- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

BẾN CHIA LY

18 Tháng Mười Hai 201912:28 SA(Xem: 18120)


kt 3
Tranh Khánh Trường

Hôm ấy là một buổi chiều đầu đông.

Mây trên trời ngưng trôi, chuyển dần từ màu bàng bạc sang xám chì. Hơi lạnh bắt đầu len lỏi vào trong vạt áo, nhấm nháy da thịt. Vài con quạ già tụ họp với nhau tít trên ngọn cây gạo bên đường, lười biếng hé mắt nhìn xuống một tốp lính trẻ đang đi tới bến sông. Ngang qua cây gạo, mấy con quạ cũng chả thèm nhúc nhích. Chúng đang trầm tư. Tốp lính trẻ mệt mỏi lê bước xuống bờ sông. Con sông Thương nước xanh ngăn ngắt chảy lững lờ dường như đứng yên một chỗ. Đò đang ở bên kia. Một người lính dùng tay làm loa gọi: “Đò ơiiiiiiiiiii....” Tiếng gọi đò vang vọng trong chiều thinh tĩnh lặng. Một con quạ già hé mắt nghển đầu nhìn xuống. Những con khác cũng chả buồn nhúc nhích cái thân hình xác xơ đen nhẻm. Nhưng có vẻ chúng cũng hơi khó chịu khi cái giọng trẻ trung rền vang kia phá dòng suy tư của mình. Bằng chứng là chúng chụm đầu vào nhau gục gặc, hơi có tiếng chí chóe, ra điều bàn bạc gì đó...

Tốp lính có mười hai người. Gọi là một tiểu đội. Con đò gỗ do ông lái già chèo sang, cặp bến.

“Sao các chú lại đi đường này?”

“Nhiệm vụ quân sự, bí mật bố ạ!” Một tay lính có vẻ láu lỉnh nhanh miệng trả lời.

Họ ngồi thành hai hàng, hai bên thành đò. Ba lô, súng để dưới lòng thuyền. Yên lặng nhìn mông lung ra dòng nước. Ông đò không hỏi gì nữa, rướn người chèo. Vừa chèo, ông vừa ngắm khuôn mặt của mười hai người trai trẻ. Trong ráng chiều đang buông nhanh, những khuôn mặt sáng láng trẻ trung như tạc vào dòng sông tím thẫm thành ra một bức tranh đẹp đẽ. Ông lái đò thốt nhiên thấy có gì đó cồn cào trong ruột và quặn nhói lên tim. Ông hít một hơi thở thật sâu rồi phà ra nhè nhẹ. Tay vẫn đều đặn đẩy mái chèo. Con đò chầm chậm sang ngang...

“Hết bao nhiêu tiền bố?”

“Các chú bộ đội không phải trả tiền. Đò này của hợp tác xã.”

“Vâng. Chúng con cám ơn. Chào bố.”

“Đi chân cứng đã mềm nhé.”

Ba lô trên lưng, súng trên vai, tốp lính trẻ đi lên khỏi bến sông. Trời đã tối hẳn. Dòng nước sau lưng đen sẫm phả hơi lành lạnh. Xóm ven sông le lói những ngọn đèn dầu. Tiếng chó sủa, tiếng gà kêu nhóc nhách. Tiếng người lớn gọi trẻ con về nhà ăn cơm í ới, léo nhéo... Tất cả những âm thanh ấy như có một áp lực vô hình dồn thêm xuống những đôi chân trẻ trung đã qua mấy ngày hành quân bộ từ những cánh rừng Đùng Đình, Mai Siu xuống. Những đôi chân thốt nhiên trở nên uể oải, chùng xuống. Đến trước mặt cái quán nhỏ duy nhất cạnh con đường xuống bến, cả mười hai đôi chân, không ai bảo ai, không ai rủ rê câu nào, nhất loạt rẽ vào.

“Các chú vào uống nước.” Một thiếu phụ trẻ vừa vặn to ngọn đèn dầu lên, vừa đon đả mời chào.

“Có nước gì cho mỗi thằng chúng em một bát?”

