- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

GIÓ LÚC NÀO CŨNG THỔI

15 Tháng Sáu 20244:23 SA(Xem: 9896)
 
HAI GIANG
Hải Giang – Quy Nhơn- ảnh Internet



Nguyễn Thanh Sơn
GIÓ LÚC NÀO CŨNG THỔI

 

     Sau một tháng ròng rã ngoài khơi. Bành gọi điện thoại di động về nhà cho cô vợ yêu rằng con tàu anh đang ở hải phận Quy Nhơn. Bành nắm vô lăng từ suốt đêm qua sau khi rời khỏi hải phận ngư trường quen thuộc Trường Sa một vài hải lý. Đang trên đường trở về và hẳn sẽ có một chuyền bội thu. Gần bảy mươi con cá bò gù (cá ngừ đại dương), dự kiến khỏan trên ba tấn cá. Một món quà tết hậu hĩnh, Bành  dự định tàu sẽ cập bến vào chiều 28 tết.

 

***

 

Thời trước, câu cá bò gù  theo thời vụ . Chính vụ từ tháng tám đến tháng ba năm sau. Rộ nhất là tháng mười , mười một, theo những  mùa gió  chướng cấp áp thấp , mùa biển động, nhọc nhằn , nhưng năng suất lại thấp.  Ngư dân ta “cái khó ló cái khôn” luôn cải tiến công cụ đánh bắt,  thấu hiểu cặn kẽ cội nguồn luồng chảy để đạt năng suất cao nhất.  Bây giờ, câu cá theo mùa trăng. Đầu tháng, ngày không trăng , đoàn tàu  ra khơi, đến ngư trường quen thuộc,dùng những bóng đèn cao áp để nhử cá, cá trào lên lên theo dòng ánh sáng để đớp mồi. Cách câu này ít tốn kém lại năng suất rất cao. Đến khi  trăng lên, ánh trăng bàng bạc trải khắp mênh mông mặt biển thì tàu lại về bến.

Trong sách “Nước Non Bình Định” cụ Quách Tấn dành hẳn một chương nhằm giới thiệu ẩm thực đất Bình Định, có câu ca:

 

“Chỉ điều xe sáu đậu tư

Để anh câu đặng con cá ngừ biển đông.”

 

Câu ca trên chỉ sự khó khăn trong công việc đánh bắt loại hải sản cao cấp thời bấy giờ. Còn nay chỉ năm mười bữa nửa tháng gặp chuyến biển may mắn, bạn thuyền ta mang về đất liền vài ba tấn là chuyện thường. Ngày trước, loại cá này dân ta chỉ “chặt to kho mặn”nên ít người ưa. Nay cá ngừ xuất khẩu, ta lại “nhập khẩu”cách ăn để bổ sung nguồn tươi sống cho dân thích nhậu.

 

Cá  bày lên dĩa,  có màu huyết dụ, rắt lên đó màu vàng nhạt, màu của đậu phộng rang giã nhỏ, vắt thêm chút chanh gây cảm giác rất thèm ăn. Món chấm không cầu kỳ, chai tương, lọ xì dầu, mù tạc hay gừng. Tùy theo khẩu vị của mỗi người mà thêm mù tạc nhiều hay ít, nếu quá lố chỉ cười ra nước mắt, lúc đầu rất khó ăn nhưng sau lại đâm nghiện. Cải cay để nguyên lá, xếp lên đó vài  ba lát, rồi rau răm, chuối chát ,vài ba lát khế, có khi thêm lớp bánh tráng mỏng. Ăn nhỏ nhẻ, từ tốn, nhấm nháp từng thớ thịt tê lạnh, thơm ngon nơi đầu lưỡi, dư vị cay nồng khó mà chê được, nó rất khác với cách”phàm ăn tục uống “như gỏi cá chuồn hay cá rựa. Nhớ đừng quên chai bầu đá, uống bia nặng bụng, mau no lại khó cảm hương vị thơm ngon của cá.

 

 

Nghề câu cá ngừ đại dương bằng đèn cao áp ngày được phát triển và có thu nhập cao. Sau vài chuyến biển nếu gặp thời, chủ tàu có thể thu vài trăm triệu đến tỉ là chuyện thường. Phương tiện đánh bắt cá ngày trở nên hiện đại, những con tàu  tầm cỡ, thường có chiều dài hai mươi  mét trở lên. Khi còn neo đậu trên dòng sông, những con tàu như những con chiến mã uy nghi, hùng dũng, sẵn sàng buông cương say trong sóng to, gió lớn.

Ngư trường đánh bắt ngày càng thu hẹp, khó khăn dần bởi tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Nhà nước ta có chính sách hỗ trợ  nhiều cách để ngư dân bám biển.

