- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Bài Sử Khác Cho Việt Nam (kỳ 2)

09 Tháng Mười Một 201012:00 SA(Xem: 8164)

 

 

hopluu102-t71_final-final_0_300x160_2ĐÀNG NGOÀI và ĐÀNG TRONG

 

 

Vấn đề danh xưng và hướng phân li

Sau trận 1672, quân Trịnh “chia binh đóng đồn ở các đường trọng yếu châu Bắc Bố Chính, phòng giữ nghiêm nhặt, lấy sông Gianh làm giới tuyến (phía nam sông là Nam Hà, phía bắc sông là Bắc Hà.) Từ đây Nam Bắc nghỉ binh.” Đó là lời của Thực lực tiền biên, quyển sử của nhà Nguyễn, phe phía Nam. Chúng ta không gặp một xác nhận như thế trong quyển sử của nhóm Lê Trịnh phía Bắc tuy cũng có những lời cam nhận giới hạn quyền lực của mình: “(Trịnh xếp đặt quan tướng) khống chế biên thuỳ, giữ yên dân một phương.” Họ chỉ dùng chữ “hà”: Bắc Hà, Nam Hà khi nói về sông Lam trong trận chiến 1655-60 vào thời gian quân Nguyễn lấn đất làm nổi lên ý thức về biên giới trên vùng đất xa xôi càng lúc càng mở rộng thêm bởi người khác, còn đối với chính họ thì tính chất chủ quyền chỉ mơ hồ trong hình ảnh của thời xa xưa: “Nhân dân hai xứ của các ngươi vốn là nhân dân ở đất của Thánh tổ Thần Tông Hoàng triều, không phải do họ Nguyễn khai thác mà có.” (Hiểu dụ hai xứ Thuận Quảng 1672.)

Nói như thế là để khẳng định tham vọng chủ quyền nhưng thực tế kiến thức và quyền lực cũng khiến họ Trịnh không thấy có nhiều vướng víu tình cảm với vùng đất “do một số thú vật đã thiết lập một nước li khai ở biên giới phía nam” của họ như thấy trong bức thư Trịnh Tráng cầu viện Batavia năm 1637. Chúa xin giúp tàu thuyền, súng ống, binh lính, hứa khi thành công sẽ ban tặng vàng bạc và nhất là “sẽ trao xứ Quảng Nam” cho họ cai trị, nghĩa là chỉ để đổi chủ vùng đất, bởi vì Hà Lan “có thể thu hoạch các sản phẩm trong vùng và gửi một phần cho triều đình” Lê Trịnh – giống như họ Nguyễn khi còn chịu nạp tô thuế Thuận Quảng. Trịnh Tráng còn bám víu vào quan điểm Đông Việt Tây Việt của đất nước khi bày tỏ trong thư mối “lo ngại điều bất ngờ có thể xảy ra ở phía biển (Mạc)” nên không thanh toán được “bọn thú vật” kia nhưng với con cháu thì mối lo phương Nam cũng không giải quyết gì được. Thời ngưng chiến 1672 là một thú nhận bất lực để nhóm li khai trương ra bảng hiệu mới: Nam triều (1719) trước khi người cầm đầu chính thức xưng Vương.

Vùng này trên bản đồ thế giới, như ta đã thấy, chỉ có danh xưng Chamba xuất hiện đầu tiên theo hồi kí của Marco Polo còn thì ông chỉ nói mơ hồ về xứ Caugigu (Giao Chỉ Quốc). Với các bản đồ từ tin tức của thương nhân, giáo sĩ mới xuất hiện tên Kẻ Chợ (“Cachu” 1561) sau cả từ Cauchechina (1526), có lẽ là do thương nhân đánh dấu vùng đất “Cochi [Giao Chỉ] của China” để khỏi lẫn với “Cochin của India” cho nên lúc đầu nó bao gồm toàn Đại Việt, lấn xa lên vùng phía bắc (bản đồ 1599) và đến mãi thế kỉ XVIII vẫn còn tên vùng Thượng/Haut Cochinchine chỉ phần đất phía bắc của Nguyễn so với vùng Basse Cochinchine ở phía nam. Với Alex de Rhodes (1650) thì thấy phân biệt Tunkin / Đông Kinh và Cochinchina với địa điểm HOA (Thuận Hoá/Huế) ghi thật lớn. Những dạng chữ khác nhau trên văn bản, bản đồ: Tonchino, Tonqueen, Tunkin, Tonquim/n... đó đều là dẫn xuất từ kinh đô Trịnh Lê của thời Lê sơ: Đông Kinh. Vẫn còn phần đất Ciampa phía tây nam Ran Ran. Tính chất chủ quyền phân hai rành rẽ trên phần đông bán đảo Đông Dương cũng được người ngoại quốc xác định với bản đồ 1751 có hai chữ Tonquim và Cochinchine đặt đúng vị trí của hai chính quyền Trịnh Nguyễn. Nhưng tất cả đều không ghi nhận được tiếng nói người dân thường chỉ vùng đối ứng với nơi mình ở: Đàng Ngoài và Đàng Trong. Cho mãi đến bản Đại Nam hoạ quốc toàn đồ xuất hiện ở Calcutta 1838, hơi muộn, của Taberd.

Vì sao có hai tên này? Các bản dịch những bài viết của người Âu về xứ Tonquim, Cochinchine, ngày nay thường được chuyển qua hai từ nôm: Đàng Ngoài và Đàng Trong với sự đồng tình của thời thế muốn dùng một danh xưng nôm. Năm 1838 là lúc Gia Long đã thống nhất được 36 năm, kinh đô đang ở Huế, giữa nước. Người ta dễ dàng dựa theo vị trí đó để chấp nhận lối giải thích, là danh xưng được cấu tạo theo lối nhìn qua ngôn ngữ bình dân về phương hướng: “ngoài” Bắc, “trong” Nam. Tuy nhiên rõ ràng hai danh xưng trên không phải dùng chỉ tình trạng chia cắt khu vực dưới triều Nguyễn mà là rơi rớt của một hiện tượng có từ trước, từ thời có hai chính quyền Trịnh, Nguyễn. Lúc đó không thể có một địa điểm Miền Trung để nhìn “ra ngoài” Bắc, đi “vào trong” Nam. Chúng ta đã thấy trên mặt chính thức, Trịnh dựa vào Lê để coi Nguyễn là phản thần li khai, kẻ chiếm giữ bất hợp pháp hai thừa tuyên Thuận Quảng của Lê, không nhìn nhận có một xứ Đàng Trong nào hết. Còn Nguyễn tuy chưa kịp thành lập nước nhưng người ngoại quốc đã thấy chủ quyền của vùng đất là thuộc về ai nên dùng chữ Cochinchine/a riêng biệt, chưa kể họ đã nhìn vào vùng giao thương họ tiếp xúc mà gọi là “nước Quảng Nam” với thủ phủ là Cacham (Kẻ Chàm) trên thôn Thanh Chiêm ngày nay.

Chứng tích về tình trạng Nguyễn muốn là “riêng biệt” xuất hiện trên văn từ sớm nhất là ở tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí 1719 của Nguyễn Khoa Chiêm: Họ muốn là “Nam triều” đối kháng với “Bắc triều” của Trịnh. Phương hướng, địa vực nam/Nam, bắc/Bắc rành rẽ như thế không chừa chỗ cho một điểm giữa để thành hình một nội dung trong/ngoài như ý nghĩa đã gán cho hai danh xưng bình dân kia. Người ta đã chỉ dừng lại ở các danh từ chung đang sử dụng rồi tìm cách giải thích cho hai danh từ riêng kia chứ không chịu đẩy vấn đề đến tận nguồn gốc của nó. Thiết tưởng ý nghĩa đó chỉ có thể tìm thấy khi ta trở lại với lối nhìn phương hướng cụ thể của người Việt những thế kỉ về trước, khi phải vươn tầm mắt ra ngoài vùng châu thổ.

Chứng tích lịch sử để lại rất nhiều và rất muộn (trường hợp bức thư Trịnh Tráng 1637 kia) cho thấy triều đình, nhân vật ở Thăng Long đã nhìn các vùng đất phía nam châu thổ (theo cách nhìn ngày nay) là nằm ở phía tây đối ứng với vị trí phía đông của họ, để phát sinh những cách ứng xử đã bàn nơi các chương sách trước. Một cách nhìn từ vị trí đẳng cấp trên trong xã hội như thế có thể chuyển qua trong lối nói hàng ngày, nơi sinh hoạt của tầng lớp dân chúng bên dưới. Phía tây chỉ là rừng núi âm u, nơi sinh hoạt của lớp cư dân man, lão thấp kém như lớp người Lào, người Chiêm mà triều đình Thăng Long đã cất công trừng phạt. Từ hình tượng bên trong rừng núi phía tây tối tăm, đối ứng với phía ngoài đồng ruộng rộng rãi thênh thang nơi người dân nhìn thấy hàng ngày, đã phát sinh hai cặp đối ứng trong-tây, ngoài-đông trên đường di chuyển nam bắc của người dân Việt đương thời. Và thế là xuất hiện hai danh xưng Đàng Trong, Đàng Ngoài sau khi người dân nhận ra có hai vùng đất thuộc hai chính quyền riêng biệt đang trên đà ngưng chiến lâu dài, nghĩa là trong khoảng 1672-1774.