“Có chè xanh nóng đây, mời các chú.”

Quán nhỏ. Một cái chõng tre trên bày ít quà quê. Vài nải chuối. Mấy gói kẹo lạc, kẹo vừng. Vài bao thuốc lá hiệu Nhị Thanh, Tam Thanh. Mấy cái bánh đa Kế, dăm quả trứng gà và có cả một cái điếu cày cùng mớ đóm ...

Những bát nước chè xanh bốc khói được rót ra. Lính trẻ ngồi quây ba mặt xung quanh cái chõng tre, xì xụp húp. Một tay bỗng hếch mũi lên hít hít: “Như là có mùi ngô luộc sao chị?” “Ngô non, chưa thành hạt, chị xin người ta ít đem nấu nước uống lấy sữa cho các cháu bú.” “À...”

Tốp lính nhìn ra phía sau lưng chị chủ quán. Đằng sau chỗ ngồi bán hàng một chút là cái giường đôi, trên đó có hai bé đang ngủ ngon lành, mặc kệ tiếng ồn ào của tốp khách vừa vào. Như có một phản xạ tự nhiên, tốp lính trẻ trầm giọng xuống. Hơi thảng thốt.

“ Chị sinh đôi sao?”

“Vâng. Hai cháu gái.”

“Bố các cháu đâu rồi?”

“Bố các cháu đang trong chiến trường!”

          Lặng yên.

Ngoài đường không thấy bóng người. Ngoài bãi sông tiếng côn trùng bắt đầu ri rích bài ca ăn sương muôn thủa. Tốp lính trẻ sau bát nước chè xanh nóng hình như bắt đầu tỉnh táo và quan sát nhanh như thường lệ. Không gì lọt qua mắt họ. Một cái quán đứng lẻ loi cạnh xóm bên con đường xuống bến đò. Một người phụ nữ trẻ đang nuôi con nhỏ, dáng vẻ lam lũ nhẫn nhịn nhưng vẫn toát lên vẻ hấp dẫn của đàn bà vừa qua một lửa. Vẫn bập bùng mơ hồ đâu đó hòn than hồng ấp iu trong tro bụi đời thường. Hai đứa con của đồng đội đang ở nơi xa... Dường như có mối liên hệ nào đó bỗng dưng được thiết lập. Họ ngỏ ý nhờ bếp nấu bữa cơm tối.

“Chúng em nấu luôn cơm cho chị cùng ăn nhé?”

“Các chú vào bếp mà nấu đi, chị hết gạo rồi, tối nay ăn sắn luộc.”

“Thôi, sắn để sáng mai chị ăn. Tối nay chị ăn cơm với chúng em.”

Họ mở vung cái nồi to trên bếp ra. Dưới là những bắp ngô non chưa thành hạt để nguyên cả râu, cả áo luộc. Trên hấp vài củ sắn đã lột vỏ, đựng trong một cái rá tre nhỏ. Mùi ngô non hòa quện với mùi sắn vừa chín tới bốc lên theo hơi nước nghi ngút, thơm nức. Họ đậy vung lại, nhấc nồi đặt xuống cạnh bếp tro. Nồi quân dụng được đặt lên. Lửa nổi to. Lính tráng vốn rất nhanh nhẹn trong việc này, chỉ nửa tiếng sau, cơm canh đã sẵn sàng. Có rau su hào vừa vào dân xin được, luộc, nước giầm cà chua. Có thịt hộp mở ra, thái miếng, kho mắm ruốc thơm nức. Vừa nấu ăn vừa nói chuyện, tốp lính đã kịp biết chị chủ quán cũng từng là bộ đội Trường Sơn. Gặp và yêu anh lính lái xe. Họ quá đà. Chị sinh con, giải ngũ về quê chưa lâu. Làng nước ong ve không ở được chị ra đây cất cái quán đợi người về. Bố hai cháu bị điều biệt vào trong chiến trường Đông Nam Bộ gần năm nay không thấy tin, chả biết thế nào. Tình quân dân, tình đồng đội, và hình như là cả tình nam nữ tự nhiên, bỗng hòa trộn vào nhau thành một cái gì đó thân mật khó nói nên lời. Về tối đò nghỉ, quán hết khách, tấm liếp chắn cửa được hạ xuống. Đồ hàng cho thúng đậy lại. Cái chõng tre được dựng lên chèn gọn vào cửa. Tăng võng được trải ra ngay bên dưới nền. Hai mâm cơm lính sẵn sàng. Chỉ có một ngọn đèn dầu được đặt cao trên đầu giường. Hai bé gái sinh đôi đẹp như tranh vẽ vẫn ngủ ngon lành. Mười hai chú lính vừa nấu ăn, vừa tranh nhau đứng quanh giường ngắm nhìn hai thiên thần bé bỏng miên man trong mộng, môi mọng đỏ, chúm chím cười mơ. Họ bảo chị chủ quán, chúng em vào chiến trường, gặp anh ấy sẽ xin cấp trên cho mười hai thằng đánh bù, để bố nó về nuôi con...

