(LẠI NGUYÊN ÂN) |
Loạt bài này của Đông Hồ cho thấy ông góp tiếng nói khá sớm vào luồng suy nghĩ chung của giới sĩ phu người Việt đương thời về việc lựa chọn, trong những tiền đề và điều kiện khả thể, một đường lối ngôn ngữ thích hợp cho cộng đồng dân tộc đang bước vào thời hiện đại.
Từ nửa sau thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX ở xã hội Việt Nam hiện diện 3 ngôn ngữ với viễn cảnh rất khác nhau:
1) Chữ Hán chỉ tồn tại ở dạng chữ viết chứ không sống trong dạng lời nói, chỉ thông dụng ở giới nho sĩ và giới quan chức chính quyền; nhưng chính thứ bán sinh ngữ này lại gói theo một dung lượng ký ức văn hóa dân tộc đáng kể do đã qua ngót ngàn năm được sử dụng bởi bộ phận ưu tú của cộng đồng.
2) Tiếng Pháp và chữ Pháp bắt đầu được phổ biến nhưng mới chỉ kịp chứng tỏ là phương cách kiếm sống cho bộ phận viên chức mới, chứ chưa cho thấy là cửa mở vào một nguồn tri thức mới và một nền văn hóa lớn.
3) Tiếng Việt với tư cách tiếng mẹ đẻ, phổ thông trong toàn cộng đồng dân tộc ở dạng lời nói, nhưng cả hai dạng văn tự ứng với nó đều có vấn đề: chữ Nôm quá phụ thuộc chữ Hán, lại chưa hề được chuẩn hóa để có thể thông dụng trong số đông công chúng thất học; chữ quốc ngữ (tiếng Việt ghi bằng văn tự La-tinh) từ phạm vi sử dụng hẹp (cộng đồng theo đạo KiTô) đang được phổ biến rộng, tự chứng tỏ là thứ chữ viết dễ sử dụng; nhưng việc chuyển sang dùng hệ văn tự xa lạ với truyền thống này cũng ngấm ngầm chứa đựng nguy cơ đánh mất một phần ký ức văn hóa lịch sử vốn gắn với các văn tự Hán Nôm mà các thế hệ trước từng sử dụng.
Chính sách ngôn ngữ của chính quyền thực dân có một điểm nhất quán là loại bỏ quy chế chính thức của chữ Hán, nhưng trong việc lựa chọn cái thay thế, họ đã chuyển từ ý chí ban đầu phổ biến và độc tôn tiếng Pháp sang phương cách mềm dẻo, kết hợp sử dụng tiếng Pháp với tiếng Việt, chữ Pháp với chữ quốc ngữ. Nền học Pháp Việt trở thành cơ sở của hệ thống nhà trường phổ thông của xã hội thuộc địa.
Đầu thế kỷ XX ở Việt Nam có hiện tượng lý thú: hai phía đối lập nhau (phía chính quyền thực dân và phía sĩ phu yêu nước chống Pháp) rốt cuộc lại đồng thuận nhau ở chủ trương phổ cập chữ quốc ngữ vào dân chúng. Giới sĩ phu người Việt do từng gắn bó với Nho giáo và Hán học, đã phải trải qua không ít vật vã trong nhận thức để có thể thừa nhận hệ chữ La-tinh phiên âm tiếng Việt là chữ quốc ngữ của cộng đồng mình. Nếu một vài thế hệ đàn anh bận tâm vì nguồn gốc Âu Tây của dạng chữ viết mới này của tiếng Việt, thì Đông Hồ thuộc lớp thức giả trẻ hơn, chú trọng việc tiếng mẹ đẻ của người Việt được ghi bằng chữ viết mới ấy, do vậy học thứ chữ viết mới này chính là học tiếng mẹ đẻ. Ông viện đến uy tín của nhà thơ Ấn Độ Rabindranath Tagore trong câu nói mà Đông Hồ trích làm đề từ cho bài viết của mình: "Có nhờ học tiếng nước nhà thì chúng ta mới vỡ trí khôn ra được." Nói như ngày nay, dùng chữ quốc ngữ và tiếng Việt làm ngôn ngữ chính thức trong giáo dục thì mới giúp phát triển được tư duy của các thế hệ người Việt. Đông Hồ còn trích một câu nữa làm đề từ bài viết thứ hai của ông - lời nhà văn Pháp Alphonse Daudet: "Khi một dân tộc đã mắc vào vòng nô lệ mà còn khéo giữ được tiếng nước nhà thì cũng như còn giữ được cái chìa khóa để mở cửa ngục giam mình." Tinh thần dân tộc, hoặc như người ta thường nói, lòng yêu nước, - không nghi ngờ gì nữa, - vẫn là thuộc tính hữu cơ của việc cổ động cho chữ quốc ngữ.
