- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Cảm Nghĩ Về Phim ' The Hurt Locker'

10 Tháng Ba 201012:00 SA(Xem: 104431)

hinh_1_0_193x300_1Hè vừa qua trên đường từ Paris về lại Mỹ, tôi ghé thăm chị bạn ở Virginia trước khi về lại bờ biển miền Tây. Chị bạn đã gần 80. Lần cuối gặp chị khoảng... 15 năm về trước lúc tôi còn làm việc ở Stockton, California, và tôi đã đưa chị đi chơi cùng khắp miền Bắc Cali, đã cùng nhau ôn lại kỷ niệm về các sinh hoạt điện ảnh có với nhau ở Sàigòn trước cuộc đổi đời 1975. Ghé thăm chị lần này vì không biết có còn lần tới. Tôi hình dung những buổi đi viếng các thắng cảnh thủ đô Hoa Thịnh Đốn, đặc biệt Đài Tử Sĩ Chiến Tranh Việt Nam mà lần nào ghé thủ đô tôi cũng tới viếng, và các viện bảo tàng mà tôi chưa có dịp đặt chân tới, đồng thời tâm sự thả giàn với nhau, có thể là lần chót. Chị kêu chân đau không đi bộ được lâu. Rút cục trong vài ngày ở chơi với chị, chúng tôi... chui vào rạp xi-nê cả thảy ba lần.

 

Một trong những lần đó là để xem phim The Hurt Locker. Lâu nay ít theo giõi sinh hoạt điện ảnh nên tôi không có ý niệm gì về cuốn phim này. Khi phim bắt đầu chiếu và biết đó là một phim về cuộc chiến ở Iraq, tôi ngán ngẩm trong bụng. Từ gần 10 năm nay tôi đã thấy và nghe rất nhiều về cuộc chiến này. Như nhiều người Mỹ, tôi không đồng ý việc Hoa Kỳ đem quân vào Iraq, và nghĩ chúng ta nên tập trung vào Afghanistan, giúp xứ này thành một gương mẫu về dân chủ và phát triển kinh tế, và đặc biệt vận động cho quyền được đối xử và sống bình đẳng của giới phụ nữ tại nước này.

 

Song, cũng như nhiều người Mỹ, tôi ủng hộ những người lính đang chiến đấu tại Iraq. Tôi xúc động, đôi khi muốn ứa nước mắt nữa, khi nhìn thấy trên truyền hình những người lính trẻ bị cụt tay cụt chân, có người bị thương và liệt não nằm đó, bên cạnh người vợ trẻ và lũ con thơ, hay những người cha người mẹ lẽ ra phải được thảnh thơi sống đời của mình ở cuối đời nhưng nay phải cưu mang người con thương phế. Mỗi khi chương trình Newshours của PBS chấm dứt bằng vài phút chiếu hình và tên tuổi của những người lính vừa tử trận ở Iraq hay Afghanistan, tôi ngưng mọi việc đang làm để theo giõi, nhẩm đọc tên, tuổi, cấp bậc, tỉnh và tiểu bang, và nơi họ hy sinh, với ý nghĩ để họ không chỉ là những con số, và với niềm kính cẩn pha lẫn chua xót. Tôi thấy bất nhẫn khi nghe đôi người quen phát biểu, cho rằng những người lính này đã tình nguyện chọn quân ngũ vì những đặc quyền đặc lợi, thì có chết người thân của họ cũng không nên than trách, vv.

 

Nhưng tôi bị lôi cuốn vào chuyện phim The Hurt Locker lúc nào không hay, mặc dù chị bạn tôi nửa chừng cuốn phim đứng dậy bỏ ra ngoài ngồi chờ tôi, có lẽ vì cảnh trong phim nhiều chỗ quá căng thẳng cho một người ở tuổi chị. Tôi cũng tự hỏi làm sao mình có thể ngồi lại theo giõi đến phút chót và sau đó bắt gặp mình suy nghĩ nhiều về cuốn phim. Tôi cũng ngạc nhiên một cách thích thú khi thấy ở cuối phim ghi đạo diễn là một phụ nữ, Kathryn Bigelow. Phải chăng vì đề tài chiến tranh khi vào tay một phụ nữ, nhất là một người có tài và xuất thân là một họa sĩ vốn nhạy cảm, đã được khai triển một cách tế nhị, thấm đượm tình thương (compassion), và do đấy nhân bản hơn? Tôi không biết rõ lắm, chỉ biết là mình tiếp thu cuốn phim với niềm xúc cảm gần như thiêng liêng, như mỗi lần được thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật chân tuyền.