          Bữa cơm quân dân đoàn kết tối ấy thật ngon. Cơm xong có chè xanh bốc khói thơm nức.

“Các chú đi về đâu?”

“Bọn em xuống tập kết ở ga Sen Hồ rồi lên tàu xuôi Nam chị ạ.”

“Thế sao không lên tàu từ ga Bắc Giang mà phải vòng vo qua bến làm gì?”

“Bọn em toàn lính sinh viên đại học năm thứ nhất vừa vào, chưa quen gian khổ, trên bắt đi bộ rèn thêm để vào chiến trường.”

“Ừ... vào trong đó ác liệt lắm. Phải nhanh nhẹn mới được.”

“Chị cho chúng em ngủ lại đây, sáng mai dậy đi sớm nhé?”

“Chỉ sợ chật.”

“Mùa đông chật chút không sao. Chúng em trải tăng võng dưới đất, nằm đắp chăn ôm nhau càng ấm.”

Câu chuyện đang vui thì hai bé choàng dậy. Hai đôi mắt tròn vo đen láy ngơ ngác. Các chú lính reo lên: “Ôi xinh quá, ra chú bế cái nào.” Họ vụng về và âu yếm chuyền tay nhau hai thiên thần thơm nức mùi sữa mẹ. Hai bé ọ ẹ đòi ăn. Chị chủ quán bảo, thôi các chú đưa cháu cho chị, trải bạt mà nghỉ, mai còn phải đi một thôi đường nữa. Từ đây xuống Sen Hồ dễ đến hơn chục cây số...

Thiếu phụ ngồi trên giường. Khẽ khàng quay lưng lại, bật cúc áo, hai tay ôm hai đứa trẻ, khéo léo nhẹ nhàng đưa núm vú vào miệng chúng. Vừa cho con bú, vừa bảo, “Một chú gạn cho chị xin một cái âu to nước ngô để trên giá đầu giường, đêm chị uống có thêm sữa cho hai cháu bú. Hai cháu các chú háu ăn lắm.”

