- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

PHÊ BÌNH VĂN HỌC ĐỌC VÀ VIẾT VỚI HOÀNG THỊ BÍCH HÀ

02 Tháng Mười 20246:16 CH(Xem: 4911)




htbha

Trần Kiêm Đoàn

PHÊ BÌNH VĂN HỌC ĐỌC VÀ VIẾT
VỚI HOÀNG THỊ BÍCH HÀ

 

 

 Chủ nghĩa phê bình văn học thời cổ điển ở phương Đông thường diễn ra trong các hình thức: Bình văn, bình thơ và ca xướng hay ngâm vịnh; trong lúc ở phương Tây thì hình thức khá phổ biến là diễn thuyết và tranh luận. Cái hay của văn chương chỉ trụ vào hình thức diễn đạt một phần; nhưng sự tinh túy lại là cái “thần” nằm trong góc khuất của cảm xúc và tư tưởng. Bởi vậy, khi nói đến những trường hợp xướng văn, bình thơ hay phê bình văn học đã có rất nhiều văn nghệ sĩ Đông Tây như Jacques Prévert, Francoise Sagan, Mark Twain… ở trời Tây hay Tô Đông Pha, Bùi Giáng… ở trời Đông đã lạnh lùng lên tiếng, đại khái rằng: Các đầu óc thông minh và đôi mắt sắc bén của các nhà thông thái, phê bình… hãy tránh xa tác phẩm của tôi. Xin đừng toan tính chuyện phê bình hay nhận xét phân tích gì những điều tôi thích là tôi viết cả. Cái thú muôn đời của văn chương nghệ thuật là ở chỗ đó. Các nghệ sĩ sáng tạo thường là những “con chim đến từ núi lạ, ngứa cổ hát chơi” (Xuân Diệu). Hát “vô ích” cho đến khi vỡ cổ, sa rụng giữa bình minh. Thế nhưng các nhà phê bình thường sử dụng cái đầu óc lạnh lùng cân đo đong đếm của mình mà soi rọi tác phẩm “máu lệ” của tác giả thì có ai mà thản nhiên, hài lòng cho được.

 

Nhưng nói đi thì cũng có khi phải nói lại rằng, một nhà phê bình tài ba về một tác phẩm nghệ thuật có khi là “tái tạo” tác phẩm bởi nhìn ra được những nét diệu kỳ nằm trong góc khuất mà chính tác giả tuy đong đầy cảm xúc nhưng vẫn có khi chưa thấy được chính mình. Nhận được tác phẩm Phê Bình Văn Học tập 4 của Hoàng Thị Bích Hà; trong đó có phần nhận định và phân tích tập sách Về Huế của tôi được nhà phê bình đặt dưới tiêu đề: “Hồn Cốt Huế Trong ‘Chuyện Khảo Về Huế’ của Một Nhà Văn Rặt Huế” Tập sách được viết và xuất bản đã ngót 30 năm và cũng đã trải qua nhiều bài viết phê bình nhận định của nhiều tác giả nhưng năm nay lại xuất hiện một cách “dễ thương đầy tâm cảm” hơn qua cách nhìn của một người bạn văn, một độc giả đồng hương và một khuynh hướng phê bình văn học khá độc đáo của Hoàng Thị Bích Hà.

 

 Đọc tiếp các bài phê bình khác trong tác phẩm, thật khó để mời Bích Hà vào chiếc chiếu hoa cạp điều nào vừa vặn đã được soạn sẵn cho các nhà phê bình văn học tiền bối trên văn đàn tiếng Việt bởi sự đa dạng trong tầm nhìn, văn phong và khuynh hướng phân tích tâm lý của chị. Tôi lại tẩn mẩn muốn so sánh, nhận diện Bích Hà trên văn đàn phê bình văn học, trong làng văn bút đàn anh, đàn chị nhưng thật khó bởi “văn chương tự cổ vô bằng cớ” nên làm văn chương cũng như làm người, mỗi cá thể là một cánh rừng cô độc. Nếu có chăng sự trùng lặp giống nhau thì sáng tạo văn chương chỉ còn là phiên bản sản xuất hàng loạt như kỹ nghệ dây chuyền. Dạo qua thế giới phê bình văn học, dù chỉ là tài tử như cỡi ngựa xem hoa cũng có thể thấy rằng những khuynh hướng phê bình văn học xưa nay khó nắm bắt một nguyên tắc nhất quán khi nhà phê bình văn học khoác áo đội mũ đi vào chủ nghĩa trường văn trận bút là vô hình chung “bế môn luyện công” theo môn phái của mình.

