- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Richard Millet: ‘‘ Chúng Ta Đã Giết Chết Pháp Văn!”

08 Tháng Tư 200912:00 SA(Xem: 99218)

Tuần san Le Nouvel Observateur số 2113 

Trần Vũ dịch thuật 

Richard Millet: ‘‘Chúng ta đã giết chết Pháp văn!” 

Giới thiệu của người dịch: Richard Millet sinh năm 1953 tại thành phố Viam, tỉnh Corrèze. Kể từ 1983 với tập truyện “L’invention du corps de Saint Marc”, ông được công nhận như một trong những nhà văn đương đại tại Pháp. Sau 25 đầu sách đã xuất bản, gồm nhiều tiểu thuyết “Ma vie parmi les ombres”, “La Gloire des Pythre”, “L’Amour des trois soeurs Piale”, “Le Chant des adolescentes”, “Le Dernier écrivain”, nhiều truyện ngắn “Sept passions singulières”, “Un balcon à Beyrouth”, “L’Anglélus”, và ký “L’Amour mendiant”, kịch “L’Accent impur”, rồi tiểu luận “Accompagnement”, “Le Sentiment de la langue” (đoạt giải thưởng tiểu luận 1994 của Hàn lâm viện), v.v.. nhà văn còn được biết đến như một gương mặt sôi nổi của sinh hoạt văn học hay bàn về nhân quyền. Tháng 5-2005 Richard Millet cho xuất bản “Harcèlement littéraire”, một tập phỏng vấn, qua đó tác giả giải thích vì sao ông tuyệt vọng với văn học Pháp và không ngần ngại khiển trách giới phê bình, ngành xuất bản, cùng văn giới đồng nghiệp. Phỏng vấn dưới đây do tuần san cánh tả Le Nouvel Observateur thực hiện.

 

*

 

Le Nouvel Observateur: Mọi người biết quan điểm về văn học và ngôn ngữ của Richard Millet. Các quan điểm này dường như càng triệt để hơn nữa trong tập “Harcèlement littéraire” vừa xuất bản. Vì sao?

 

Richard Millet: Vì nỗi tuyệt vọng của tôi gia tăng. Chúng ta đang sống thời hậu nhân bản posthumanisme, hậu văn chương postlittéraire: Không phải trong văn hóa, mà trong con người văn hóa. Giận dữ của tôi là một hình thức để tang. Tôi sửng sốt trước sự vô văn hóa của các nhà văn trẻ bây giờ. Họ không đọc sách và thiếu kiến thức ngôn ngữ. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử văn học mà những gì được viết ra trước đó không còn được quan tâm. Mà nếu làm nhà văn ở thời hiện tại, thì chúng ta, là những kẻ kế thừa 1000 năm văn học và ngôn ngữ. Tôi không tìm thấy ở Pháp một tương đương nào với Antonio Lobo Antunes của Bồ Đào Nha, một Antonio Munoz Molina hay một Javier Marias của Tây Ban Nha, hoặc Thomas Bernhard bên Áo.

 

N.O: Vậy hôm nay, ông chê trách văn học Pháp điều gì?

 

R.M: Đang trở thành một kỹ nghệ văn chương, nhất là tiểu thuyết. Tất cả những thể loại không phải tiểu thuyết đều bị sa thải, đặc biệt thi ca bị xua đuổi, vất bỏ. Thi ca tại Pháp, hầu như đã chết, đã trút hơi thở. Còn vài tiếng thơ lớn, Bonnefoy, Jaccottet. Nhưng ai sẽ tiếp nối họ? Tiểu thuyết đã biến thành một thể loại bá chủ, vừa là một công cụ thăng tiến danh vọng xã hội: Tất cả mọi người đều tin phải viết tiểu thuyết như người ta phải thực hiện các chức năng tiêu hóa của ruột già. Nước Pháp, xuất bản 600 cuốn tiểu thuyết sau mỗi mùa hè. Làm sao không phản ứng trước tình trạng lạm phát này đi kèm với việc đánh mất khả năng phê phán và khiếu thưởng ngoạn. Đã hết những nhà phê bình lớn, đa số tránh né câu hỏi "bút pháp." Lấy ví dụ Philip Roth: nhà văn lớn, hiển nhiên, nhưng là một nhà văn không có văn phong. Philip Roth dùng một loại văn đúng ngữ pháp, khá nhạt nhẽo, nhằm phục vụ một cấu trúc truyện cực kỳ thông minh.

 

N.O: Ông đã chỉ trích Editions de Minuit, và đặc biệt Echenoz.

 

R.M: Trong tất cả những gì mà tôi đã đọc của Editions de Minuit, tôi không cảm thấy những cá tánh mạnh, những tay "Stylistes". Còn Echenoz thì trưng bày một loại văn thiếu vóc dáng. Tôi không nói: Đã không có những nhà văn lớn do Minuit xuất bản. Trong quá khứ, phong trào Tiểu Thuyết Mới sản sinh những tên tuổi Butor, Pinget, Claude Simon đều từ Minuit.