Một trăm năm đoạn tuyệt, nghỉ binh giúp cho các lãnh chúa có cơ hội củng cố địa vị của mình theo với tình thế và phương tiện có được, gần như không còn dính dấp với nhau nữa khiến cho đến khi “gặp lại”, Tây Sơn, một kẻ đại diện khác của Đàng Trong đã xưng hô với Lê, ông chủ danh nghĩa cũ của toàn vùng, một điều “quý quốc”, hai điều “quý quốc” mang tính xa lạ, đưa đẩy khách sáo, bày tỏ một thực tế không những về quyền lực khác biệt mà còn vẽ ra một cách nhìn mới về nội dung đất nước: nước không còn chỉ thuộc về ông vua như trước nữa. Ý thức của thực tế mới đó được Lê Chiêu Thống, sau khi Tây Sơn rút quân, nhận ra nơi cái “nước trống không”, không của cải, không quyền lực nằm ngoài thân xác bậc Con Trời của chính ông.

 

 Vua và chúa trong một trăm năm sinh tồn ở Đàng Ngoài

 Đã nói, trong hai phần ba thế kỉ của thời kì đầu Trung hưng, đứng chân trên đất chiếm lại của nhà Mạc, chính quyền Lê Trịnh đã tạo dựng một hình thức quyền bính mới nhưng dựa trên các nội dung quan niệm cũ, có xê xích sửa đổi theo tình thế đòi hỏi. Họ bắt gặp các vấn đề mới phải giải quyết với nhiều thành công bên trong nhưng sự thất bại cuối cùng lại đến từ bên ngoài vùng quản trị của họ.

Vẫn chế độ lưỡng đầu mà thực quyền về tay chúa với sự nhẫn nhịn của vua tuy không phải là lúc nào cũng ghìm nén được. Thương nhân phương Tây cũng biết tình hình này nên khi có mang hàng đi biếu thì vua hưởng ít hơn, chỉ được 2/3 của chúa. Chúa không thể làm vua thì tìm cách đem con gái nhà họ Trịnh vào cung, có khi ghép cả gái lỡ thời như trường hợp hoàng hậu của Thần Tông. Vì vua có khi chỉ là cháu chúa nên tất nhiên Trịnh Tạc “được phép vào chầu vua khỏi lạy, chỉ bắt ghế ngồi bên cạnh.” Thế mà Trịnh Giang còn làm đảo lộn nhiều hơn các ông chúa khác: phế vua, lập vua rồi phế vua, giết vua.

Thật ra đó chỉ là những thời điểm nổi bật của tình trạng bức xúc khi chúa muốn làm vua mà không được, nguyên do có phần vì lâu ngày lí thuyết, lí tưởng trở thành thói quen ứng xử, thành kiến khó gỡ bỏ khiến ngay cả chúa cũng phải dè dặt. Đã nói, Trịnh Tạc muốn các quan sau khi chầu vua, mặc ngay cả triều phục vào chầu chúa liền bị bác bỏ cho nên đến ông cháu chắt (Trịnh Cương) được Tham tụng Nguyễn Công Hãng xin mặc áo vàng liền từ chối tuy với thời gian cầm quyền thực sự lâu dài cũng biết làm việc truất phế vua. Là phụ nữ, vợ Trịnh Doanh dễ dàng thấm nhuần thói tục / lí tưởng nên đã buộc con (Trịnh Sâm) không được ngồi cùng mâm với Thái tử Duy Vĩ mà không ngờ đã đem đến tai nạn cho ông này. Chúa nhường cho vua một vài hình thức quyền hành tưởng là hư vị không ngờ trong tình hình quyền lợi có ít phải tranh giành gay gắt thì danh vị lại vẫn còn có giá cho nên vua dự coi thi, ban phát bằng cấp cho cống sĩ, nhiều người vẫn sử dụng các tờ sắc “nội hoàng... đến hơn 1000 người” (Lê Quý Đôn) đó để luồn lọt thăng tiến, và đạt kết quả gây ra một chừng mực rối loạn trong tổ chức điều hành.

Chê trách danh vị quan lại đương thời, Tự Đức phê: “Tham tụng, bồi tụng là gia thần của Phủ Chúa, Thượng thư, Thị lang là vị hão của triều đình.” Đúng là các lệnh tổ chức chòng chéo đã khiến cho quan chức thừa danh vị nhưng có vẻ như người ta cũng dành ra một sự phân công tối thiểu cho hệ thống hai tầng đó như sự việc thu lạm, ẩn lậu thuế năm 1725 chứng tỏ. Nguyên người sai phạm bị Công phiên xác nhận có tội, lại kêu cầu quan chức Công bộ bác bỏ. Tuy cơ quan phúc thẩm cuối cùng đồng ý với bản án đầu tiên, quan chức làm sai phải tội nhưng điều đó cho thấy hình như quan của Bộ, nghĩa là với danh vị của Vua, còn có chút việc làm phúc thẩm công việc thuộc quyền hạn nhân vật của Chúa. Trong vụ binh biến 1674 giết Bồi tụng của Ưu binh, quan chức “xúi giục” có hai ông Thượng thư “làm trái sắc chỉ bị bãi truất”, thế mà khi dẹp loạn xong, những người này được “khôi phục”, “lại được dùng” bằng cách tụt hạng, xuống Thị lang, gọi là để trừng trị! Cho nên bên dưới xa, người giàu có dư ruộng, cứ tưởng là hối lộ lên được đến cấp cao nhất, lại đem cung tiến cả hàng trăm mẫu để vua phải lập kho thóc riêng mang danh hiệu của mình. Đến tình thế này thì thực lực vật chất và danh vị được song hành khiến vua Lê vẫn còn một chút uy thế – dù nhỏ nhoi, cho đến khi gặp phải các ông chúa kiêu ngạo nổi giận. Như Trịnh Sâm bắt giam cả thái tử Duy Vĩ, không đợi đến lúc kẻ-ở-bậc-trên lên làm vua. Và bị đẩy đến bước đường cùng, năm 1738, một số hoàng tử nổi loạn, vượt thoát ngoài kinh thành để Lê Duy Mật trở về mở rộng căn cứ xưa của Nguyễn Kim, chống cự Trịnh đến hơn nửa thế kỉ.

Thật ra so với nhiều người cầm quyền khác, các ông chúa Trịnh không đến nỗi tệ hại như sử sách của kẻ thù họ vẽ ra. Nguyễn đứng trên quan điểm kẻ thắng cuối cùng không nói làm gì nhưng những người chống đối khác, mang danh hiệu “phù Lê”, cũng nhìn họ như một thứ tội đồ của lịch sử chỉ vì họ là kẻ thất bại mà thôi. Công tích của họ tuy còn người nâng đỡ ghi chép nhưng địa vị tông tộc của họ rốt lại đã phải đi theo cái Phủ Chúa bị Chiêu Thống ra lệnh đốt tan tành năm 1787. Công bình nhìn lại, ta thấy không có ông chúa nào mà không xứng đáng với tính cách người thủ lĩnh cả. Họ giết nhau để giành ngôi hay giữ ngôi nhưng rõ ràng là thật tận lực trong địa vị lãnh đạo đất nước. Trịnh Căn có một tuổi trẻ hư đốn theo lời gia phả họ Đặng nhưng đã len lách lên đến tột đỉnh bằng chính quân công của mình trước khi chứng tỏ khả năng điều hành. Trịnh Cương là người thi hành cải cách nhiều nhất, có căn bản nhất như cải cách thuế khoá 1723, hình phạt cũng bớt phần tàn khốc (không chặt tay 1721, không xử tử xã trưởng ẩn lậu dân đinh.) Trịnh Giang bị lật đổ với cớ làm hư hỏng triều chính nhưng đó là khi ông ta đã đắc chí và mang bệnh hoạn, còn khi mới lên ngôi ông vẫn sử dụng Nguyễn Công Hãng để thi hành những cải cách lớn lao dù đã bị ông này chê nặng lời khi còn là Thế tử.