Cái tình thế chính trị đương thời mà giới sĩ phu đặc định là tình thế "nước mất nhà tan", "vua là tượng gỗ, dân là thân trâu" khiến tư tưởng trung quân truyền thống của họ lâm vào khủng hoảng, phá sản. Ý niệm "Nước" tách khỏi ngôi vua, trong tư tưởng của họ, trở thành một thực thể chơi vơi. Một loạt chí sĩ tìm cách gắn "nước" với "dân", xây dựng ý niệm về người "quốc dân". Các nhân sĩ có xu hướng duy tân cải lương thì chú ý xây dựng các quan hệ xã hội dân sự và con người công dân tuy họ chưa ý thức thật rõ điều đó về lý luận. Trong việc vận động dùng chữ quốc ngữ, Đông Hồ gắn "dân tộc" với "tiếng nói", gắn nước với chữ ghi tiếng nói dân tộc.
"Phàm một dân tộc nào đều có riêng một tiếng nói, đã có riêng một tiếng nói tất có riêng một thứ chữ. Chữ của nước nào là quốc ngữ của nước ấy. Người trong một nước mà không thông chữ của một nước, là không đủ tư cách làm người dân trong nước ấy." {Học quốc ngữ}
Đông Hồ không phản đối việc học các thứ tiếng nước ngoài, nhưng phản đối những ai toan biến tiếng Pháp chữ Pháp thành quốc ngữ cho mọi người Việt trên đất Việt; ông coi đó là "một lẽ đại nghịch với lẽ tự nhiên". Theo ông, trải một ngàn năm học chữ Hán, tiếp nhận văn hóa Hán mà 25 triệu người Việt đã không đổi thành 25 triệu người Tàu được, thì cũng không thể bằng phổ cập chữ Pháp tiếng Pháp để biến 25 triệu người Việt thành người Pháp được. Đông Hồ nhận thấy có một hàm lượng dân tộc tính đáng kể chứa đựng trong ngôn ngữ dân tộc.
"Đã nói rằng phàm dân tộc nào đều có riêng một thứ tiếng, có riêng một thứ chữ, thì mỗi thứ chữ đều có một cái tinh thần riêng, không bao giờ lầm lộn nhau được […] Cái tinh thần ấy là cái tinh thần của giang san nòi giống từ mấy muôn đời chung đúc mà thành, thì chữ và người bao giờ cũng có một mối vô hình ràng buộc lẫn nhau tới không thể bỏ nhau được. Nên người một nước bỏ chữ nước mình mà lấy chữ một nước khác làm quốc ngữ, là một lẽ đại nghịch với lẽ tự nhiên của trời đất không bao giờ có, nếu dân nào làm trái với lẽ đó là dân đó đã đến ngày tự buộc mình vào vòng vô trí thức để tiêu diệt lấy mình, vì tiếng là nước, tiếng còn thì nước còn, tiếng mất thì nước mất, mà mất đó mới thật là mất hẳn không sao vãn hồi được nữa." {Học quốc ngữ}
Tương tự quan niệm tổ quốc, đất nước của giới sĩ phu, Đông Hồ cũng hình dung nước như một thực thể hữu linh, do vậy mà có ý niệm quốc hồn (hồn nước). Chỗ độc đáo và mới mẻ (mới mẻ so với lớp sĩ phu đàn anh vốn gắn với chữ Hán và coi Nho giáo như quốc giáo) của Đông Hồ là ông lấy tiếng nói riêng của dân tộc (quốc âm) làm nét đặc trưng, tiêu biểu cho hồn nước, từ đó nêu lên một dãy ý niệm tương liên: quốc hồn, quốc âm, quốc ngữ, quốc văn, quốc vận.