 

Trong Phê Bình Văn Học, Hoàng Bích Hà đã thể hiện rõ nét phong thái rất “hồn nhiên” của ba trong muôn một pháo đài phê bình vừa gay gắt vừa nhẹ nhàng thỏa hiệp với tác giả và tác phẩm của nhiều khuynh hướng phê bình trong thế giới văn chương nghệ thuật ngày nay; đó là: Chủ nghĩa hình thức (Formalism: tập trung vào cấu trúc và hình thức của chính tác phẩm). Bích Hà theo sát tác phẩm và tác giả. Phê bình theo cách phản hồi của người đọc (Reader-response criticism: nhấn mạnh trải nghiệm theo cảm thức chủ quan của người đọc). Bích Hà như muốn nói thẳng với tác giả được chọn phê bình rằng, tôi hiểu và đọc văn của quý tác giả như thế đó! Phân tâm học (Psychoanalytic criticism: diễn giải và phân tích tác phẩm qua lăng kính tâm lý học). Bích Hà khi viết phê bình dường như muốn đánh mạnh vào cảm xúc tâm lý tác giả rằng, tôi đã nhìn ra những giải bày và góc khuất tâm lý trong tác phẩm theo hướng nhìn riêng tiềm ẩn trong tôi. Và, phê bình theo nhãn quan nữ quyền (Feminist criticism: nghiên cứu động lực giới tính trong văn học theo nhãn quan của một nhà văn có cách nhìn, cách chọn lọc sự kiện và hình ảnh đậm tính nữ lưu). Bích Hà đi vào tác phẩm không làm dáng kiêu sa chữ nghĩa mà hồn nhiên và dè dặt dịu dàng… rất Huế!

 

Phương pháp luận được sử dụng trong tác phẩm Phê Bình Văn Học, rõ ràng là tác giả Hoàng Thị Bích Hà đã chủ động chọn lựa một cách đọc và viết riêng, không theo một mô thức kinh điển hay cách tân nào đơn thuần và giáo khoa trong quá trình phê bình và nhận định của dòng văn bút đàn anh, đàn chị đi trước. Chị đọc, cảm nhận và suy luận về giá trị nội dung, hình thức cũng như tư tưởng xuất hiện trong tác phẩm vừa cảm tính, vừa lý tính nên chính tác giả của dòng văn được đưa ra làm đối tượng phê bình lắm lúc cảm thấy như dòng liên tưởng của mình trong tác phẩm một thời nào đó được tái hiện và thêm hoa lá cành cho tươi mát lại. Những cảm xúc chân quê của tôi trong Về Huế đã “bị” ngòi bút một thời áo tím của sông Hương núi Ngự làm sống lại những màu tím quan san, những cơn mưa Huế và những tâm hồn của vùng đất nhỏ như cái bể cạn mà vẫn thường mơ biển cả sông hồ!

 

Tôi có niềm thâm tín là những tác giả có tác phẩm được Hoàng Thị Bích Hà chọn làm đối tượng phê bình khi đọc những dòng tâm bút nói về tác phẩm của mình đều cảm thấy như có những âm thanh, màu sắc và tiếng vọng rất mới từng đã ngủ quên trong tác phẩm của mình vừa thức giấc với một nụ cười rất chan hòa vô ngại.

Cám ơn nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học… Hoàng Thị Bích Hà đã xuất hiện như một Triệu Tử Long phê bình văn học trong thế giới văn bút mới khi mỗi nhà văn là một tiểu thượng đế vì muốn cho nhân vật trong tác phẩm mình chết hay sống lúc nào cũng được. Và, mỗi nhà phê bình văn học là một Kinh Kha: Cứ qua bờ sông Dịch, cứ nghe tiếng trúc Cao Tiệm Ly… nhưng, có chết hay không thì cũng phải lý giải mà thực ra không cần phải lý giải gì cả bởi duyên nghiệp trùng trùng!

 

