, Kinh Bắc... Cụ đã quan sát kỹ lưỡng dòng chảy của các con sông lớn, nhỏ, tìm ra quy luật dâng lũ của chúng để tìm cách giãn lũ - ví như cụ đã cho giãn lũ sông Cái - Nhĩ Hà qua sông Đuống, ra sông Cầu, bằng sông đào Ngũ Huyện Khê. Cụ còn dày công biên soạn cuốn sách thống kê các đê công - tư, giúp việc quản lý và phòng hộ đê điều chặt chẽ hiệu quả hơn. Sự nghiệp đê điều gian nan khôn xiết, bằng tinh thần tận tụy, trí thông minh, lòng quả cảm, cụ đã cùng dân chúng nhiều vùng quê châu thổ sông Cái - Nhĩ Hà xả thân đắp đê, sửa đê, ngăn được lũ lụt tàn phá làng mạc. Vua phê và khen rằng: “...nước sông lên to, mà đê phòng đều được vững chắc, thực nhờ phúc thần nhiều lắm”. Thực ra, Phúc thần ở đây lại chính là Quan hộ đê Lê Đại Cang, người bốn lần được trọng thưởng, ba lần bị phế chức, người trong hoàn cảnh hiểm nguy nào cũng không rời bỏ chức phận giữ dân và vệ nông. Và cho đến nay, một số vùng quê ven sông Hồng vẫn đang thờ cụ như một phúc thần thành hoàng làng, mà nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu văn hóa - lịch sử hôm nay cần phải tìm cho ra những di tích đặc biệt đáng quý này.

 

Là một người làm phim, tôi đặc biệt “mê” giai đoạn này của cụ Lê Đại Cang, thời mà vị quan văn võ toàn tài quê Bình Định đã kết mối lương duyên với người phụ nữ xinh đẹp dòng dõi nhà vua là quận chúa Lê Ngọc Phiên, rồi cùng bà vượt qua bao sóng gió hiểm nguy, để sau đó cụ trở thành một Quan hộ đê Bắc thành đáng kính trọng vào bậc nhất trong lịch sử dựng nước của Dân tộc ta, được dân lập đền thờ hương khói đời đời...

 

Mai An Nguyễn Anh Tuấn 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Hai 201012:00 SA(Xem: 91636)
Xuân vừa về trên bãi cỏ non… Nghe câu hát ấy của Phạm Duy, ta nghe mùa xuân về đâu đó quanh đây, về trên những thảm cỏ xanh mướt, về trên những bông hoa dại đủ sắc mầu dọc theo con đường chúng ta đi.
18 Tháng Giêng 201012:00 SA(Xem: 23824)
Võ Đình đi đi, lại lại, bứt rứt, bực bội, tìm cách "vẽ" Ôn Như Hầu, nhưng câu thơ hắc búa của Gia Thiều cứ trơ ra như một "ảo giác" không thể "vẽ" được. Võ xoay ngang, chém dọc, bổ đôi, chẻ ba lời thơ, bước vào trong, chạy ra ngoài, mắt nhìn trời, tay vạch đất...
17 Tháng Giêng 201012:00 SA(Xem: 26005)
Nằm trong lịch sử sân khấu phương Tây với những nghi lễ tôn giáo từ thời Hi Lạp cổ đại, sân khấu Pháp đã có sự phát triển bền bỉ và có nhiều thành tựu theo chiều dài các thế kỉ. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tình hình kịch Pháp về cơ bản là kế thừa kịch nửa sau thế kỉ XIX.
26 Tháng Mười 200912:00 SA(Xem: 26706)
Literary fiction commits a double arbitrariness: that of invention itself and the arbitrariness with which it imitates what is essentially arbitrary: reality. (Văn chương phạm vào hai lần vũ đoán: một là cái vũ đoán của tự thân sự sáng tạo, và hai là cái vũ đoán của sự mô phỏng một thứ mà chính nó, tự bản chất, cũng là một sự vũ đoán: hiện thực) Añicos/ Bits (Những mảnh vụn) / Juan Calzadilla
20 Tháng Chín 200912:00 SA(Xem: 24254)
Là một trong những nhà văn tài hoa nhất và sáng tác sung mãn nhất của thế hệ ông, văn chương Mai Thảo bao trùm một giai đoạn dài từ kháng chiến chống Pháp đến di tản hải ngoại; ở khoảng nào, ông cũng có những tác phẩm xuất sắc, vẽ nên những chân dung con người với một nội dung siêu hình, một tâm thức lãng mạn, đớn đau.
20 Tháng Chín 200912:00 SA(Xem: 96823)
Gần đây tôi có dịp đọc một số tài liệu của người trong nước viết về văn học miền Nam 1954-1975. Rải rác đó đây không ít, nhưng gom vào một mối thì có thể kể ra hai nguồn. Thứ nhất là bài phỏng vấn khá thú vị của chị Thụy Khuê, đài RFI bên Pháp, với nhà phê bình Vương Trí Nhàn, hiện sống tại Hànội, xung quanh đề tài văn học miền Nam từ 1954-1975 (*).
17 Tháng Chín 200912:00 SA(Xem: 88775)
Vào những giờ phút cuồng dại vì tâm chúng ta mù quáng thì bất cứ việc gì cũng có thể xảy ra, kể cả chiến tranh. Cho nên, sự thực hành lòng từ bi và trí tuệ là điều hữu ích cho tất cả, nhất là đối với những người có trách nhiệm điều hành công việc quốc gia, khi mà họ nắm trong tay quyền lực và phương tiện có thể tạo dựng nền hòa bình cho thế giới.
29 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 29856)
Mọi Rợ văn hóa [cultural barbarism]. Thoạt nghe có vẻ lạ tai, nhưng suy nghĩ kỹ, mới thấy thấm thía. Đọc cổ thư Trung Hoa, thường thấy những người tự xưng là “người Hoa hạ” rất tự hào về tập tục đội mũ, mặc áo, dinh thự nguy nga, ăn uống tiếp khách ngồi bàn, ngồi ghế, có chữ viết, sách vở.
16 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 28329)
1945, Võ Phiến gia nhập bộ đội trong một thời gian ngắn, sang 1946 ra Hà Nội học trường Văn Lang; đến tháng 12/1946, trở về Bình Định tham gia kháng chiến, sang năm 1947 về làm thuế quan tại Gò Bồi. Năm 1948, ông kết hôn với cô Võ Thị Viễn Phố (Võ Phiến là Viễn Phố nói lái) và ông dạy học ở trường trung học bình dân Liên Khu V.
15 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 35688)
Khác với Nam Cao, người trí thức của Nguyễn Mộng Giác không rơi vào dằn vặt vì vật chất "cơm áo gạo tiền". Ông ý thức sự quan trọng của vật chất nhưng không bao giờ cho đó là vấn đề lớn đối với trí thức. Sau chiến tranh, ông hiểu khó khăn, thiếu thốn là đương nhiên. Điều ông khắc khoải là bị đứng bên lề cuộc sống.