Xin dẫn cả đoạn dài để thấy cả tinh thần lẫn lời văn trong lập luận:
"Cổ kim đông tây đều thường nói nước sống được là nhờ ở quốc hồn. Nhưng quốc hồn là một khối hồn nhiên một mối siêu hình chỉ lấy trí từng người mà tưởng tượng thì cũng còn mơ màng phảng phất quá, không lấy gì làm bằng cớ nhứt định được. Tất cũng phải có một cái gì làm tiêu biểu rõ ràng, bằng cớ hiển nhiên cho cuộc sinh hoạt của một dân tộc một quốc gia mới được. Muốn biểu lộ cái quốc hồn ấy cho rõ ràng đích đáng thì chỉ có lấy quốc âm mà thôi. Quốc âm tức là cái tiếng nói riêng của một giống dân, hình như ông Tạo Vật đã uốn đầu lưỡi mà khảy lên cái tiếng thiên nhiên kia, trong trí nghĩ được thế nào là tự nhiên buột miệng nói lên thế ấy, khỏi phải tập luyện sửa sang gì cả […] Nhưng tiếng nói chỉ thoảng qua là hết. Nay muốn giữ lại tiếng nói ấy thì tất phải có một thứ chữ để ghi chép lại. Chữ ấy tức là quốc văn vậy. Chữ của một nước nào là quốc văn của nước ấy, từ những câu ca dao thật thà ở chốn thôn quê mộc mạc cho đến lời văn thơ chải chuốt ở chỗ thi xã văn đàn đều là quốc văn cả. Quốc hồn biểu lộ ra được là ở đó. Quốc văn mà được phong phú tốt đẹp thì quốc hồn mới được tươi tỉnh sáng suốt, quốc vận mới nhơn đó mà được vẻ vang rực rỡ." {Quốc văn Nam Việt}
Chứng minh được rằng quốc vận (vận nước), quốc hồn tùy thuộc vào quốc văn, quốc ngữ, Đông Hồ trở lại khẳng định "nghĩa vụ và trách nhiệm của người dân trong nước" là học chữ quốc ngữ, góp phần bồi luyện quốc văn: "Nay muốn cầu cho quốc vận được vẻ vang rực rỡ thì tất phải giữ cho quốc hồn được tỉnh tươi sáng suốt, mà muốn giữ cho quốc hồn được tỉnh tươi sáng suốt là phải bồi luyện cho quốc văn được phong phú tốt đẹp. Thế thì nghĩa vụ trách nhiệm của người dân trong nước là phải học tập lấy chữ quốc ngữ mình để bồi đắp cho nước nhà có một nền quốc văn cho thật xứng đáng vững vàng. Nước sống được là ở đó." {Quốc văn Nam Việt}
Khái niệm "quốc văn" trong cách hiểu của Đông Hồ, cũng như của phần đông nhân sĩ trí thức những năm 1920 - 1940, bao gồm tất cả những sáng tác, trứ thuật bằng tiếng Việt, trước kia được ghi bằng chữ Nôm và từ nay nên ghi bằng chữ quốc ngữ. Ông ghi nhận "quốc văn mới bắt đầu phôi thai từ đời Trần", qua đến thế kỷ XV-XVI với thơ Nôm cung đình thời Hồng Đức, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, văn sách Lê Quý Đôn, các khúc ngâm chinh phụ, cung oán…
"Nhưng đó chỉ là những bài thơ ca ngâm khúc ngăn ngắn chưa đủ làm tài liệu mô phạm cho một nền quốc văn cho xứng đáng được." Đến Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du ở thế kỷ XIX, "thiên văn chương tuyệt bút", "ngót ba ngàn rưỡi câu thơ lục bát phát biểu diễn xuất được hết cái tinh hoa của non sông nòi giống, để chứng nhận rằng tiếng Việt Nam không phải là nghèo hèn thiếu thốn gì, nói ra cũng vẫn được thanh thoát nhẹ nhàng, tả mạc bức tranh tính tình người ta cũng rất là thanh tao êm ái… Thế là từ ấy tiếng Việt Nam mới có cái cơ sở vững vàng, kẻ sau nầy học tập quốc ngữ mới có chỗ làm nền nếp mẫu mực chắc chắn mà noi theo… Như thế thì quốc văn ta phát đạt mới từ hơn một trăm năm nay."… "Nhưng nếu chúng ta nay nhân đã sẵn cái nề nếp ấy mà tu bổ lại cho hoàn toàn thêm, phát huy cho tăng tiến lên trong vài ba trăm năm nữa, quốc văn Việt Nam sao lại không đến được thời đại toàn thạnh?" {Quốc văn Nam Việt}
Cái đích nhắm tới là một nền quốc văn thịnh đạt, và chữ quốc ngữ là phương tiện cần thiết cho sự xây dựng ấy. Hiểu rằng xây dựng quốc văn thịnh đạt là việc lâu dài, Đông Hồ lên tiếng cảnh cáo óc tư lợi thiển cận của các bậc cha mẹ, - những người này tính rằng cho con học tiếng Pháp chừng trên chục năm rồi đi làm thông ngôn, ký lục kiếm mỗi tháng ngót trăm bạc lương, thiết thực hơn so với việc đeo đuổi chữ "mẹ đẻ" vốn không thấy lợi ích thiết thực cho nhà cửa vợ con.