        Sáu chú lính nằm bạt đắp chăn dưới đất song song với chiếc giường của ba mẹ con. Sáu chú lính nằm phía đầu giường châu đầu lại hình thước thợ. Họ nằm yên lặng không nói thêm gì nữa. Dường như một ngày hành quân với đủ thứ trang bị trên lưng đã đủ mệt, khiến cho họ chìm nhanh vào giấc ngủ. Những hơi thở đều đặn vang hòa vào nhau tạo ra một thanh âm là lạ. Ngọn đèn dầu vẫn được đặt trên cái giá cuối giường, vặn nhỏ hết cỡ chỉ còn hắt ra chút ánh sáng mờ xanh hư ảo. Thỉnh thoảng một cơn gió lạnh lọt vào rung rinh. Hai đứa trẻ vẫn chùn chụt bú say mê. Bà mẹ trẻ ngồi xoay lưng lại cho con bú hồi lâu chắc mỏi. Không thể nằm xuống giường mà cho cả hai con bú một lúc được. Chị xoay người lại, hai tay vẫn hai đứa, dựa lưng vào bức vách phía sau gian quán cho đỡ mỏi. Áo vẫn mở rộng buông lơi. Cặp vú to mọng của đàn bà đang nuôi con sáng lóa trắng toát trong đêm. Tiếng chóp chép chụt chịt của những cái miệng xinh non đang ra sức mút. Mùi thơm nồng ngậy của sữa mẹ sực nức khắp gian quán nhỏ đóng kín. Hai đứa trẻ quả là những đứa bé háu ăn, chúng vẫn say mê bú. Hai cặp môi xinh non không còn ham ăn cắn dứt chộp choạp như lúc đầu. Dường như đã sắp no. Chúng mơn man trên núm vú như vừa ăn vừa giỡn. Cặp môi xinh của con mơn man dịu nhẹ khiến cho thiếu phụ thốt nhiên có cảm giác là lạ mơ hồ dâng lên trong người. Cơ thể dường như ẩm ướt và râm ran khó tả. Ánh mắt thiếu phụ đang đăm đắm nhìn các con rồi chiếu ra xa mơ màng. Ánh mắt lướt qua những thân hình trai trẻ khỏe mạnh đang nằm ngồn ngộn bên dưới. Hình ảnh người cha hai đứa trẻ bỗng từ trong ký ức chưa xa hiện về sống động. Anh ấy cũng trong bộ quân phục màu xanh quen thuộc, cũng đang nằm nghỉ thế kia sau một chặng hành quân đường dài. Rồi anh ấy đứng dậy. Đến bên. Hôn con. Hôn mẹ. Và... Thiếu phụ chợt rùng mình. Lâu lắm cảm giác của một người đàn bà mới trở về rõ ràng và đột ngột như vậy. Thiếu phụ hơi bặm môi, khẽ lắc mái đầu như cố xua đi một ý nghĩ nào đó vừa rực lên. Nàng rung tay nhè nhẹ à ơi ru: “Ả à ơiiiii..../ bồng bồng cõng chồng đi chơi/ đi đến chỗ lội à đánh rơi mất chồng/ ai ơi tôi mượn gàu sòng/ để tôi tát nước cho chồng tôi à lên... ả à ơiiiii...”

Ngọn đèn dầu leo lét cuối giường bỗng nhiên lóe sáng lên. Soi rõ cả khuôn mặt thanh tú của thiếu phụ đang cúi xuống nhìn ngắm hai con mình đang thiu thiu ngủ, miệng vẫn tóp tép trên vú mẹ chưa rời. Và khuôn ngực căng mọng tràn trề dường như hồng rạng lên trong ánh cuối của ngọn đèn trước khi tắt phụt...

“Ôi, hết dầu rồi!”

Tiếng thiếu phụ rên lên nho nhỏ, than vãn, như là nhận lỗi.

Đêm vẫn yên ắng. Vài nhịp thở bỗng nhiên lộn xộn lao xao đứt quãng. Bên ngoài vẫn chỉ có những khúc ca râm ri bất tận của lũ côn trùng. Những con chuột hay chạy kiếm ăn đêm mọi hôm, nay sợ rét hình như cũng rúc kỹ trong hang. Hai đứa bé được bú no, ủ ấm lại ngủ ngon lành trên chiếc giường duy nhất trong quán. Thiếu phụ nằm nghiêng, quay lưng ra ngoài, xoay mặt về phía hai con. Trên thân mình phủ hờ chiếc chăn mỏng không đủ để che lấp đi một đường cong uốn từ bờ vai tròn, xuống eo, lượn lên nơi hông đầy đặn rồi xoải ra mềm mại thon thả mờ mờ trong đêm...

        Đêm. Vẫn là đêm. Mờ ảo.

Hơi thở của những người trẻ đang nồng lên trong đêm tĩnh lặng của miền quê ven sông. Ngày mai, những người trai trẻ ấy sẽ lên tàu, xuôi Nam. Họ sẽ vào chiến trường. Họ bỏ lại gia đình. Bỏ lại quê hương. Họ có người yêu chưa? Họ đã từng cầm tay một người con gái nào chưa? Họ đã được nếm vị ngọt của nụ hôn tình ái chưa...