Bình thường cứ mỗi ông chúa lên là một cố gắng gây dựng cơ đồ, vun đắp tiếp cho các công trình về trước hay chỉnh đốn lại những gì sa sút của các ông chúa trước vì cầm quyền lâu ngày nên trở thành giãi đãi, mỏi mệt, buông lung... Các ông chúa tuy phải diệt trừ người thân để nắm quyền nhưng họ cũng từng triệt hạ kẻ lộng quyền dù là thân thuộc, tay chân tin cẩn để bảo vệ cơ nghiệp chung. Trừng trị xong là đến vỗ về: Chính Trịnh Cương khởi đầu làm thơ tiễn đưa sứ thần (1715 rồi 1718) mà dấu vết còn lại kèm theo nhân vật Nguyễn Biểu đã khiến ông Hoàng Xuân Hãn đặt sự việc vào đầu thế kỉ XV. Và cũng chính liên tục dưới đời các chúa đã ban phát những bài “giáo hoá” mà chi tiết là vào năm 1663, liên tục trong các năm 1676, 1710, 1751 như để tỏ vai trò thân cận, không để dân chúng Đông Kinh nghĩ tới vùng Thanh Nghệ – Tây Việt xa lạ nữa. Tất cả lịch sử làm chúa của Trịnh không cho thấy họ mắc vào tình trạng của các triều đại chỉ hưng khởi với vài người mở đầu rồi tiếp theo là những con người bạc nhược yếu đuối, đam mê hưởng thụ.

 

 Di chứng đối kháng Tây-Đông Việt: Ưu binh và biến loạn

 Trận chiến 1672 dữ dội cuối cùng rốt lại không thành công khiến cho Trịnh không còn mơ tưởng về mảnh đất phương Nam nữa. Ta đã thấy ảnh hưởng tàn bạo của cuộc chiến đi vào tâm thức của vài người lãnh đạo ở Đàng Trong. Và tất nhiên tình hình đó không tránh khỏi xảy ra ở đất Đàng Ngoài tuy là dưới biểu hiện khác.

Với ý định thanh toán kẻ địch một lần sau khi đã an tâm và kiêu ngạo với chiến thắng phía Bắc (Mạc và con cháu chúa Bầu), Trịnh Căn huy động đến cả trăm ngàn quân cho chiến dịch. Và đây là thành phần ưu tú của Trịnh Lê, đăc biệt dùng bảo vệ cơ nghiệp nhà chúa, nên quen gọi là Ưu binh, có nguồn gốc từ đất Tây Việt mà thời gian lâu dài trấn đóng vùng trung châu đến Trịnh Cương còn nhận ra (1721): “Từ lúc trung hưng, dùng binh lính Thanh Nghệ diệt giặc Mạc, khôi phục đất nước, rồi giữ luôn binh lính ấy đóng ở kinh đô để đủ số lính chầu chực và bảo vệ hoàng thành...” Tuy cũng có sự phân biệt chi li: “Thanh Hoá là ấp thang mộc, Nghệ An là dân ứng nghĩa... (Trịnh Cương 1724) cho nên quân đó còn được gọi là quân Tam phủ (của Thanh Hoá) nhưng nói chung vẫn là cùng một hệ thống binh dịch và quyền lợi. Với thành phần, công dụng riêng biệt như thế thì dưới mắt người ngoại quốc, loại Ưu binh này trông như một đoàn quân chiếm đóng thật không sai.

Tất nhiên trong tình trạng mở rộng khu vực quản lí thì phần lính đó không đủ nên phải tuyển thêm người trung châu theo nhu cầu cấp thời, được gọi là lính Tứ trấn của bốn trấn chung quanh kinh đô, cần thì tuyển mộ, hết việc thì cho về làm ruộng (trường hợp đánh Cao Bằng 1664, sau khi đánh bắt Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương 1753). Họ như là một loại lính trừ bị so với Ưu binh là lính hiện dịch. Quy định có sẵn cho nên sau chiến dịch 1672, việc giải tán lính Tứ trấn đã không xảy ra biến cố gì. Nhưng với thời bình thì thành phần lính Thanh Nghệ kia là dư thừa thấy rõ. Sử quan Trịnh Lê cố lấp liếm sự việc Ưu binh nổi loạn năm 1674, nhưng sử quan Nguyễn cũng không nhiều lời. Chúng ta chỉ biết đại khái “Ưu binh Thanh Nghệ cậy có công lao, sinh ra kiêu ngạo phóng túng, (Bồi tụng Nguyễn) Quốc Trinh, (Tham tụng Phạm) Công Trứ bàn cách kìm hãm ức chế bớt đi, vì thế binh lính không bằng lòng.” Thế là họ đón đường giết Quốc Trinh, kéo nhau phá nhà Công Trứ. Công việc trừng trị của Trịnh Tạc cho ta thấy phía Chúa không có đường lối đối phó nào ngoài cách phủ dụ bằng tiền bạc với lính, nhẹ tay với quan triều như e sợ sự liên kết của hai tập đoàn này. Còn về phía binh lính thì sự phản kháng cũng chỉ mang dấu vết ô hợp, chưa đủ là mối lo sụp đổ quyền bính.

Tuy nhiên sự việc cũng khiến chúa Trịnh thấy phải cải cách quân đội, một mặt để chia bớt trách nhiệm của Ưu binh mà cũng là bớt áp lực từ phía này trong lúc vẫn phải giữ sự ưu đãi dành cho họ. Trịnh Cương ra quy định (1721) lính Tứ trấn cũng là một thành phần hiện dịch như Ưu binh. Sự lựa chọn rộng rãi hơn: dân ở bốn trấn chỉ chịu 1 lính cho 5 đinh, nhờ thế mà Thanh Nghệ cũng được hưởng phân suất đó thay vì lấy 1 lính từ 3 đinh như trước. Tuy nhiên Ưu binh vẫn lãnh lương nhiều hơn Nhất binh. Những quy định, hành động tiếp theo có vẻ như muốn đẩy địa vị lính Tứ trấn lên tầm quan trọng mới vì ngoài việc ban cấp và trông chừng thi hành việc cấp ruộng cho lính Tứ trấn còn có việc thành lập 6 quân doanh như muốn thống nhất quân đội (1722) và có lễ duyệt binh trọng thể cho lớp lính mới này (1724). Vô tình mà một lực lượng đối trọng với Ưu binh đã thành hình.

Công việc cải cách không được thuận lợi suôn sẻ vì giới hạn phương tiện Trịnh có được. Nhu cầu cai trị bằng sức mạnh khiến Trịnh dù không phải là Mạc cũng phải thi hành chính sách cấp ruộng cho lính như Mạc. Nhưng đem ruộng công cấp cho lính thì “dân không có gì để sinh nhai” như lời tâu của quan đương thời (1733). Vì thế mà từ năm 1727, lính Tứ trấn có tên riêng là Nhất binh do lẽ hạ tiêu chuẩn chọn lựa: cứ 10 đinh mới tuyển 1 lính. Nhà nước do đó lấy ít lính, bớt được số ruộng phải chia cấp. Có những chủ trương thụt thò, bỏ tuyển lính, lấy thêm lính chứng tỏ sự bối rối của nhà cầm quyền trước nhu cầu trị an cấp bách và phương tiện thực hiện. Người ta phải lập phép Đoàn kết, tổ chức Hương binh bắt làng xã tự lo việc an ninh để triều đình không phải chịu tổn phí về sinh hoạt, vũ khí. Nhưng loạn càng lớn thì rốt lại vẫn phải cần đến Ưu binh cho nên Trịnh Doanh thay Trịnh Giang liền tuyển thêm Ưu binh (1740). Vấn đề thành ra trở lại như cũ với sự đe dọa chực chờ qua năm tháng.

Trịnh không giữ yên được vùng trung châu vì nhiều lí do trong đó có lí do ngược đời là vì chính những cải cách muốn đem đến ổn định bằng các thể thức pháp chế rành rẽ. Đã nói, phép Bình lệ của Phạm Công Trứ đề ra năm 1664, trong buổi đầu giúp Trịnh thu thuế, bắt người nhưng theo với thời gian, và nhất là khi thời bình trở lại thì một chính sách “gọn nhẹ”, biếng nhác như vậy lại cho thấy những khuyết điểm lớn lao.