"Đã đành rằng người ta không thể nhịn đói mà bàn triết lý giảng đạo đức được, nhưng ngoài cái kế mưu sinh nhỏ hẹp thường ngày cũng phải hoài bão một cái chí hướng gì cao thượng, gây dựng một cái sự nghiệp gì bất hủ về sau này chớ đời người ta sống có phải chỉ khu khu trong vòng y thực đâu?" {Quốc văn Nam Việt}
Lý lẽ này cho thấy Đông Hồ vẫn chưa thoát khỏi lập trường đặc tuyển (élite) tuy chính ông đang tuyên truyền cho sự phổ cập chữ quốc ngữ vào đời sống hằng ngày của dân chúng cần lao. Ông nhắc đến dư luận cho rằng nước Mỹ sớm văn minh vì biết coi trọng giáo dục phổ thông. Và viết tiếp:
"Xem thế thì muốn cho nước giàu dân mạnh cũng phải lấy cái phổ thông làm gốc, mà như nước Nam hiện nay lại càng cần có cái giáo dục phổ thông lắm nữa. Vì đám bình dân ở chốn thôn quê, trong chỗ tre gai đất bùn kia nếu còn ngây ngô ngơ ngác, say say mê mê, dầu có người trí thức cao siêu tài giỏi như thần thánh đi nữa cũng không mong vận động được việc gì, mà cũng đành khoanh tay mà thôi! Nay lấy chữ quốc ngữ làm món sơ học phổ thông cho người mình là tài bồi trí đức cho bọn bình dân Nam Việt, gây cho có một cái cơ sở vững vàng, khiến cho bất cứ người nào cũng đều có cái đạo đức giản đan, có trí thức thông thường, đều tiệm (= tạm?) biết được các sự vật, các tình hình trong hoàn cành của mình trong cuộc đời, cho biết chỗ mà trông biết lối mà theo, hành vi sanh hoạt cho phải đường cho khỏi quay cuồng xuẩn động. Cái học phổ thông ấy là cái nguồn gốc cho nhân tính nhân cách, là cái nề nếp cho sự nghiệp văn minh của một nước, thì nước ta không sao không có được." {Quốc văn Nam Việt}
Khi Đông Hồ viết những bài báo này, nền báo chí quốc ngữ ở Nam Kỳ đã có độ dài dăm sáu chục năm tồn tại và phát triển, nhưng trong hệ thống nhà trường đương thời thì vị trí chữ quốc ngữ còn rất nhỏ hẹp. Sau nhiều vận động, đề đạt của dư luận báo chí, từ 18/9/1924 Nha Học chính Đông Pháp mới sửa đổi học quy, cho lấy chữ quốc ngữ dạy ở ba lớp dưới của bậc tiểu học, các lớp và cấp học khác vẫn dùng tiếng Pháp như cũ. Giới nhân sĩ có tinh thần dân tộc chưa thỏa mãn với tình hình, họ tiếp tục vận động đưa chữ quốc ngữ vào nhà trường ở các lớp và cấp học cao hơn. Họ lượng định cuộc vận động ở hai mặt: một mặt tiếp tục tác động để chính quyền thực dân có những thay đổi nhất định về chính sách ngôn ngữ, giáo dục, cụ thể là tăng dần vị trí tiếng Việt và chữ quốc ngữ trong nhà trường phổ thông; mặt khác phải gây dư luận phân tích thuyết phục chính một bộ phận công chúng người Việt vốn phản đối việc đưa tiếng Việt và chữ quốc ngữ vào nhà trường do tính toán lợi ích thiết thực trước mắt ở việc học hành của con cái.