 

Khi The Hurt Locker được chọn là một trong 10 phim vào sơ kết giải điện ảnh cao quý Oscar năm nay, rồi vượt lên đứng ngang hàng trong kỳ chung khảo với cuốn phim Avatar -- cuốn phim đã thu về số tiền kỷ lục 2 tỉ Mỹ kim, cao nhất trong lịch sử điện ảnh, của đạo diễn James Cameron (cũng là chồng cũ của đạo diễn Locker) -- tôi có linh cảm là Locker sẽ thắng, mặc dù số thu ngoài rạp rất khiêm tốn, chỉ có trên 21 triệu Mỹ kim. Xem Avatar, một chuyện khoa học giả tưởng, với dàn cảnh vĩ đại tốn kém (230 triệu Mỹ kim, so với 11 triệu của Locker), và khá quyến hoặc với kỹ thuật 3D, có nhiều phần được cấu tạo bởi kỹ thuật vi tính, mang chủ đề thiên về bảo vệ môi sinh -- một quan tâm đặc biệt của tôi --, tôi thấy tâm hồn mình như được trải ra, nâng cao, hướng thượng. Song, khác với Locker, Avatar giúp giải trí tôi nhiều hơn là khiến tôi phải suy tư. 

 

Quả như tôi linh cảm, ngày 7 tháng 3 vừa qua, cũng tình cờ là một ngày trước Ngày Phụ Nữ Quốc Tế thứ 99, lần đầu tiên Hollywood trao vương miện cho một nữ đạo diễn. Ngoài hai giải Đạo Diễn Xuất Sắc Nhất và Phim Hay Nhất, The Hurt Locker còn chiếm thêm bốn giải nữa: gồm Truyện Phim Hay Nhất, Nam Diễn Viên Xuất Sắc Nhất, Hình Ảnh Đẹp Nhất, và Ráp Nối Hay Nhất. Một bài báo đã so sánh việc Locker đánh bại Avatar như anh tí hon David thắng chú khổng lồ Goliath xưa. Một bài báo khác đã diễn tả là nữ đạo diễn Bigelow đã, với Locker, phá vỡ tan tành cái trần bằng kiếng (glass ceiling) vốn lâu nay vẫn ngăn cản giới phụ nữ vươn lên trong nghề làm phim. Mặc dù trước Bigelow đã có ba nữ đạo diễn được đề cử vào chung kết giải Oscar, song đây là lần đầu tiên một phụ nữ được chọn làm Đạo Diễn Xuất Sắc Nhất.

 

The Hurt Locker là tiếng lóng trong quân đội Mỹ, phát xuất từ hồi Chiến tranh Việt Nam, chỉ tình trạng bị thương trong một vụ nổ -- "they sent him to the hurt locker", có nghĩa "họ đã chuyển anh ta vào cái hộp thương tích". Đó là câu chuyện về một đơn vị quân đội Mỹ chuyên môn đi gỡ mìn ở Iraq, với nhân vật chính là Trung sĩ William James, do Jeremy Renner đóng (được giải Oscar Nam Diễn Viên Xuất Sắc Nhất), dựa vào truyện phim (cũng đã được giải Oscar Truyện Phim Hay Nhất) do Mark Boal, một ký giả đã từng theo một đơn vị gỡ mìn ở Iraq, viết.

 

Phim đã hẳn có nhiều cảnh gỡ mìn căng thẳng đến nghẹt thở. Một trong những cảnh đó còn tiếp tục chiếm ngự trong đầu tôi, đó là lúc James gỡ cái "áo vét mìn" quấn quanh và khóa bằng nhiều khóa trên thân một người đàn ông Iraq. Chiếc đồng hồ bom báo cho biết sắp hết giờ mà James chỉ mới gỡ được có một phần hệ thống bom gài quanh người đàn ông. Người đàn ông khóc van xin anh ráng gỡ mìn khỏi thân ông ta, nói ông còn vợ con cần ông sống, và túm lấy tay James trong khi anh biết không còn kịp nữa, nói lời xin lỗi vội vàng, rồi quay lưng rút chạy đúng lúc bom nổ tung người đàn ông và chính James cũng bị sức ép của bom ủi rạp và bị vùi trong đống gạch ngói vừa bị chấn động của bom nổ đổ rớt tung tóe. James sống sót.