Kết quả bình định ở biên giới phía bắc giúp cho Trịnh Căn kiểm tra địa vực dưới quyền bằng cách lập sổ Tu tri (1694) ghi chép địa phận các làng xã với chi tiết bên trong, như một loại bản đồ viết, tập họp lại có thể thành một thứ địa chí đến từng đơn vị hành chính nhỏ đương thời. Nắm được tổng số lượng điền sản qua kiểm tra, Phủ Liêu liền thi hành chính sách quân điền, ít ra là theo cách thức đời Hồng Đức một chừng mực, tưởng rằng có thể tạo được sự ổn định cho việc nuôi dưỡng sức dân. Tuy nhiên thực tế đã không được như xưa. Phan Huy Chú nhận xét về lệnh phong cấp 1711 này: “Sơn Nam Hạ nhiều ruộng đất công, làm được. Các nơi khác không có mấy, có nữa thì cũng đủ cho cung cấp binh lương, ngụ lộc, không thể nào chia cho các hạng được.” Ấy thế mà Trịnh không thể buông bỏ thân thuộc, những người phục vụ mình, vẫn phải giữ việc cấp ruộng cho họ, cấp dân nuôi họ, càng lúc càng nhiều thể loại đến mức coi như người thụ hưởng chỉ dừng lại ở tờ lệnh mà thôi. Nói như Lê Quý Đôn: “Hộ phiên phát chế lộc, ngụ lộc cho các quan, từ một hai đến hơn 10 xã, người được ban cấp tự thu lấy.” Ông đã so sánh tình trạng này với ngày xưa, theo tình hình thực ấp giả định và thật phong chỉ đúng mức độ hưởng thụ, nhưng rõ ràng là thực tế đương thời còn hỗn loạn hơn. Chính sách quân điền 1711 không hẳn đã được thi hành rõ rệt vì các năm 1712, 1713 tiếp theo là những năm hạn, lụt, “chết đói đầy đường.” Cho nên từ đó ta có thể suy ra tại sao cứ liên tiếp có các tờ tâu về cường hào, các nhà quyền quý lấn lướt dân lành, đồng thời với những tấm bia ca tụng các đại thần, các ông thái giám, bà cung tần rộng rãi khoan thứ cho dân làng, đến cả việc chia lại ruộng đất cho làng, cúng hậu nơi chùa – một số trường hợp “rộng rãi” đó chỉ là do thực tế không có cách nào lấy được phần đã ban cấp trên giấy tờ kia. Ai vụng về, kém thế hơn nữa, không biết “tự thu lấy” thì như Tham tụng Nguyễn Viết Thứ đầu thế kỉ XVIII, khi chết đi “nhà thanh bạch”, chúa phải trả nợ giùm trong lúc mọi người giàu to vào thời ấy, cả đến một viên huyện thừa thấp thỏi mà cũng có ruộng, có tiền hiến cho chùa.

Thật ra không phải chỉ có những sơ hở ngay từ trong chính sách mà chính các lệnh ban hành cho thấy tính chất hối lộ đối với tầng lớp trên không phải là một tội phạm. Lính, như một tầng lớp có chừng mực cao hơn dân thường, thế mà đi lính phải nạp tiền cho công quỹ, lính (hẳn là Ưu binh) vào hầu gần với chúa thì nạp tiền càng cao (Phan Huy Chú). Đặt thuế mới, ví dụ thuế muối (1732) thì muốn có giấy phép kinh doanh, ngoài lễ vật trọng hậu cho người giám đương, còn phải có lễ vật dâng lên chúa. Cho nên không lấy làm lạ là Lê Quý Đôn lấy tiền thu được trong kì thanh tra ở Thanh Hoá (1771), cũng như từng lấy tiền nạp kiện của dân chúng đem cung đốn cho Trịnh Sâm để tiến thân (“người làm quan không có lương bổng thường xuyên, bổng lộc phải trông vào việc kiện tụng,” Cương mục 1746) – ông chỉ khôn ngoan hơn người khác, những kẻ vì giữ riêng cho mình nên gặp tai vạ khủng khiếp hơn mà thôi.

Tình trạng bất lực trong quản lí thấy rõ ở những lệnh trái ngược nhau như nhận định 1723 về việc thi hành “bình lệ” mà còn phải nạp “(thuế/tiền) ngoại ngạch, khoa điều, sai phái nặng gấp hai thuế chính ngạch.” Xác nhận (1729) “dân nghèo phiêu lưu ngày càng khốn khó” thế mà “hộ trú ngụ thì nhà cửa vững vàng... bọn tạp lưu thì của cải đầy đủ...” Nhưng cải cách thì lại gây ra xáo trộn mới khiến phải huỷ bỏ (lệnh 3 năm làm sổ đinh một lần 1722 lại trở về với quy định 12 năm một lần 1730) hay phải có những biện pháp xoa dịu. Đánh thuế đồng và muối (1720), thuế buôn, lấy 1/40 giá trị hàng chở trên thuyền qua lại sở tuần ti (1723). Thế rồi thuế thổ sản phải bãi bỏ (1732) vì người nộp thuế sơn chặt cây, người nạp vải lụa ngừng dệt, người khai thác gỗ, tre bỏ nghề, người bị thu thuế mật không chịu trồng mía; vì thuế bông thuế chè mà vườn tược bỏ hoang... Nhân vật được sử quan cho là chính yếu trong các cải cách về thuế khoá, thi cử, chấn chỉnh quan trường, cả đến việc đề nghị phê phán quan cai trị... từ khi Trịnh Cương lên là Nguyễn Công Hãng – Lê Anh Tuấn ở mức độ cũng quan trọng nhưng có vẻ thấp hơn. Thế mà sau những cải cách, sử quan lại cho rằng “Nguyễn Công Hãng thay đổi phép tắc, chỉ chăm làm những việc phiền phức, dân phiêu tán có đến 527 làng... nhiều người oán ghét.” Không phải chỉ có quan chức mà cả sĩ tử, học trò (1728). Cho nên ông bị giết (1732) không phải chỉ vì tội nói xấu, ngăn trở Trịnh Giang lên ngôi chúa lúc trước mà vì tội để mả phát vượng khí, có nghĩa là tội từ những lời xúc xiểm của kẻ thù lúc các chính sách cai trị đã hết tác dụng, bắt đầu gây ra khủng hoảng mới. Hai năm sau, Lê Anh Tuấn bị giết tiếp hẳn cũng cùng lí do chịu tội thất bại trong cải cách như người đồng liêu nhiều nhiệt tình kia. Các ông này chịu rủi ro hơn một người đồng liêu khác về sau: Lê Quý Đôn.

Cải cách thất bại, rối loạn tiếp theo càng nổi rõ hơn trong tình trạng người cầm đầu suy nhược. Với bề mặt ổn định tương đối do các cải cách đưa đến cùng lúc tổ chức chặt chẽ hơn thêm với sự tập trung quyền hành qua tổ chức Giám ban, Trịnh Giang bắt đầu hưởng thụ. Nhưng do đó ông cũng tuỳ thuộc hơn vào kẻ thân cận khiến uy tín sút giảm đi theo với bệnh tật phải buông bỏ quyền hành. Rối loạn ở bên ngoài, trước nhất là từ những vùng xa. Các vùng ngoài trung châu không an toàn khiến cho quan cai trị chỉ điều hành từ xa, phó mặc cho các phụ đạo có khi nổi dậy hoặc chém giết lẫn nhau. Con cháu họ Mạc lẻn về cũng từng chiếm được Cao Bằng, nên Nguyễn Công Hãng được đưa lên vùng “béo bở” đó như một ân sủng, lại từ chối “chỉ muốn ở bên cạnh chúa” mà thôi! Các nhân vật nổi loạn thất bại ở trung châu chuyển về hoạt động trên vùng thượng du như Nguyễn Diên của phe Ninh Xá, có kẻ đã tồn tại đến cả đời con như trường hợp Hoàng Công Chất – chữ lót “văn” dùng cho tên “giặc cỏ” ở Sơn Nam này đến đây đã trở thành “công”/Ông khi hùng cứ cả vùng tây bắc. Đó là chưa kể Lê Duy Mật đứng chân trên vùng Trấn Ninh xa hơn.

Những dấu hiệu nổi loạn cứ càng ngày càng to rộng hơn theo với đà suy nhược của nhà cầm quyền. Muốn làm đối trọng đồng thời phụ giúp với Ưu binh thì người ta lập Nhất binh như đã nói. Phép Đoàn kết, tổ chức một loại hương binh tuy có kết quả bất ngờ là giúp cho họ Trịnh làm việc đảo chính cung đình thay Trịnh Giang, cứu vãn cơ đồ nhưng lại cũng tạo ra tình trạng mất an ninh khác vì đã trao vũ khí vào các toán người có lúc thực sự trở thành trộm cướp mang danh nghĩa chính quyền. Loạn từ nhỏ ra lớn chứng tỏ ở trường hợp những người xuất hiện ban đầu không có họ mà chỉ có tên trống trơn: Tế, Bồng nổi dậy, làm đà cho người đầy đủ tên họ: Nguyễn Danh Phương đánh chiếm một vùng núi Tam Đảo cả mười năm trời. Người nổi dậy cũng không phải là “nông dân” thuần tuý như nhóm Ninh Xá (1739) có bậc tôn trưởng là Nguyễn Mại, đỗ tiến sĩ, chuyển qua làm quan võ, trấn thủ Cao Bằng, Sơn Tây (1715) mà danh tiếng được gián điệp Nguyễn đưa về tận Thuận Hoá. Sử quan Nguyễn gọi nhóm Ninh Xá là “nghĩa quân”, được Tự Đức khen “đúng” hẳn không phải chỉ vì chống đối họ Trịnh mà một phần chính vì dính dấp đến ông quan trấn thủ được họ khen là “có sức mạnh, trí lực, có tài về chính trị” này.