Lúc nãy, khi trò chuyện, cùng ăn bữa cơm với những người lính trẻ, thiếu phụ cảm thấy mình như vẫn đang sống trong binh trạm Trường Sơn hồi chưa xa. Bên đồng đội. Và bên người yêu của mình. Cũng chỉ mới đây thôi mà nay đã là ngàn trùng xa cách, không biết có còn được gặp nhau nữa không. Chiến tranh ác liệt chả ai nói trước được điều gì. Mấy năm trong chiến trường thiếu phụ đã kịp chứng kiến vô vàn cái chết, với muôn vàn kiểu chết khác nhau mà chỉ lão thần chiến tranh hung bạo mới nghĩ ra được. Mười hai người trai trẻ trung kia, mai họ sẽ vào trong đó. Và rồi...

Và rồi họ có trở về không?

Thiếu phụ bỗng thấy trào lên trong lòng một tình thương da diết. Ứa nước mắt. Thương những người trai trẻ mai sẽ vào tuyến lửa. Thương bố của các con mình giờ này không biết còn hay mất. Và thương mình...

Những câu hỏi, những suy nghĩ mông lung, như những sợi tơ trời, tung lên không gian đặc quánh hơi thở nồng nàn của gian quán nhỏ. Vấn vít vào nhau như một mớ bòng bong. Có lúc không gian như ngưng lại. Tĩnh lặng tuyệt đối. Nghe rõ cả những hơi thở dài sâu thăm thẳm đã cố kìm nén của thiếu phụ trẻ...

“Chị ơi...”

Run rẩy và nhẹ bẫng...

“Gì em...”

Thoảng nhanh không hề ngái ngủ.

“Em... em... nhớ mẹ...”

“Sao...?”

“Chị cho em ôm một tí...”

“Vào đây. Ôm chị đi...”

Thiếu phụ với tay chèn chăn cho hai con. Xoay người lại đón. Cậu lính trẻ rúc gọn vào ngực người đàn bà đang nuôi con nhỏ. Bộ ngực to dập dềnh ấm nóng. Mùi sữa thơm nức. Chút sữa thừa ứa ra lần áo. Cậu lính trẻ rúc mặt xuống, thè lưỡi nếm. Ngọt lành. Cái lưỡi mềm mại chạm vào đầu ti qua lần vải mỏng. Chỉ thế là đủ cho một dòng điện chạy xoẹt từ đỉnh đầu đến gót chân. Tê dại. Hai thân thể cong lên, dính chặt vào nhau trong vô thức.

“Chị ơi...”

“Em nhớ người yêu...”

“Em nhớ bạn gái...”

“Em nhớ cô hàng xóm...”

“Em nhớ bạn học...”

“Em nhớ....”

“Em nhớ....”

“Em cũng nhớ...”

“Chị ơi!”

Thiếu phụ mở to mắt, long lanh.

Những đôi mắt trẻ trai sáng rực trong đêm quây quanh giường từ lúc nào. Khẩn thiết. Đợi chờ. Van xin. Thiếu phụ hiểu họ muốn gì. Nàng ra hiệu cho họ về chỗ nằm. Nhẹ nhàng ngồi dậy. Chèn thêm chăn cho hai con. Tuột hẳn chiếc áo xuống giường. Phần thân trên và bộ ngực to căng tràn trắng lóa tỏa ra một thứ ánh sáng mơ màng thần bí trong đêm. Nàng luồn xuống, thả mình vào giữa những người trẻ trai đang khao khát cực điểm. Những tiếng rên rỉ sung sướng cất lên át cả tiếng côn trùng ăn đêm. Tiếng hơi thở dồn dập nóng bỏng nồng nàn. Những thanh âm đứt quãng xôn xao. “Mẹ em đây...” “Chị em đây...” “ Người yêu em đây...” “ Bạn gái em đây....” “ Của em đây...”. Hối hả. Gấp gáp. Nóng rực. Cả gian quán nồng nàn hương đàn bà, hương trai trẻ thanh tân, hương sữa mẹ...  Ba thứ hương ấy hòa trộn với nhau thành một mùi hương thơm lạ lùng đê mê trong đêm. Nó như một thứ hương thơm thần thoại trong cổ tích làm cho con người ta mê mụ. Nó khiến con người ta làm những việc điên rồ theo tiếng gọi của bản năng mách bảo. Những thân thể trẻ trung quấn riết chặt lấy nhau thành một khối. Rồi họ cùng nhau bay lơ lửng trên thiên đường của hoa thơm trái ngọt, của ánh sáng rực rỡ và hạnh phúc tột cùng. Họ cùng nhau bay về miền cực lạc. Tưởng như những phút giây ngọt ngào ấy sẽ không bao giờ chấm dứt...