 

Trở về Mỹ đoàn tụ với vợ và đứa con trai nhỏ, James không thích nghi được với đời sống dân sự. Một tối nọ, anh nói với thằng con khoảng 2 tuổi, rằng chỉ có một điều anh biết là anh yêu thích. Cảnh kế đó và chót của phim cho thấy anh ta trong bộ đồ chống bom (bombsuit) đang, lưng quay lại khán giả, bước xuống một con phố hoang tàn ở Iraq, tiến tới mục tiêu quen thuộc ...

 

Tôi vẫn nghĩ cái khéo léo của một nhà sáng tạo nghệ thuật là tạo được một đoạn kết "mở", mặc khán giả tha hồ đoán non đoán già cái gì đã hay sẽ xẩy ra sau khi đóng sách lại hay xem xong một cuốn phim, mặc dù có thể không đúng với ý của tác giả. Khi Scarlett O'Hara của Gone With the Wind tất tả chạy từ nhà Ashley Wilkes sau khi Mélanie qua đời, vì khám phá ra chính Rhett Butler mới là người nàng cần, Rhett đang sửa soạn bỏ nhà ra đi. Scarlett khóc lóc van xin song vẫn không giữ được chân Rhett lại. Nàng ngồi phục xuống cầu thang, khóc một chặp, rồi ngửng đầu lên nhìn về phía trước, nói qua màn nước mắt: "Ngày mai ta sẽ nghĩ cách chiêu hồi [Rhett]. Cu ối c ùng t ất, ngày mai là một ngày khác." Đoạn kết ấy, viết từ năm 1936, đã mở đầu cho nhiều thế hệ độc giả sau đó đòi biết cái “ngày mai” đó của Scarlett, đã đưa tới ít ra hai cuốn truyện tiếp theo (sequels) và một cuốn phim, chưa kể một vụ kiện một tác giả và nhà xuất bản đã nhái và nhạo Gone With The Wind. Và vì thế mà Hemingway, tác giả A Farewell to Arms, đã viết đi viết lại tới 39 lần đoạn kết của cuốn tiểu thuyết này của ông?

 

The Hurt Locker đã kết thúc song tôi thấy tôi vẫn lặng người ngồi lại trong rạp, mặc dù biết chị bạn đang chờ ở ngoài. Tại sao Trung sĩ James tình nguyện trở lại Iraq để đi làm cái việc gỡ mìn vô cùng nguy hiểm ấy? Phải chăng vì anh ta thấy việc làm của mình có thể giúp cứu được nhiều mạng người? Tại ...? Có lẽ tôi nên ngưng tại đây về những cái "tại" này -- Tôi nhớ tới hai cuốn truyện nối tiếp của Gone With The Wind mà tôi nghĩ lẽ ra đã không nên có.

 

Mặc dù một số cựu chiến binh của cuộc chiến Iraq chỉ trích cuốn phim là "không chính xác", song đối với tôi cuốn phim đã cho thấy một góc đặc thù của cuộc chiến, rất sống động và đầy nhân tính. Người xem hiểu thêm về sinh hoạt của một đơn vị chuyên gỡ mìn, như khi xem một phim tài liệu; đồng thời cảm thông được với những người lính chuyên làm cái việc đó, qua các nhân vật và cảnh huống, mà chỉ có một tác phẩm nghệ thuật hay mới có thể truyền đạt được những cảm xúc này. Mặc dù rất thích loại phim tài liệu, song tôi nghĩ nếu Locker được thực hiện dưới hình thức một phim tài liệu (documentary) có lẽ sẽ không gây ấn tượng mãnh mẽ bằng khi đó là một phim truyện (feature film) và được thực hiện một cách có nghệ thuật.

 

Trong phim ảnh, một truyện phim hay là nền móng cần thiết, không có không xong, song người viết truyện phim khi chấm cái chấm cuối cùng chỉ mới thực hiện được một nửa tác phẩm. Một tác phẩm điện ảnh, cũng như một vở kịch, chỉ được hoàn tất và trọn vẹn với một đạo diễn giỏi, có khả năng đem được tài diễn xuất của các diễn viên biến thành nhân vật sống động, như có thật. Bigelow đã hoàn tất cái việc đó.

 

Bigelow sinh năm 1951 tại San Carlos, Calif., con duy nhất của một viên quản lý tại một xưởng chế tạo sơn và một nhân viên thư viện. Trước khi bước vào điện ảnh, bà tốt nghiệp đại học về mỹ thuật và sinh hoạt trong ngành hoạ, và là một hoạ sĩ có tài, đã từng dậy tại California Institute of the Arts. Bà tốt nghiệp cao học về điện ảnh tại Columbia University. Phim ngắn đầu tay của bà, dài 20 phút, The Set-Up (1978), là một nghiên cứu về bạo lực. Những phim kế đó (*) của bà cho thấy loại phim hoạt động (action) không xa lạ đối với bà.