Mối liên hệ giữa những kẻ nổi loạn và chính quyền cũng không phải là hoàn toàn cắt đứt. Tuy nhóm Ninh Xá dựng cờ Phù Lê, nhưng họ đúc tiền riêng “Ninh Dân thông bảo” với thâm ý lập triều đình khác, và Nguyễn Tuyển lại từng là gia khách của Hoàng Công Phụ – điều này đã khiến Phụ xuất quân định phủ dụ giặc, bất ngờ để trống phủ Chúa cho Trịnh Doanh lên ngôi. Kẻ nổi dậy khi yếu thế, nếu chịu đầu hàng thì cũng tìm được mối liên lạc đến cả vợ chúa Trịnh, như trường hợp Nguyễn Danh Phương được dung túng, “nghiễm nhiên lập một nước đối địch” trong 10 năm trời. Có kẻ được phong chức tước cao như Nguyễn Hữu Cầu làm Hương Nghĩa hầu (1746), kể cả “giặc cỏ” Hoàng Văn/Công Chất cũng được chiêu dụ theo lời hứa “trao quan tước, chiếu theo từng địa điểm mà cho cai trị.” Những kẻ cầm đầu này khó có thể làm hàng thần lơ láo nhưng những người ở cấp thấp thì dễ dàng chịu khuất phục như nhóm con cháu Đinh Văn Tả (tướng bình định Cao Bằng), Hoàng Phùng Cơ. Họ sẽ nổi bật thành nhân vật cần thiết khi những kẻ khác lẩn tránh, như lúc Tây Sơn ra Bắc. Rồi cũng có trường hợp ngược lại như tay chân của Hoàng Ngũ Phúc lại trở thành cướp, hẳn cũng giống như những người của thành phần “chí nguyện binh” tuyển mộ đánh giặc mà Trịnh Doanh cho giải tán khi chỉnh đốn quân đội (1740).

Quan cướp lẫn lộn như thế nhưng họ Trịnh gặp thành công chỉ vì sự chống đối đã diễn ra ngay ở vùng có quan hệ đến sự tồn vong của dòng họ nên phải cố gắng ổn định tình hình. Trịnh Doanh đã thấy “vùng Đông Nam là nơi đẻ ra của cải, thuế khoá của quốc gia” nên tự điều khiển quân tướng, linh động sử dụng người, không nề hà gốc gác quan văn (Phạm Đình Trọng), lính (Nguyễn Phan), kẻ đầu hàng, cả người tuy thân thuộc nhưng khởi đầu chỉ là kẻ cơ hội (hoạn quan Hoàng Ngũ Phúc)... Ông cũng không bắt tội Phạm Đình Trọng không nghe lệnh chiêu dụ Nguyễn Hữu Cầu, bỏ qua việc Đình Trọng tổ chức quân ngũ riêng, không biết có phải bằng tiền vay liều rồi hi vọng quỵt nợ nếu thành công như trường hợp Hoàng Ngũ Phúc nghe lời anh quân sư khách buôn hay không. Quân nổi loạn dù sao cũng là ô hợp như nhóm Ngân Già tuy hung dữ, xông trận vác dao chém bừa bãi nhưng không có đồn lũy, chỉ dựa vào nơi bùn lầy hiểm trở. Trong lúc đó quân lính của Trịnh vẫn có tính chất chính quy, trang bị súng ống như thấy trong các lệnh thu mua diêm tiêu trên vùng thượng du, thuốc súng qua khách thương ngoại quốc ở Kinh thành, ở “phố Lai triều” / Phố Hiến. Rốt lại Trịnh Doanh cũng qua được thời kì nguy khốn những năm 1740-1741, chận Lê Duy Mật, Nguyễn Danh Phương từ xa, phá quân Ninh Xá, Ngân Già, mở rộng khu vực an ninh, giải toả áp lực quân nổi dậy sát kinh thành để tiếp tục chinh phạt Nguyễn Hữu Cầu trên vùng biển xa, rồi diệt trừ Cầu và Nguyễn Danh Phương cùng một lúc (1751), dành cho Trịnh Sâm thanh toán Hoàng Công Chất (1769), Lê Duy Mật (1770) về sau.

Nhưng Trịnh Doanh cũng không thể vượt thời đại của mình. Lời phê của Tự Đức là khá oan uổng: “(Doanh) cũng không phải là người giỏi.” Tuy đã giải tán giám ban để xoa dịu các quan văn võ phải xấu hổ khi thấy bị ghép ngang hàng với người thiến, nhưng Doanh vẫn phải dùng thái giám cầm quân đánh giặc, vài người bị đặt vào thế đứng ở hàng đầu nên càng lúc càng tỏ ra xuất sắc như Hoàng Ngũ Phúc, tuy có người gặp rủi ro như Hoàng Công Kì. Muốn có tính chính danh, Doanh để cho quan triều lo việc thuế má nhưng rốt lại cũng giao vào tay nội giám (1755). Thiếu tiền cho nhu cầu quân bị, ông phải thu thuế Gia tô chồng lên thuế chính thức (1742), vẫn phải cho bán quan mua tước ngay lúc mới cầm quyền (1740), rồi một lần nữa trong tám năm sau, vẫn giống chính sách của Trịnh Giang (1736), người bị lật đổ. Cải cách thi cử cũng là dịp cho nhà nước kiếm tiền chi phí quân dụng: Ai nộp ba quan thì được miễn khảo hạch và vào trường thi ngay, cho nên đến ngày thi, học trò xéo lên nhau, có người chết (1750). Hiện tượng làm mất mặt chính quyền về chính sự hãnh diện trí thức của cơ cấu quyền lực đó cần thiết đến nỗi sau khi bãi bỏ ba năm sau lại phải tiếp tục năm 1765.

Thiếu tiền nhưng thực tế lại phải kén quân. Dù có quân phù trợ, hương binh, chí nguyện binh, thực sự đăt vệ binh ở Tứ trấn nhưng rốt lại vẫn không thể lơ là với quân Ưu binh cốt cán. Ngay cả khi thấy chiến trận ở vùng sông nước cần thành lập quân thuỷ, người ta vẫn đặt Ưu binh chen vào làm nòng cốt. Cho nên dù các nơi khác còn giặc, chỉ mới dẹp xong Ngân Già, Ninh Xá, triều đình vẫn phải tính việc thưởng công, thế là Ưu binh nhân dịp đòi quyền lợi, đòi được tính thêm quan tước ngoài lượng ruộng được chia phần. Lại cũng như lần trước xa, họ không thấy thoả mãn nên kéo nhau đi đốt nhà Tham tụng Nguyễn Quý Cảnh, lùng tìm người để giết (1741).

Sử quan Nguyễn cho rằng: “Ưu binh kiêu ngạo, hung hãn đã thành thói quen, không thể nào kềm hãm được.” Không thể nào kềm họ được nhưng chính họ cũng chỉ là một lực lượng quấy đảo không đủ sức lật đổ triều đình như chúng ta lại thấy họ xuất hiện lần nữa trên chính trường vào hồi tranh chấp cuối đời (1783-84) với hành động hung bạo hơn: phế chúa, lập vua. Bản chất họ là một tầng lớp tay sai, đứng trên dân thường một bực vì có ruộng ở mực ưu đãi, lương trên cả lính Nhất binh, nhưng họ cũng phải nạp “tiền vọng” cho triều đình khi được/bị tuyển mộ, tiền đó hẳn là xén vào số lương lính của họ. Lại thêm những quy định phải nạp tiền vọng “và các tiền khác (?)” khi muốn vào những vị trí hầu cận cao hơn. Cho nên dù là Ưu binh, vẫn có lính trốn. Quyền lợi nhiều có vẻ là ở những cấp bậc chỉ huy Cơ, Đội của họ theo lối quy định cấp chung cả (một/nhiều) xã cho đơn vị để lấy lương mà lại có số lượng cho từng người một – phần thừa ra hẳn thuộc về những người chỉ huy. Cuộc biến loạn năm 1741 đòi thưởng quan tước theo số dân của xã là để làm tăng phần thưởng, nhưng cũng chỉ sẽ về tay những người chỉ huy. Lính trơn vẫn bị gạt ra bên ngoài. Vì thế chúa Trịnh tuy gặp khó khăn vẫn trấn áp được Ưu binh, còn các ông quan triều, nếu không trốn chạy vào phủ chúa để khỏi bị giết thì lại núp sau lực lượng địa phương bị bạc đãi hơn: lính Tứ trấn, như trường hợp Nguyễn Khản / Nguyễn Lệ (1784). Những mâu thuẫn địa phương sâu sắc vẫn còn thể hiện qua những dịp biến động lớn dù rằng nhiều trăm năm đã trôi qua.