 

N.O: Ông khiển trách các nhà văn hiện nay không biết vận dụng ngôn ngữ. Văn chương, như thế chỉ là một công việc sửa chữa cú pháp?

 

R.M: Làm sao không bị ma ám bởi ngôn ngữ? Vấn đề không phải là viết một cách hàn lâm, nhưng viết để chống lại chủ nghĩa hàn lâm. Và đạt đến điều mà Proust đã nói: Những tác phẩm lớn tạo ra ấn tượng được viết bằng một ngôn ngữ lạ. Văn chương hiện diện khi cách khoảng được với chuẩn mực, nhất là với ngôn ngữ đời thường. Điều làm tôi bực hôm nay, chính vì tôi không cảm thấy có đủ khoảng cách này lẫn tính vượt thời đại, những yếu tố định nghĩa một nhà văn.

 

N.O: Ông không nghĩ đang làm một kẻ phản động đi ngược lại trào lưu văn chương khi viện dẫn sự tinh túy của ngôn ngữ?

 

R.M: Sự tinh túy của ngôn ngữ, trước hết là một thao tác cú pháp. Văn chương là một sự phức tạp cú pháp cộng thêm một nhịp điệu cá nhân riêng. Tôi không phải là kẻ phản động. Chính những nhà văn tồi, khi tái sản xuất triền miên một loại hàng mẩu nhằm thỏa mãn công chúng, mới phản động. Chúng ta đang sống thời kỳ sao chép những bản sao của bản sao. Tiểu thuyết truyền thống đã chết. Các nhà văn hôm nay chưa biết sử dụng nguồn vốn ở các bậc thầy vận dụng ngôn ngữ như Proust, Joyce, Kafka, Faulkner…

 

N.O: Văn chương, theo ông, nên là một viện bảo quản ngôn ngữ?

 

R.M: Tôi đã luôn chống lại việc bảo vệ tiếng Pháp. Một ngôn ngữ không tự phòng thủ, nhưng cần vang danh. Một nhà văn, không có nhiệm vụ nào ngoài làm chậm cơn hấp hối của những văn bản đã cách điệu ngôn ngữ đến một mức tuyệt kỹ. Sự thâu hẹp, đơn giản hóa, dẫn đến bần cùng ngôn ngữ, rất nguy hiểm trên mặt chính trị. Các chế độ độc tài toàn trị đều canh phòng cẩn mật ngôn ngữ. Mỗi một ngôn ngữ đều đề xuất một ý niệm thế giới. Càng giản lược hóa ngôn ngữ, tầm nhìn nhân loại càng thu hẹp: thành những bầy trừu không biết nói…

 

N.O: Tiếng Pháp cổ điển, vậy là hết?

 

R.M: Đúng, bị trường lớp, radio, truyền hình, chủ nghĩa tư bản giết chết. Trong chương trình học, chẳng hạn: văn học không còn những giá trị tiêu chuẩn. Trẻ em, không đọc sách nữa, hay rất ít. Người ta nói với tôi là giới trẻ vẫn đọc "Harry Potter". Có thể, nhưng rồi chúng còn đọc cái gì khác? "Harry Potter" là một phó sản, không phải một tác phẩm. Tôi đã hy vọng nhiều vào các quốc gia dùng Pháp văn, nhưng ở các nước này, Pháp văn cũng đang tiêu vong. Bốn mươi năm nữa, Phi châu Pháp ngữ sẽ nói tiếng Anh. Các dấu hiệu chuyển biến đã xuất hiện. Tôi không thấy vì đâu dân Phi châu sẽ tiếp tục dùng Pháp văn. Và tôi cũng sẽ không ngạc nhiên, trong mười hay hai mươi năm nữa, khi chứng kiến các nhà văn Pháp chuyển sang Anh ngữ: Khi mà hiện nay lớp nhà văn viết best-sellers, như Grangé, bắt chước rập khuôn best-seller Hoa Kỳ. Những cuốn sách thuộc loại này không cần phải viết bằng tiếng Pháp. Sau cùng, tôi lo ngại hiện tượng thành công của tiểu thuyết trinh thám. Vì đây có thể sẽ là tương lai của văn học: Một nền Tân Tiểu thuyết Trinh thám phổ quát. 

trích Richard Millet se fâche "On a tué la langue française." 