Sacramento, CA 29/9/2024

Trần Kiêm Đoàn

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
02 Tháng Giêng 202510:03 CH(Xem: 950)
Gia đình chúng tôi vô cùng thương tiếc / trân trọng báo tin cùng thân bằng quyến thuộc và thân hữu / Chồng, Cha, Ông của chúng tôi: ALEX NGUYỄN KHÁNH TRƯỜNG (Nguyên Họa Sĩ – Nhà Văn – Nhà Báo Khánh Trường); Pháp danh: TOÀN CHÂN TỊNH; Sinh ngày 8 tháng 4 năm 1948 tại Đà Nẵng, Việt Nam; Vãng sanh lúc 4 giờ 33 phút ngày 29 tháng 12 năm 2024 tại Fountain Valley, California; Hưởng thọ 77 tuổi.
02 Tháng Giêng 202512:51 SA(Xem: 1471)
Ngày rộng hàng hiên hẹp / Rót tràn ly rượu chay / Quê nhà xa muôn dặm / Đá cầm run bàn tay /
29 Tháng Mười Hai 202410:36 CH(Xem: 1607)
Mười tám năm sau ngồi viết lại Một bài thơ một nỗi buồn đời Mười tám năm tưởng là bóng nắng Chuyện ngày qua như nhạc không lời
29 Tháng Mười Hai 20249:58 CH(Xem: 1534)
*Việt Báo Daily News - (Orange County, CA) Sau đúng hai tuần hôn mê, họa sĩ/nhà văn Khánh Trường cuối cùng đã bỏ cuộc thế gian vào chiều Chủ Nhật, ngày 29 tháng 12, 2024, lúc 4:33PM giờ California tại bệnh viện UCI Health, thành phố Fountain Valley trong niềm thương tiếc của gia đình và bằng hữu.
26 Tháng Mười Hai 20244:38 CH(Xem: 1328)
Sáng thứ bảy, như đã hẹn mình và Ánh Loan (Phú Nhuận) tập trung tại nhà Thanh Hương (quận 1). Khung cảnh khu vực này thật đẹp. Phố xá sang chảnh lại có cảm giác yên bình. Khúc lộ Đặng Dung là một con phố như bao con phố trung tâm của SG nhà cửa san sát kiểu dáng đều rất đẹp. Cả dãy phố nhà nào cũng có một giàn hoa giấy hay những loại hoa gì đó đủ màu sắc, góp phần tạo nên vẻ đẹp, văn minh, thanh lịch, tao nhã cho khu phố này.
26 Tháng Mười Hai 20244:15 CH(Xem: 1945)
Tưởng nhớ anh Tuệ Sỹ, người bạn Thơ thân thiết, đã mất một năm tôi phổ biến một bài Thơ tựa "Gửi Bùi Giáng & Tuệ Sỹ". Bài Thơ được viét từ 2002, sau nhiều lần ghé chùa Già Lam thăm và chuyện trò cùng anh. Trong một lần nào đó, anh viết thư pháp tặng tôi và nội dung bản thư pháp ấy tôi có ghi lại trong bài Thơ này. Anh BG, Tuệ Sỹ và Hành Khoai là ba người bạn Thơ ở miền Nam mà tôi giữ một tình thân cho đến lúc các anh ấy mất. Còn một người bạn Thơ nữa từ thời 1966 là Phạm Thiên Thư, nhưng Thư đã vào cảnh giới không trần tục nữa ngay trong lúc còn sống ở trần gian...
24 Tháng Mười Hai 202412:04 SA(Xem: 1293)
Tôi là người ngoại đạo, nhưng bạn bè thân hữu từng kết giao là giáo dân rất nhiều. Họ là những con dân của Chúa. Hôm nay, Giáng Sinh cận kề, nghĩ về các thân hữu.
23 Tháng Mười Hai 202411:43 CH(Xem: 1801)
về khơi ngọn lửa trên ngàn / đem chia giấc mộng xoe tàn bóng đêm / ngó mông lên phía đầu thềm / dấu chân xóa một đóa mềm dị hương /
18 Tháng Mười Hai 20246:46 CH(Xem: 1075)
Cuối thập kỉ 60 hay đầu đầu 70 gì đó. Bố tôi, một nhân viên khí tượng tại phi trường Nha trang, có kể lại về câu chuyện về ngày Đại hội không quân của của câc nước Đông Nam Á, mà ông được tham dự. Theo ông, trong các đội bay, ông hết lời tán thưởng đội bay của nước Trung Hoa dân quốc ( Taiwan) đã có những phi trình biễu diễn thật đẹp ngoạn mục, cùng những màn nhào lộn chết người gần như đạt đến đến giới hạn của đỉnh cao sức chịu đựng của phi công chứng tỏ sự dày công tập luyện. Còn về đội tuyển Cao ly, ông nhận xét cùng cái trề môi " Bình thường!"
18 Tháng Mười Hai 20244:42 CH(Xem: 1309)
Cristoforo Borri dành hai chương III và IV, trong Phần II của Ký Sự Đàng Trong để viết về nhân vật mà ông quý trọng và tôn vinh: quan Khám lý Trần Đức Hoà -ân nhân thứ hai của đạo Chúa (sau Minh Đức Vương Thái Phi)- là người đã cứu sống cha Buzomi và mời các giáo sĩ về vùng ông cai trị, năm 1618, trong cơn sóng gió, các giáo sĩ phải lẩn tránh, ông đã cấp nhà ở và dựng nhà thờ cho họ ở Quy Nhơn, tạo ra cơ sở đạo Chúa ở Nước Mặn. Xin tóm tắt lại những sự kiện đã xẩy ra: / Đạo Chúa ở Đàng Trong do cha Buzomi đặt nền móng từ năm 1615, nhờ Minh Đức Vương Thái Phi giúp đỡ và che chở, có được nhà thờ lớn ở Đà Nẵng. Năm 1616, Macao gửi thêm ba thầy giảng người Nhật sang trợ giúp. Năm 1619, cha Buzomi bình phục; quan Khám lý đưa ông trở lại Hội An, các đạo hữu Dòng Tên gặp nhau trong niềm vui khôn tả. Họ quyết định: Cha Pedro Marques ở lại Hội An. Các Cha Buzomi, de Pina, Borri và thầy giảng Bồ, theo quan Khám lý về Quy Nhơn[1].