 

 Những đổi thay đồng thời với biến loạn

 Những thông tin về tình trạng nổi dậy, mất an ninh xã hội lúc nào cũng vẫn thường được ghi chép, không cứ gì phải đợi đến ngày nay với kĩ thuật tinh vi nhanh nhạy, với quan điểm “chống phong kiến áp bức.” Vì cứ theo đà lôi cuốn của định kiến mà khi sử quan Nguyễn chép hai sự kiện “không mưa”, “được mùa” của năm 1728 có vẻ trái ngược nhau liền bị Tự Đức gằn giọng. Thật ra thì không ai khác hơn dân chúng cảm thấy tình hình như thế nào để than vãn hoặc hưởng thụ trong cuộc sống ngắn ngủi của họ. Vì sự tồn vong của chính mình, Trịnh cũng phải có các biện pháp cứu chữa: chẩn cấp cho dân đói, tha thuế, lực dịch, phủ dụ cho dân yên ổn làm ăn. Cho nên ngay dưới đời Trịnh Giang, giữa những dòng sử kể về sự truỵ lạc của Giang, về khổ nạn dân chúng phục dịch, ta vẫn thấy sử quan chen vào những dòng ngắn ngủi “Lúc ấy nhân trong nước thái bình...” Đói rét tuy có thể là nhân hoạ nhưng vẫn là do thiên tai mà khả năng con người đương thời không chế ngự được. Người dân vốn quen sống chịu đựng, nhẫn nhịn lại phụ thuộc vào sự tuần hoàn thiếu/đủ của chỉ một mùa, một năm ngắn ngủi nên “đói” đó rồi lại “no” đó là chuyện bình thường. Lại có những sự kiện đổi thay thật quan trọng nhưng sử quan ở tầng lớp trên không quan tâm tới nên để chúng hoặc chìm lấp đi hoặc lạc vào những loại “chuyện kể” lệch hướng. Ví dụ trường hợp nhập khẩu một loạt các cây mè/vừng, đậu phộng/lạc, và cây bắp/ngô vào Đại Việt.

Trước hết, ngày nay còn có hai từ khác nhau dành cho mỗi loại cây lương thực này, vốn từ gốc châu Mĩ, chắc chắn là khởi đầu qua những thương nhân Tây phương, (đậu phộng có dấu vết vào Trung Hoa năm 1682, cây mè vào đầu thế kỉ XVIII) đã đi vào Việt Nam, riêng rẽ đến hai vùng có hai chính quyền khác nhau nên mới mang hai tên khác nhau. Ở Đàng Trong, một loại được gọi là cây/trái “bắp” chắc là theo hình tượng cơ bắp của con người. Còn ở Đàng Ngoài thì chữ “ngô” lại cho thấy gốc gác địa phương chuyển dẫn trực tiếp: Đó là từ Trung Quốc mà người Việt theo thói quen từ xưa chỉ nhìn ở phần Nam của nước đó, nơi có nước Ngô một thời đưa người đến cai trị, cái tên được in trí nhiều hơn với những truyện kể về thời Ngô, Việt có Tây Thi, Phạm Lãi... Truyền thuyết về việc nhập giống ngô vào Đàng Ngoài qua chuyện ông sứ thần giấu hạt trong lỗ đít (nên ngô không được dùng cho cúng tế) chứng tỏ sự chuyển tiếp không được suôn sẻ – không hẳn vì lí do chính trị, vì sự ngăn cấm của quan lại Trung Hoa mà có thể vì thành kiến khó chấp nhận cái mới của người Việt. Dù sao thì dân Việt thế kỉ XVIII cũng được thấy thêm một loại cây lương thực ngắn hạn, quan trọng ngang tầm lúa – “lúa ngô”, không phải dầm chân trong nước mà vẫn phát triển qua những tháng không mưa, để được trồng trên những vùng đất cao, chỉ cần một chừng mực tưới tiêu. Tóm lại, thấy một vật phẩm cứu đói thần kì trong thế kỉ XVIII và các thế kỉ sau mà sử quan bỏ qua để lâu ngày sự quen thuộc sẽ trở thành bình thường – tầm thường nếu có ai gợi lên, nhắc tới. Còn hai loại cây hạt dầu kia hẳn đã giúp người nông dân khốn khổ Đàng Ngoài chịu đựng thêm qua những ngày mùa đông giá buốt, đói lạnh.

Chúng ta không rõ những người dân Đò Mè trồng rau cải cho người Hà Lan trú ngụ ở đấy có truyền đạt gì cho vùng trung châu hay không. Chỉ biết cây thuốc lá, mà Lê Quý Đôn biết gốc gác từ Philippin: “tạm-ba-cô”, thấy ở nam Trung Hoa, đến Đàng Ngoài qua ngả Lào (1660) được “quan, dân, đàn bà con gái đua nhau hút”, khiến cho hai lần lệnh cấm 1665 không thấy hiệu quả. Sự mê đắm đó tập trung vào một dạng đặc biệt của cây mê thảo này với tên riêng: “thuốc lào”, thực sự thêm một lối giải trí ngoài rượu chè, cờ bạc bị cấm đoán, đã đem lại cho đám dân cực nhọc những giây phút quên lãng cuộc đời khốn khổ, và cho cả những người của tầng lớp quan quyền một chút ảo vọng về con đường công danh gập ghềnh, có khi đầy cay đắng với những rủi ro bất thường từ sấm sét trên cao, với những xung đột kèn cựa từ các đồng liêu của nhiều nguồn gốc đào tạo...

Đói rét vẫn có đấy nhưng người có tiền của không phải chỉ là công hầu, quận chúa, quan chức. Họ giàu đủ có tiền để mua quan chức, nhiều lần. Người có tiền đông đến mức bỏ ra nạp tiền thông kinh (chưa kể những thứ dành sẵn cho những bước tiếp theo) để giày đạp nhau trong trường thi. Người ta có nhiều tiền, đủ để cho quan chức vay tổ chức quân binh dẹp loạn, một hình thức đầu tư khó thấy thu hồi vốn trong tình hình binh loạn dâng lên tứ phương, thế mà người ta vẫn làm! Số tiền đầu tư phi nông nghiệp dồi dào như thế gợi ý về một tình hình ối đọng tiền bạc mà khu vực ruộng đất không thu hút hết được. Bởi vì ở đó vẫn còn một khu vực ruộng công to lớn mà nhà nước cố bám giữ để ban phát mà duy trì quyền bính tuy rằng đã thấy tư nhân cố len lách chiếm giữ khiến nhà nước phải đề ra biện pháp lấy lại quyền lợi. Đó là tình hình dẫn đến quyết định đánh thuế ruộng tư của nhà nước Lê Trịnh trong thế kỉ XVIII.

Ruộng tư đã thấy xuất hiện trong sử sách từ các triều đại độc lập đầu tiên vì lí do giản dị là nó đã có mặt trong thời Bắc thuộc theo với tổ chức chính quyền ngoại trị. Nhà nước các triều đại đầu không đánh thuế ruộng tư vì “muốn bớt gánh nặng cho dân” như Lê Tắc nói, tuy ông không dùng chữ “tư điền” rõ rệt mà vẫn cho ta hiểu như thế. Thật ra có thể hiểu sát sao hơn như ta đã nhận ra tính chất thu hoạch của nhà nước Lí Trần là dựa trên phần tư điền của mình, trên phần chia của các hào trưởng, thủ lãnh địa phương, không thể nào đi sâu sát từng mảnh đất riêng rẽ được. Với thời gian, Trần Hồ cũng đã mon men vào ruộng tư khi cho lập thuế đinh đánh luỹ tiến theo số ruộng thủ đắc. Phép quân điền đời Lê sơ thay thế sự quản lí thông qua tầng lớp hào trưởng tàn tạ bằng việc ban cấp, chia cắt cho một hệ thống quan chức, xã dân đưa quyền bính trung ương đến tầng lớp thấp trong xã hội, và vẫn là quản lí một số lượng lớn ruộng đất gom góp tất cả lại theo nguyên tắc “đất trong thiên hạ là đất của vua”, không tranh cãi. Nhưng khi quân quyền suy yếu, thế phân tranh kéo dài thì sự chiếm đoạt lâu dài trở thành đương nhiên – điều này thấy ngay trong những lệnh phân xử mua bán tư điền riêng rẽ của các triều trước, buộc có một hạn định thời gian cho việc chuộc lại ruộng cầm thế chẳng hạn. Thời Trung hưng, như đã thấy, Trịnh cứ nhắc lại, lập các lệnh “theo thời bình”, như của thời Hồng Đức nhưng rõ ràng không thể hồi phục quyền lực như trước kia nên ruộng đất cứ vuột khỏi tay chính quyền càng lúc càng nhiều.

Phép Bình lệ chủ yếu nhắm vào phần ruộng đất, dân chúng của nhà nước quản lí, căn bản của chính sách chung vẫn còn đó, những cải cách lẻ tẻ chỉ gây thêm phiền nhiễu mà nhà nước vẫn không thu được tiền của về trung ương. Thời gian 12 năm giữa hai kì kiểm kê / duyệt tuyển là thời kì “vô chính phủ” để hỗn loạn thành hình khó cứu chữa. Năm 1711 có lệnh cấm các nhà “quyền quý, hào phú” thiết lập các trang trại, những nơi không những mang mầm mống cát cứ mà còn tách rời quyền lực trung ương trên đất ruộng, trên dân đinh chịu sưu dịch nữa. Đã có những điều chỉnh phép Bình lệ từ năm 1716, 1719 chia đều thuế khoá và lực dịch không phải chỉ nhắm vào tình trạng đinh suất mà còn nhằm vào sự thủ đắc điền thổ được đo đạc lại. Chính quyền biết rằng đã để lọt ra ngoài phần ruộng đất tư càng lúc càng lớn rộng theo với đà rối loạn xã hội thuận tiện cho việc đầu cơ đồng thời với sự phát triển thương mại mang thêm giá trị cho hàng nội vào tay một số người chuyển sang việc đầu tư vào ruộng đất theo với tâm thức chung của thời đại. Nhận xét năm 1723 “những kẻ ruộng đất liền bờ... đều là hạng người được miễn trừ, không phải đóng góp” dẫn đến việc đánh thuế ruộng tư năm 1728 tuy rằng cũng lại có những quyết định điều chỉnh thụt thò như ta đã nói.