Nhưng bên ngoài trời đã bắt đầu rạng sáng. Vài chú gà trống chăm chỉ trong xóm đã bắt đầu cất lên bài ca muôn thủa của mình.

         Mười hai chú lính chia tay thiếu phụ.

Trong ánh sáng mờ của ngày mới sắp đến, hai bé gái vẫn ngủ say như thiên thần. Không ai bảo ai, họ lấy trong ba lô ra, gạo, thịt hộp, lương khô... Và cả những bánh xà phòng giặt của Liên Xô viện trợ đen sì, rắn đanh, để trên giường. Họ để lại cho hai bé. Họ cùng ôm lấy thiếu phụ không muốn dời. Họ hứa sau chiến tranh, dứt khoát sẽ quay trở lại bến sông. Nếu anh ấy không về, họ sẽ nuôi hai bé...

Tiểu đội lính lên đường lúc rạng sáng. Họ đi bộ xuống ga Sen Hồ, lên tàu xuôi về Vinh. Họ hành quân trong đội hình đi về phía Nam.

Đến đầu năm Ất Mão (1975), họ đã hầu như đi dọc chiều dài đất nước. Họ trong đội hình dự bị chiến lược của quân đội nên luôn ở phía sau. Tháng tư năm ấy, khi những khẩu AK mới tinh, nòng còn nguyên ánh thép xanh chưa kịp bắn viên nào thì họ đã có mặt trên chiếc xe quân sự tiến vào Sài Gòn. Vẫn nguyên một tiểu đội mười hai người. Họ mỉm cười hân hoan nghĩ ngày chiến tranh sắp kết thúc. Họ sắp trở lại giảng đường đại học. Và họ sẽ cùng nhau trở lại bến sông...

         Bỗng một tiếng nổ kinh trời và một quầng lửa da cam bùng lên.

Một quả mìn chống tăng còn sót lại trên đường phát nổ, đúng vào chiếc xe chở mười hai chàng lính trẻ.

         Họ bay lên, bay lên, bay lên mãi mãi....

Trên môi họ, nụ cười chưa kịp tắt. Họ vẫn đang mơ về giảng đường và cái bến sông đêm nào. Cái bến sông họ đã để lại một phần tuổi trẻ, mà họ cũng còn chưa kịp biết tên của nó là Bến Chia Ly trong huyền thoại.

Nhưng cũng đúng lúc linh hồn mười hai chàng trai trẻ bay lên, thì tại bến sông xưa, đàn quạ già vẫn đậu trầm mặc trên ngọn cây gạo, bỗng hốt hoảng tung mình bay loạn xạ lên trời cao. Vừa bay vừa kêu những tiếng thê lương ai oán... quạ... quạ... quạ....