Chính Đông Hồ trong bài viết của mình đã nêu và giải đáp những lý do phản đối mà tựu trung là cho rằng tiếng Việt nghèo vốn từ, phạm vi sử dụng hẹp, khó diễn tả các kiến thức cơ xảo, kỹ nghệ mới từ Âu Tây tới, tóm lại học tiếng Việt không lợi bằng học tiếng Pháp, đưa tiếng Việt vào nhà trường sẽ làm mất thì giờ học tiếng Pháp của học sinh, v.v..
Phải nói rằng không phải ở mọi điểm Đông Hồ đều gây được sức thuyết phục ngang nhau, nhưng có những điểm ông đã tìm được những lý lẽ xác đáng, ví dụ cho rằng tình trạng nghèo hay giàu của ngôn ngữ có sự tùy thuộc trình độ phát triển xã hội, địa vị chính trị của quốc gia:
"Thiếu kém hay giàu đủ, đó là do tư tưởng tri thức của người ta thấp hẹp hay cao rộng chớ nào phải tại chữ." "Chữ Việt Nam sở dĩ chưa có thế lực lan rộng ra ngoài thế giới là bởi nước Việt Nam chưa có thế lực, quốc dân Việt Nam chưa có thế lực đó thôi." {Quốc văn Nam Việt}
Đông Hồ cũng hoàn toàn có lý khi dứt khoát bác bỏ luồng ý kiến cho rằng có thể gác tiếng Việt lại để gây dựng Pháp văn thành quốc văn cho Việt Nam. Ông ví đề xuất đó như chuyện bỏ ngôi nhà tranh tre cha mẹ để lại cho mình để đi ở nhờ tòa lâu đài đã có chủ, may lắm được một bên chái, một góc hè. Đó là chuyện "nếu người biết nghĩ một chút thì còn ai dám công nhận được."
Đông Hồ tự coi lời kết của ông là "mấy lời tâm huyết trung cáo với quốc dân" trong đó ông khẳng định "Việc học quốc ngữ như vừa biện luận trên kia là việc ích lợi cho tôn bang tổ quốc, ích lợi cho cả một nòi giống"… "Sanh ra làm kiếp người Việt Nam ngày nay, trách nhiệm lớn lao, nghĩa vụ nặng nề như thế, ta há có dám không đương chịu?"
Đây cũng là ý thức của Đông Hồ về trách nhiệm kẻ sĩ trước lẽ tồn vong và phát triển của ngôn ngữ dân tộc, của nền quốc văn Việt Nam.
LẠI NGUYÊN ÂN
tiệm: Tôi nghĩ, có nghĩa là từ từ, có nghĩa như chữ "gradually" trong tiếng Anh, như tiệm tiến (Gradually progressing), tiệm cận (Gradually approaching).
2/ Xin vắn tắt: Có 2 trường hợp đã xảy ra mà khiến tôi tự hỏi không biết phương cách nào sẽ là cách giúp VN mau tiến bộ mà vẫn duy trì được văn hóa VN. a/ Những điều đã xảy ra trước khi Đông Hồ viết bài này như ở Nhật Bản hay Đại Hàn có những lúc họ củng muốn thoát tàu và muốn hoàn tòan thay đổi chữ viết của họ, nhưng đã không thể, nhưng họ vẫn tiến bộ về mọi mặt. b/ Ngược lại, sau khi Đông Hồ viết bài này 40 năm, TT Lý quang Diệu của Singapore quyết định dùng tiếng Anh thay cho tiếng tàu trong mọi dịch vụ, vì theo ý ông tiếng tàu không thông dụng, khó học, trong mọi giao dịch quốc tế làm cho Singapore chậm tiến và kinh tế Singapore ngày nay phải nói chỉ sau Nhật và Đại hàn.