Không phải ngẫu nhiên mà những nhà giàu đã xuất hiện vào thời gian sau lúc thi hành phép Bình lệ. Lê Quý Đôn dẫn sách Trung Hoa, kể chuyện huyền thoại về cảnh tiền đồng nối đuôi nhau với cờ phướn bay suốt hai tháng từ châu Quỳnh (Hải Nam) đến “đất Giao Chỉ” rồi suy ra sự giàu có của một số người trong nước lúc đương thời “vàng bạc tiền thóc kể đến hàng vạn, vườn đẹp ruộng tốt khắp mọi phương.” Và năm xảy ra chuyện “tiền bay” thật có ý nghĩa: 1699. Không phải những người này “tay trắng bỗng nên giàu to”. Sử ghi các năm 1702, 1703 dân đói phiêu tán, dù được miễn giảm thuế má, lao dịch nhưng đến năm 1708 vẫn chưa ổn định, và trong thời gian đó thì Nguyễn Thị Thuyết, “Bà Bổi” của Lê Quý Đôn, đã nhân dịp năm 1703 đói kém, dân đói mà cho vay lấy lãi cùng bán thóc “mua” ruộng!

Trong những người giàu Lê Quý Đôn kể ra, tất cả đều thuộc tầng lớp thấp: huyện, (hương) cống, phụ nữ. Người ta còn tìm ra được tên một phụ nữ khác cũng dâng vua một số lượng lớn, phải lập kho riêng để chứa thóc thu hoạch. Ông huấn đạo phủ Thiên Quan (Thái Bình) chỉ được lưu danh nhờ tấm bia (1738) tán tụng công đức của “bà vợ chính” mà thôi. Chúng ta không rõ những “Bà” này có lợi dụng được tình hình giao thương phát triển của thời đại với người Âu đến lập nghiệp hay không bởi vì tài liệu không nói đến. Nhưng với tính cách tần tảo của phụ nữ thường được ca tụng, như Bà Bổi được ghi trong bia 1720 là “nhà nghèo, chí thú làm ăn” thì tuy không thấy tổ chức buôn bán của các bà, ta cũng có thể nghĩ rằng họ đã gián tiếp hưởng lợi từ tình hình đó. Thêm nữa, những người giàu có cũng đều là dân Hải Dương, Sơn Nam Hạ, thuộc vùng đông, đông nam tích chứa của cải nhiều nhất nước. Đất ruộng của Sơn Nam Hạ có tác dụng trong chính sách quân điền đã được Phan Huy Chú nói đến. Các báo cáo của Lê Trọng Thứ 1742, Lê Quý Đôn 1774 cho thấy ruộng ẩn lậu vào tay cường hào địa phương rất nhiều. Khi quân Nguyễn chiếm bảy huyện ở Nghệ An được nhiều người Đàng Ngoài hưởng ứng thì một dân nội ứng đoan quyết rằng Hải Dương mà không nộp thuế thì chính quyền Trịnh đổ ngay. Chính Trịnh Doanh trong những lần khốn khó bình định vùng nổi dậy ở đông nam, cũng phải thừa nhận mục đích là để chiếm lại vùng “nhân dân đông đúc, sản vật phong phú... là đất Quan Trung, Hà Nội của nước nhà.”

Ở đây cũng là cửa ngõ ra vào của thương thuyền ngoại quốc theo một tuyến sông được gọi chung là La Rivière de Tonquin từ một cửa sông Thái Bình đến tiền cảng Đò Mè / Domea lên Phố Hiến trước khi đến Kẻ Chợ / Đông Kinh. Theo chính sách tách biệt với thương nhân phương Tây, triều đình Lê Trịnh đã để cho người Hà Lan (1637, đóng năm 1663 rồi mở 1665) lập thương điếm ở Kinh thành, ở ti Hiến sát Sơn Nam Hạ thành tên Phố Hiến nổi danh ở Đàng Ngoài như Hội An so với Đàng Trong. Người Anh cũng vào Kẻ Chợ mở thương điếm năm 1683. Tình hình buôn bán thật ra không suôn sẻ như người ta mong tưởng vì sự cạnh tranh giữa các công ti cùng mang tên Đông Ấn nhưng có cái đuôi theo quốc gia xuất phát: Hà Lan, Anh, Pháp. Họ cũng lại than phiền về sự hạch sách, đòi hối lộ các bà phi, của quan quyền bản xứ tuy thật ra cũng nhờ đó họ vượt qua được những ngăn cấm, ví dụ với lệnh cấm lấy người nước ngoài mà một nhân viên Hà Lan trưởng chi điếm Kẻ Chợ (1663) đã có vợ Việt sinh ra người con lai Samuel Baron làm việc cho Anh năm 1672, trông coi thương điếm ở Phố Hiến năm 1678. Bà “me Tây” đầu tiên kia không phải thuộc dòng thấp kém vì từng đi ngoài đường với áo tía, thứ màu riêng dành cho công hầu, vương tước trong lệnh 1661 – sắc áo thấy cả trên mình Trịnh Cương khi nhún nhường không nghe lời nịnh thần xin chúa mặc áo vàng!

Việc buôn bán không đạt lợi nhuận khiến Anh bỏ đi năm 1697, trước người Hà Lan năm 1700, chỉ còn người Pháp bám trụ vì ngoài việc buôn bán họ còn có mục đích truyền giáo để giành giật quyền làm Con cưng của Giáo hội nữa. Sự nhiệt thành trong hành động Tông đồ của người Pháp, người phương Tây nói chung không phải đã không có ảnh hưởng của việc bài đạo càng lúc càng mạnh: lệnh chính thức bắt đầu 1663, rồi gay gắt, bắt thích chữ vào mặt (1712), xử tử giáo sĩ... Nhà nước không nhiệt tình với thương nhân ngoại quốc một phần vì chiến tranh với Đàng Trong đã chấm dứt từ 1672, triều đình không có nhu cầu thiết yếu về việc mua súng đạn, hay lấy thế hù dọa đối phương nữa: Năm 1680 Trịnh còn đổi tơ cho Anh lấy đại bác nhưng năm 1689 Anh đưa chào hàng 20 khẩu, Trịnh chỉ lấy có 7 khẩu! Về phía thương nhân thì thấy hàng hoá trong xứ không đủ cho việc trao đổi đều đặn, liên tục trong năm nên họ không cần giữ một trụ sở thường trực trong xứ. Họ chỉ “buôn hàng chuyến” như thế họ tiếp xúc trực tiếp với dân chúng, tuy không tránh khỏi nhưng bớt được mối trung gian quan quyền, và do thế tuy rằng trên các tiểu sử để lại của những người giàu đã kể không có dấu vết giao thiệp với người ngoại quốc mà ta vẫn nghĩ rằng họ có hưởng lợi từ những chuyến buôn với bên ngoài kia.

Họ Trịnh đánh thuế các món hàng ngoài danh mục cổ điển: thuế thổ sản, muối, kim loại chứng tỏ vẫn có một dòng giao thương nội địa vừa với tầm mức sinh hoạt kinh tế trong nước. Câu chuyện tiền từ Hải Nam bay sang Đàng Ngoài phản ảnh tình hình buôn bán vào cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII của thương nhân Trung Hoa mang tiền đồng Trung Quốc trực tiếp trao đổi với sản phẩm của dân chúng nước Việt đem về nước họ, hay làm trung gian chuyển cho thương nhân người Âu. Các lệnh quy định cư trú cho khách buôn ở nhiều địa điểm cho thấy họ là người Trung Hoa, đồng thời cũng thấy có lệnh bắt buộc đồng hoá để bớt khó khăn trong sự kiểm soát những người này. Lại cũng không thấy dấu vết thương đoàn của người Việt trên vùng trung châu nhưng trong biến loạn 1786 lúc Tây Sơn ra Bắc, các giáo sĩ nhắc đến cơ nghiệp tan tành của đám Các lái xứ Thanh: “thuyền, thóc, tiền sạch cả”. Còn người dẫn quân Tây Sơn ra Bắc làm đảo lộn cơ nghiệp nhà chúa là con nhà lái buôn xứ Nghệ, gia tư có cả hàng vạn. Có nghĩa là xứ Thanh Nghệ không phải chỉ cậy Ưu binh, mà còn có cả sức mạnh thương buôn từ thần, từ thế nữa.