 

Song bà thực hiện The Hurt Locker không phải vì muốn làm một phim hoạt động để lôi cuốn khán giả đặng mang về một số thu đáng kể, hay để vinh danh bạo lực. Ngoài việc đây là một công trình nghiên cứu tâm lý nhân vật (a character study) -- cái gì đã lôi cuốn nhân vật Trung sĩ James vào các công tác nguy hiểm làm vậy, và mặc dù đã may mắn sống sót trở về song rồi lại tình nguyện trở lại Iraq tiếp tục làm công việc gỡ mìn? --, Bigelow cũng còn muốn gửi gấm vào đó một thông điệp.

 

"Tôi không thích bạo lực. Tuy nhiên, tôi rất quan tâm tới sự thật. Và bạo lực là một thực tế trong đời sống của chúng ta, một phần của cái bối cảnh trong đó chúng ta sống," Bigelow trả lời một cuộc phỏng vấn về một cuốn phim trước Locker. "[Cuộc chiến tại Iraq] là một cuộc chiến không thể thắng, tại sao chúng ta đưa quân vào đó? [...] Phương tiện duy nhất mà tôi có, cơ hội duy nhất mà tôi có, là sử dụng phim ảnh." (**)

 

Như nhiều người Mỹ chống chiến tranh tại Iraq nhưng ủng hộ người lính đang chiến đấu tại đây, dù họ là những quân nhân tình nguyện, khi nhận lãnh trong tay giải Oscar cao quý, Bigelow đã xin gửi tặng giải thưởng đó, một cách tượng trưng, cho những người lính viễn chinh cả nam lẫn nữ, và cầu chúc họ sớm được hồi hương an toàn.

 

Đạo diễn phim ảnh vốn thường là việc của phái nam; và lại đạo diễn một phim chiến tranh lại càng là việc của đàn ông. Nhưng đây không phải là điều khiến Bigelow bận tâm.

 

"Nếu có một sự đề kháng nào đối với việc đàn bà làm phim, tôi đã chọn không quan tâm tới nó như một trở lực vì hai lý do: Tôi không thể đổi cái giống của tôi, và tôi từ chối ngưng làm phim," Bigelow nói. "Cái quan trọng không phải là ai hay cái gì đã đạo diễn một cuốn phim, cái quan trọng là bạn hoặc phản ứng về cuốn phim đó, hoặc không. Nên có thêm nhiều phụ nữ làm phim; tôi nghĩ là chưa có một ý thức là việc này thực ra có thể làm được. Đúng là ta có thể làm được." (TD, 03/2010) 

Ghi chú:

(*) Xem toàn bộ phim mục của Kathryn Bigelow tại http://hcl.harvard.edu/hfa/films/2009julsep/bigelow.html
(**) Những câu trả lời phỏng vấn của Kathryn Bigelow trích dẫn trong bài lấy từ Web link tại http://www.imdb.com/name/nm0000941/bio