TRẦN THANH CẢNH

                                                                   

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Chín 201910:25 CH(Xem: 17810)
Đầu tiên là triệu chứng khó thở kéo dài nhiều giờ. Đó là điều khó hiểu với một người không phải là cuờng tráng song sức khỏe có thể được gọi là sung mãn như ông. Bác sĩ riêng đã loại trừ ngay cái bệnh buộc phải lập tức i-zô-lê( biệt lập), hoành hành bởi con vi trùng mang tên một nhà bác học Đức. Nơi ông ở cũng chưa đến nỗi phải suốt ngày đeo mõm chó cả khi ra đường lẫn ở trong nhà như thành phố Bác - Ki nọ mù mịt bụi khói gần đây mà ông thường thấy trên phim, ảnh.
08 Tháng Chín 201911:54 CH(Xem: 18109)
“Ối... giời đất ôi!” Tiếng rú hoảng kinh của người đàn bà dưới khoang thuyền vọng lên, tiếng được tiếng mất trong gió lộng khi con sóng hung hãn đập mạnh vào lớp vỏ kim loại bên mạn thuyền. Chiếc du thuyền chao chọng, lắc lư như món đồ chơi trong tay đứa trẻ tinh nghịch. Nước văng tung tóe lên cả mặt sàn gỗ đầy vân. Người đàn ông một tay bám chặt lấy cột buồm, một tay rà lại những nút buộc chiếc áo phao mà gió gắn chặt vào người. “Không sao đâu,” người đàn bà dán mình vào chỗ ngồi ởđuôi con tàu, chiếc áo phao màu cam sáng rực dưới ánh sáng mờ ảo của một ngày vừa chớm. Chị nghểnh cổ nói vọng xuống khoang. “Du thuyền chứ có phải ghe đánh cá của ngư dân đâu.” Rồi chị lẩm bẩm,“Đến siêu bão cũng chả sao.” “Cứu mẹ con cháu với!” Tiếng gào khan của một người đàn bà văng vẳng trong tiếng hú của gió. Người đàn ông nghểnh cổ, nhìn xuyên qua màn hơi nước mờ đục. “Hình như có người kêu cứu.” Anh ta nói lớn. Trái tim quýnh quáng trong lồng ngực. Người đàn bà trong áo phao màu cam hỏi
06 Tháng Chín 20193:37 CH(Xem: 17913)
Camie là người nữ đồng nghiệp duy nhất trong số các đồng nghiệp nam làm chung một group gồm chỉ có ba người : hắn , Dick và Dan, cả ba đều là người Việt Nam. Camie là người Philippines , nước da trắng, mắt to, tóc dài, thân hình thon gọn, eo nhỏ mông to. Nhiều lần lão Dick thèm thuồng nói với hắn - Camie sống cô đơn độc thân một mình đang khao khát một tình yêu.
28 Tháng Tám 20193:20 CH(Xem: 16043)
Ở đây, tất cả nhân viên, dù là người địa phương tình nguyện đến làm việc, hay nhân viên chính thức, đều mặc cùng một bộ đồng phục màu xám, áo vest xám, váy đầm hình chữ A màu xám, áo chemise lụa trắng bên trong. Trắng và xám. Đó là 2 màu chủ đạo sau buổi sáng 5.46' ngày 17 tháng 1 năm 1995.
19 Tháng Tám 20193:54 CH(Xem: 18331)
Tôi đứng một mình bên cửa sổ. Đêm lặng. Ngọn đèn hành lang rọi xuống chậu cây chi mai đang nở hoa trắng, tạo thành một quầng sáng đơn độc. Tôi vốn có thói quen đọc sách khuya. Những lúc đêm khuya thanh vắng, khi người đời đã chìm trong mộng mị, là lúc tôi thả hồn mình lang thang với những con chữ. Đọc đến một lúc nào đấy, cảm thấy đầu mình u mê, tôi hay tới bên cửa sổ, đứng khoanh tay nhìn ra ngoài hiên. Tôi thường hay nhìn một cách vô định vào bóng cây sấu già đang chập chờn cô đơn khua lá. Như là một phép dưỡng sinh cho mắt. Từ hôm có chậu chi mai thì hồn tôi trút cả vào chậu cây nhỏ xinh đang nở hoa trắng xoá. Tôi say mê ngắm. Tôi đang mê đắm vẻ đẹp của một loài hoa đã từng được bao thi nhân từ cổ chí kim ca tụng…