Đã nói, tình hình giao thương ở Đàng Ngoài tuy không có tầm mức quốc tế lớn rộng nhưng so với nội địa thì những hoạt động trong thời Lê Trịnh đã phức tạp hơn ở những thế kỉ về trước. Điều đó chứng tỏ nơi các lệnh truyền nhắc nhở nhiều đến vấn đề tiền tệ. Thiếu tiền cho lưu thông, nhà nước cấm kén chọn tiền, phải đúc thêm tiền mà lệ thuộc vào các tiền hiệu Trung Quốc đang lưu hành nên “nhái” giả các tiền này khiến phát sinh những tên hiệu, niên hiệu quái gở làm đà cho những phóng tay bừa bãi hơn nữa về sau. Nhà nước đích thân mở thêm lò đúc tiền ở địa phương, quanh các năm 1740 (tiền niên hiệu Cảnh Hưng còn lại rất nhiều, rất đa dạng) cho nhu cầu quân dụng rồi có lệnh bãi bỏ năm 1753, lấy cớ tiền các trấn đúc quá lạm, mỏng xấu, chỉ giữ lại hai lò đúc ở kinh thành mà thôi. Thế là không thể ngăn được tình hình đúc lậu trong dân chúng cho kịp với nhu cầu lưu thông, và cũng bởi lí do người dân quen với lối kiếm lợi lộc dù là ít ỏi cũng vẫn nhảy xô vào.

Quyền lực trung ương không tới làng xã nên tuy thiếu tiền trong lưu thông mà vẫn có thể sinh chuyện thông đồng với thương nhân ngoại quốc qua trung gian người Hoa chuyên chở kim loại đồng, tiền đồng ra ngoài. Thông đồng xảy ra giữa thương nhân Quảng Châu, Macao với người Anh khoảng giữa 1707-1721, với Bồ, Hà Lan qua các sự kiện năm 1734, 1744, dù có các lệnh 1718, 1726 chận bắt các thuyền chở tiền lậu. Tình hình tiền tệ rối rắm như thế nảy sinh sự phân biệt giá trị của hai cách tính đếm, hai loại tiền trong lưu thông: tiền cổ/quý, tiền sử/gián không những làm khổ thương nhân nước ngoài mà lại là căn cứ cho những chính sách thuế khoá, lương bổng, thăng thưởng... thấy trong các lệnh rối mù của nhà nước ở thế kỉ XVII, XVIII.

Nhưng chủ yếu vì tình hình cơ bản của xã hội là nông nghiệp nên hoạt động của các nhà giàu kia mang tính đầu cơ ruộng đất rõ rệt. Tiền kiếm được chỉ dùng mua ruộng chỉ vì không có lối thoát đầu tư gần gũi nào khác. Thế mà lại có nhiều lí do khiến cho việc đầu cơ trở nên bấp bênh. Ruộng đất manh mún không tập trung để tạo quyền lực, mà tập trung thì cũng không tạo hiệu suất khá hơn vì cách thức sản xuất vẫn không đổi. Có quá nhiều quyền lực nhìn vào để xâu xé ruộng đất không chỉ từ trên cao của vua chúa, quan quyền mà còn ngay bên cạnh, ở các người bên trong làng xã. Vì thế người giàu có sau khi thu tóm ruộng nương lại phải chia ra: cung tiến là một cách hối lộ người trên, chia cho làng xã là cách hối lộ người xung quanh bảo đảm an toàn cho phần ruộng dành cho con cháu, cho sự an toàn ở địa phương của chính bản thân những người này. Lập hậu cũng là một cách hối lộ làng xã thông qua việc hối lộ thần thánh để mua sự an thân có bảo đảm cho rằng đến cả đời sau. Cách điều chỉnh ruộng đất không mang tính tự nguyện, từ tâm như thế: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” đã tạo ra trong một lúc một tình hình quân bình tài sản tương đối trong xã hội, và đã chận trước được những biến động loạn li mà không ai thấy ra. Đồng thời về lâu về dài tạo ra một nếp sống loanh quanh xóm làng, bụi lúa, con trâu cho cả những người giàu có.

Tuy nhiên cũng không nên quên khía cạnh tích cực của các thế kỉ này. Nhà giàu bỏ tiền mua quan chức, nuôi binh lính đã góp phần vào việc ổn định cho chính quyền Lê Trịnh. Cả người góp chỉ có ba quan để đạp nhau vào trường thi cũng là theo đà mở rộng học vấn đương thời, và tiếp sức cho nó. Có chê trách tình trạng “học tủ” như ghi nhận năm 1693 thì đó cũng chỉ là kéo dài trong loạn li kết quả không tránh được của nền học vấn nhắm vào thi cử mà Lê Quý Đôn cho là gốc gác từ thời Hồng Đức. Tuy nhiên không có cái phong khí đua đòi đó và sự sung túc của một lớp người tiếp sức cho thì không có cảnh Vũ Thạnh bị bãi chức (1699) về nhà mở trường dạy học, “mỗi khi đến ngày giảng tập, nhà học không đủ chỗ chứa, học trò thường mượn thuyền nan cặp vào bên hồ (Bảy Mẫu) nghe lởi giảng dạy.” Trước ông ta có Nguyễn Đình Trụ bị giáng cách, “dạy bảo... học trò cả hàng ngàn người... thành đạt hơn 70 người.” Sử quan cho là “nhân rỗi việc” nhưng chúng ta thấy ra một lớp thầy đồ cao cấp ở xóm làng cũng là hình thành từ sự lạm phát nho sĩ đương thời. Lạm phát nhưng cũng là bức tường thành ý thức chống đỡ cho chế độ khỏi sự xâm nhập của những luồng tư tưởng khác, cụ thể vào thời này là sự rao giảng Đạo mới của người phương Tây. Có một điều mỉa mai là nếu Lê Quý Đôn không ăn của đút, chỉ sống thanh bạch như nhà nho “thực bất cầu bão” thì khi chết đi may ra được chúa Trịnh trả nợ giùm chứ không đủ tiền mua sách do giao thương đem lại để hiểu cả những vấn đề mới nhất thuộc loại “trái đất hình tròn”, và đem ứng xử trong khi làm việc nước để thành nhà bác học như người ta ca tụng ngày nay.

Dù sao thì sinh hoạt văn hoá dồi dào của Đàng Ngoài rõ ràng là nổi bật trong thế kỉ XVII, XVIII. Lê Hi làm Tham tụng “thiên hạ sầu bi” để lại tiếng xấu nhưng cũng là người hoàn thiện tập họp sử kí nhiều đời, của nhiều người đến nay mới được chính thức in ra lần đầu (1697). Ý thức và khả năng chất chứa sách vở của thế kỉ XVIII qua hai vọng tộc Ngô Thì, Phan Huy, Nguyễn Tiên Điền, Trường Lưu... không những làm xuất hiện các sáng tác, biên tập của từng cá nhân mà còn làm nền tảng cho sự thành hình bộ Lịch triều hiến chương loại chí đồ sộ của thế kỉ sau nữa. Và một nền văn chương chữ nôm cũng thành hình nhuần nhuyễn cho đến chúa Trịnh cũng làm thơ nôm. Thơ quốc âm đã kể chuyện, phản ảnh thực sự tâm tình của người dân nước đương thời, không phải vướng víu vì cái khuôn khổ chữ Hán văn vẻ nhưng dù sao cũng là xa lạ, kiêu kì... Ở thế kỉ trước người ta chỉ ra lệnh cấm truyện nôm “nhảm nhí” nơi lời Giáo hoá (1663) nhưng qua thế kỉ sau thì có lệnh tịch thu sách “in ra để buôn bán”, trừng trị (1718) những người tàng trữ, nghĩa là người ta đã phải chống đối một phong trào lớn. Đặng Trần Côn viết khúc ngâm Chinh phụ hẳn là ảnh hưởng từ biến động những năm 1740 nhưng tiếng vang chỉ vượt ra ngoài vòng nho sĩ, rộn rã đến với dân chúng là bằng những khúc diễn nôm tiếp theo, cho nên những lời “tục tĩu” ở Bích Câu kì ngộ kí vẫn còn nằm trong vòng khép kín của những người thông thạo chữ Hán. Thử nghĩ nếu bản diễn âm dịch trọn vẹn những lời kia? – Và đúng là nhà nho đã không dám làm chuyện ấy chỉ vì động đến nền tảng đạo đức vẫn đang được đề xướng, cổ động cho lớp người đông đảo mà họ quản trị. Tất nhiên với người đời nay, nếu có một bản nôm như thế thì họ lại thấy không có gì may mắn hơn vì nhờ đó mà họ hiểu được một quá khứ chân thật hơn.

 

Tạ Chí Đại Trường

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12245)
(Xem: 13783)
(Xem: 15057)
(Xem: 14637)
(Xem: 14627)
(Xem: 15231)
(Xem: 14066)
(Xem: 13817)
(Xem: 13854)
(Xem: 14747)