thehurtlocker_0_600x344_1

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Tư 20244:07 CH(Xem: 454)
On the evening of December 21, 1946, the Bach Mai radio resumed its operations somewhere in the province of Ha Dong after a day of silence. One of its broadcasts was Ho Chi Minh’s appeal to the Viets for a war of resistance. He reportedly said: The gang of French colonialists is aiming to reconquer our country. The hour is grave. Let us stand up and unify ourselves, regardless of ideologies, ethnicities [or] religions. You should fight by all means at your disposal. You have to fight with your guns, your pickaxes, your shovels [or] your sticks. You have to save the independence and territorial integrity of our country. The final victory will be ours. Long live independent and indivisible Viet Nam. Long live democracy.
08 Tháng Ba 202411:17 SA(Xem: 2677)
The fact that Ho Chi Minh proclaimed Vietnamese independence and the formation of the Democratic Republic of Viet Nam [DRVN] on September 2, 1945 did not assure its international recognition. The French—reactionaries and progressive alike— adamantly insisted on the reintegration of Indochina into the French Empire, by force if necessary. Other great powers, for various reasons, independently supported the French reconquest.
23 Tháng Mười 20237:38 CH(Xem: 5592)
Even prior to the termination of the war in Europe in the summer of 1945, the United States and the Soviet Union stood out as the leading Great Powers. The United States emerged as the most powerful and richest nation, envied by the rest of the world due to its economic strength, technological and military power. Meanwhile, the Soviet Union surprised all world strategists with its military might. Despite its heavy losses incurred during the German invasion—1,700 towns and 70,000 villages reportedly destroyed, twenty million lives lost, including 600,000 who starved to death in Leningrad alone, and twenty-five million homeless families—after 1942 the Red Army convincingly destroyed German forces and steadily moved toward Berlin.
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 6561)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 59925)
R ồi đến cuộc sụp đổ của miền Nam mùa Xuân 1975 và nhiệm kỳ Tổng thống vừa tròn 40 tiếng đồng hồ của Tướng Minh. Lệnh buông súng đầu hàng của Tướng Minh sáng ngày 30/4/1975 khiến nhiều người, vốn chẳng biết nhiều về những diễn biến tại hậu trường sân khấu chính trị, trút mọi trách nhiệm việc “ mất nước ” (sic) lên đầu ông “ hàng Tướng ” này. [Những lời thở than, khóc lóc “ mất nước ” cũng chẳng khác gì việc đồng hoá một chế độ chính trị với “ Tổ Quốc ” trên trình độ hiểu biết chữ Việt!]
19 Tháng Tư 20246:57 SA(Xem: 312)
Sáng sớm Chủ Nhật, điện thoại gõ nhẹ, nhìn vào messenger thấy dòng chữ nhắn tin từ chú Khánh Trường: “Tập thơ in xong rồi. Ghé lấy nhé.” 30 phút sau tôi ghé nhà, chú chỉ lên kệ sách: “Chỉ mới in 3 cuốn. Cháu cầm 1 cuốn về đọc trước.” Mở trang đầu dưới dòng chữ THƠ KHÁNH TRƯỜNG là hàng chữ “Tặng cháu, Nina Hòa Bình Lê”. Cảm động. Bài viết này xin có lúc được gọi Chú, xưng cháu.
18 Tháng Tư 20248:23 CH(Xem: 388)
Lê Chiêu Thống là vị hoàng đế thứ 16 và là cuối cùng của nhà Hậu Lê. Triều đại nhà Hậu Lê của ông đã chứng kiến nhiều cảnh rối ren của lịch sử nước nhà. Đó là giai đoạn Trịnh Nguyễn Phân Tranh, cả hai đều mang danh nghĩa "phù Lê diệt Mạc". Chúa Trịnh đã diệt được nhà Mạc cho nhà Hậu Lê. Nhưng quyền hành lại nằm trong tay nhà Trịnh. Và sau đó là sự tranh giành và kết thúc của các đời chúa Trịnh. Và sự phát triển lớn mạnh của nhà Tây Sơn đã đánh đổ Chúa Trịnh với danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh". Lòng dân Bắc Hà hoang mang cực độ. Nguyễn Huệ tuy thắng trận, nhưng chưa nắm được lòng dân nên không xưng đế. Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục để nhà Lê làm vua. Nhưng cả ông lẫn nhà Lê điều hiểu rõ quyền hành đang nằm trong tay ai? Nguyễn Huệ tham khảo ý kiến vợ là Công chúa Lê Ngọc Hân việc đưa nhân vật nào lên ngôi. Cuối cùng Nguyễn Huệ đồng ý đưa Duy Khiêm lên ngôi vua. Vua mới đổi tên thành Duy Kỳ, đặt niên hiệu là Chiêu Thống. Ông làm vua chưa tới 3 năm, từ tháng 7 (âm lịch) 1786 tới tháng 1-1789.
15 Tháng Tư 202410:16 SA(Xem: 516)
Vòng Tay Học Trò là tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa năm 1964. Tác phẩm được công chúng nồng nhiệt đón nhận và theo đó cũng hứng nhiều luồng ý kiến khác nhau, càng làm cho tác phẩm nổi tiếng hơn. Chính vì vậy, từ khi xuất hiện, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận trong giới chuyên môn và công chúng độc giả, Hàng chục năm sau, lúc chúng tôi còn nhỏ, chưa đọc tác phẩm đã thuộc tựa đề vì Vòng Tay Học Trò gắn liền với tên tuổi tác giả. Nói đến Nguyễn Thị Hoàng người ta nhớ đến Vòng Tay Học Trò.
15 Tháng Tư 202410:12 SA(Xem: 959)
đời đã một lần ta có nhau / thời gian sương trắng nhạt phai màu / tóc xanh ngày mộng nào xa ngái / rồi bỗng chìm quên trong mắt sâu
15 Tháng Tư 202410:04 SA(Xem: 907)
Cạn đêm vàng võ mảnh sầu Bạc vương nhánh tóc áo nhàu dung nhan Còn chăng ta với nồng nàn? Đếm xanh xuân rụng vơi tan cuộc người