Le Nouvel Observateur số 2113 

Trần Vũ dịch thuật

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 56066)
Con đường thơ của Nguyễn Lãm Thắng có nhiều bước chuyển. Sau “Điệp ngữ tình”, “Giấc mơ buổi sáng” (333 bài thơ thiếu nhi), anh thử nghiệm, gieo hạt giống thơ của mình vào thế trận khác: thế trận đời. Thế trận này đã đánh dấu tiếng nói riêng cho “họng đêm” [ *] trong hành trình sáng - tạo - thi ca của anh. Anh gần như đoạn tuyệt hẳn cái nhìn trong trẻo của “Điệp ngữ tình”, cái hồn nhiên thơ trẻ của “Giấc mơ buổi sáng” để ném vào “họng đêm” cái nhìn từ góc độ người mù và “có thể nói nhiều về điều không thể nói”.
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 65495)
Đ àn chim với những con Rose breasted màu nâu nhạt, ngực đỏ;con Western King with fledgling cũng màu nâu nhưng cái cái ngực vàng hườm; con Red headed woodpecker mình gọi là chim gõ kiến có cái đầu màu đỏ, con Indigo Bunting tròn như con sáo quê nhà, nhưng lại xanh biếc như da trời. Tất cả bọn chúng, mỗi buổi sáng, theo nhau về ríu rít trong vườn nhà tôi...
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 53974)
N guyễn Phi Khanh sinh năm 1355 và mất năm 1428[1] (có thuyết nói ông sinh năm 1336, mất năm 1408[2]), quê ở xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây (có thuyết nói ông còn có quê thứ hai ở Chi Ngại, Chí Linh, Hải Dương). Ông tên thật là Nguyễn Ứng Long, sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống võ tướng. Nhưng ông lại là người say mê văn chương...
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 63183)
Tôi chìm vào một giấc mơ, giấc mơ có những sợi dây bé xíu đan vào nhau thành những mắt lưới. Tôi đi tìm một thế giới, nỗi đau oán thù bị xóa bỏ, chỉ còn tôi với thế giới ấy.
08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 60064)
B ài này được viết theo lời yêu cầu của một số người trẻ trong đó nhiều người là sinh viên đại học nhằm bổ khuyết cho sự hiểu biết của anh chị em này nói riêng và giới trẻ Việt Nam nói chung về vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn nhân dịp 100 năm năm sinh của ông cũng như về một giai đoạn lịch sử có quá nhiều góc tối hay góc khuất, luôn cả oan khuất và cũng nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ 2013 ...
06 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 70145)
Bây giờ đã bước sang một ngày khác một ngày như và không như mọi ngày không còn nợ nần nào để tính sổ không còn niềm vui nào để cho đi hay giữ lại nỗi buồn...
11 Tháng Mười Hai 201212:00 SA(Xem: 93459)
Cuộc Họp Báo Nhân Ngày Quốc Tế Nhân Quyền - 10/12/2012
10 Tháng Mười Hai 201212:00 SA(Xem: 90849)
S au hơn ba mươi năm kết thúc chiến tranh, những đề tài về chiến tranh dường như cũng biến mất trên văn đàn chính thống Việt Nam. Chúng đã đầu thai kiếp khác hoặc tìm cách trốn ra nước ngoài. Ngồi hong váy ướt, tập truyện mới nhất của Võ Thị Hảo hội đủ hai yếu tố: đầu thai kiếp khác mà vẫn phải chạy ra nước ngoài, tháng 7 năm 2012, tủ sách Thi Văn Hồng Lĩnh của Bùi Xuân Quang ở Paris, xuất bản.
30 Tháng Mười 201212:00 SA(Xem: 94525)
Một trong những vấn nạn, nếu không phải nghi án, lịch sử cận đại còn gây nhiều tranh luận là vấn đề âm mưu ve vãn [flirtation] Cộng Sản Hà Nội của anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm (1897-1963) trong hai năm 1962-1963. Nhiều học giả thế giới đã cố gắng đưa ra những giải thích về vấn đề này. Người cho rằng anh em họ Ngô không còn biết lý lẽ [no longer be rational] nữa trước áp lực Mỹ. (1) Người cho rằng họ Ngô chỉ muốn blackmail hay chơi một ván bài poker với Mỹ. (2) Người cho rằng họ Ngô thực sự muốn nói chuyện với miền Bắc, (3) và nếu không có cuộc đảo chính 1/11/1963, Cộng Sản đã chiếm miền Nam vào cuối năm 1963.
30 Tháng Mười 201212:00 SA(Xem: 93359)
Cuối năm 1961, đầu năm 1962, các viên chức VNCH liên tục thúc dục Pháp can thiệp và yểm trợ. Ngày 21/12/1961, Đại sứ Phạm Khắc Hy gửi thư cho Charles Lucet, ngỏ ý muốn liên lạc với Pháp. Hơn nửa tháng sau, ngày 7/1/1962, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu gặp đại diện Pháp, xác nhận ý muốn liên lạc. Trương Vĩnh Lễ, Chủ tịch Quốc Hội, cũng tiết lộ với giới ngoại giao Pháp ở Sài Gòn là Nhu muốn Pháp tái khẳng định lập trường, vì Sài Gòn có cảm tưởng Paris đang nghiêng dần về phía Hà Nội.( 152)