16 Tháng Tám 201910:07 CH(Xem: 19679)
Gần 5 năm mới nhận được tác phẩm thứ hai của Nguyễn Trung. Truyện của ông rất đặc biệt, với lối hành văn cuốn hút, mạch truyện chuyển đổi gọn nhanh như những đoạn phim ngắn. Không khí truyện huyền ảo nhưng rất gần với xã hội chúng ta đang sống. Mời quý độc giả và văn hữu cùng vào không gian truyện “Rắn xanh chấm đỏ” của nhà văn Nguyễn Trung. Tạp Chí Hợp Lưu
14 Tháng Tám 20199:09 CH(Xem: 19814)
Mẹ tôi có tính tiết kiệm, ăn uống lúc nào cũng nhường món ngon cho chồng cho con ăn. Khi ba tôi mất, quần áo mới mẹ cứ cất tủ cho đến khi mất còn mới tinh, có cái mẹ chưa mặc. Tôi bây giờ y chang như mẹ, lâu rồi tôi cứ nghĩ rằng mình không có chồng có con nên đâu cần chưng diện làm gì. Con gái tôi thương mẹ nên nó sắm cho mẹ toàn bộ quần áo, son phấn... Tôi đơn giản không phấn son chưng diện... Nên đến hôm tôi dọn nhà tôi lôi ra đồ mới còn quá nhiều, áo quần đẹp, cả đồ lót phụ nữ còn nguyên lố lố mới kít. Tôi không thể mang hết vào SG nên tôi cho từ thiện hết toàn bộ. Tôi liên tưởng đến mẹ. Nếu tôi chết, con tôi nó sẽ chôn hết đống đồ này theo tôi như mẹ.
10 Tháng Tám 20197:07 CH(Xem: 17670)
Anh vừa ra được tập thơ. Tiền đi vay, lãi suất năm phần trăm. Trên đời này, hiện giờ không có gì rẻ hơn thơ và khốn khổ như nhà thơ phải ôm sách của mình đi bán lẻ. Khi đưa bản thảo cho nhà xuất bản, anh nghĩ, việc giải quyết "đầu ra" sẽ tính sau, trước mắt làm sao có được sách đã. Đến khi cầm tám trăm cuốn Đối thoại với dòng sông trong tay anh mới thật sự hiểu thế nào là kinh tế thị trường. Anh nhẫn nhục mang thơ đi phát hành. Bán khắp mọi nơi, bán cả ở những chỗ người ta nhiều tiền nhưng không hiểu thơ và chẳng cần thơ. Cái năm phần trăm của bảy triệu hàng tháng thúc bách anh. Tại một trường phổ thông trung học, khi anh nhờ mua giúp hai chục cuốn, ông hiệu trưởng lật xem qua rồi bảo :" Chúng tôi sẽ vận động các em mua". Ba tuần sau, anh trở lại, ông hiệu trưởng khả kính mang ra chồng sách phủ dầy bụi, nói như người có lỗi :" Ông thông cảm, học sinh bây giờ không thích thơ
09 Tháng Tám 201910:17 CH(Xem: 18766)
Nghe tiếng cót két dưới sân, tôi biết ngay thằng bạn trời đánh vừa tới. Chiếc xe đạp khô dầu, nói bao nhiêu lần là chỉ cần xịt vào đó chút dầu hoặc không có dầu thì quết lên sợi dây xích chút mỡ bò là trơn tru, mà cái thằng nhất định không nghe. Tiếng cót két cứ như tiếng nghiến răng của bà hàng xóm lúc ngủ mê, nghe đến nổi cả gai ốc.
08 Tháng Tám 201912:02 SA(Xem: 17756)
Tiếng bánh sắt siết trên thiết lộ đêm khuya hay không gian yên tĩnh của sân ga luôn có một sức hút lôi cuốn, thỉnh thoảng không có cơ hội cho một chuyến đi nào, tôi thường ra sân ga chỉ để ngồi thu lu một góc nào đó mà cảm nhận sự đoàn tụ và chia ly. Chẳng vì lý do gì hoặc có thể trong cuộc đời mình mát mát quá nhiều, đưa tiễn quá nhiều mà người ở lại luôn là người buồn hơn.