 “ Cứ độ  mùa vụ,  tàu ta đến tọa độ 111 độ 30 hướng đông bắc Hoàng Sa hay đông nam Trường Sa là bắt đầu nhắn tin về trạm kiểm ngư . Tùy theo công suất máy, 300cv có năm mươi triệu một tin nhắn .Mình thay đổi máy công suất 5oo cv . Một tin nhắn là có một trăm triệu tiền bù dầu, tiền bảo vệ chủ quyền,  làm người lính đi đầu bảo vệ biển đảo”. Cách theo dõi ngư trường đánh bắt bằng tọa độ ,  tin nhắn của trạm kiểm ngư . Đi biển với cậu ta, tôi luôn tâm phục khẩu tính gan dạ , luôn tìm hướng đi đúng để đạt năng suất cao nhất.

Bành, người con trai hiền lành, cần mẫn, khí chất  bình tĩnh của con người ăn sóng nói gió. Một chàng trai hơn ba mươi tuổi, vừa mới cưới vợ, cô ta mang bầu , sắp đến ngày ở cữ. Đó là những gì tôi nói được về chàng trai này. Phía sau cái điềm tĩnh, thàng hậu của người dân Bình Định là cuộc đời đầy sóng gió. Nghề biển không có sóng gió mới lạ. Sóng gió từ  hòn Gành Gà , cửa biển Tam Quan, Bình Định trở ra. Từ Hoàng Sa, Trường Sa đổ vào.

Nhà Bành cạnh bờ sông Tam Quan Bắc, ở cuối nguồn. Ngồi trong nhà nhìn ra là thấy hòn Gành Gà rõ mồm một. Ngày trước, dòng sông này rất rộng và sâu. Nhìn từ bờ bên này sang bờ bên kia tít tắp mùa nước lớn. Con nước ròng, lòng sông lại phơi ra, đầy sình lầy, những con cua , cái tép tha hồ  nhảy nhót, tung tẩy, mùa của những người sống ven bờ, chuyên mò tôm , bắt ốc.

Ngày trước , thời còn bao cấp, mẹ con nhà Bành sống bằng nghề này kiêm nghề đưa đò, đưa những người khách lèo tèo sống bên này Trường Xuân sang bên kia  bờ Thiện Chánh. Tính hai mẹ con luôn chịu thương chịu khó, nên dù nắng hay mưa, dù sớm hay tối cũng không nề hà gì. Hễ  nghe ai cất tiếng bên kia sông  :”Bớ đò , bớ đò!” là cậu ta lại buông chèo xuống nước. Sau này , với sức dài vai rộng,  đất nước càng đổi thay , sản sinh nhiều nghề mới, cậu ta chuyển sang nghề đánh bắt cá ngừ đại dương như tôi đã kể trên. Dòng sông vẫn trơ vơ đôi bờ, con đò gát bãi ngắm nhìn những con tàu buông neo trên sông nước.

Nghiệp biển, ngư dân ta lấy thuyền làm nhà, biển cả là quê hương . Bành  coi biển  là máu thịt, là xương xẩu, là sự sống của cả con người  ven bờ. Cứ vào độ trăng non là người làng tôi , những bà nội trợ, những “ hậu cần” ở bến bờ lại ngong ngóng bóng dáng người thân . Như con nước dòng sông quê tôi, cảng cá Tam Quan, Bình Định ghình lên, dập dềnh nước thủy triều, sóng lăn tăn gợn như mong đợi những con thuyền về bến.

Những ngày không ra khơi , cậu ta lại nhớ biển. Ra bãi, lặng ngắm nhìn hòn Gành Gà soi mình bên sóng. Lại nhớ.

Những chuyến biển khơi xa, Bạch Long Vỹ ở địa đầu đất nước.

Ơ hay! Đảo đứng trơ vơ đó

Như đợi chờ ai ở giữa dòng.

Đứng trước mênh mông của biển, không bị vật gì che chắn tầm mắt, chỉ mây nước một mùa, những con chim hải âu bay chập chờn trên  sóng , in  vào  nền trời tạo nên nét chấm phá bức tranh thủy mặc trông thật sinh động. Dưới dòng sâu đen thẩm, con tàu như chiếc lá lấp lênh theo dòng nước. Sự sống và cái chết như lật ngửa bàn tay, cách nhau một lớp ván mỏng, chúng tôi bềnh bồng trên những đám mây. Những lúc rảnh rỗi, tôi duỗi nằm trên carbin, dang đôi cánh tay mà đo trời đo  nước, đo nghìn trùng thăm thẳm . Trời thì rộng, nước thì sâu nhưng cũng chỉ bằng gang tay, vói tay lên trời  như thể kéo  được vầng trăng thấp xuống.

  Một kỷ niệm tôi không thể quên. Số là. Sau chuyến biển khơi xa, tàu chúng tôi về neo ở Bạch Long Vỹ. Mùa tháng mười , trời lạnh , sương mù lướt thướt bay. Càng sâu vào đêm , sương mù càng đậm đặc, xòe bàn tay ướt nhẹp, tầm nhìn rất thấp, đồ vật cách một mét nhìn chỉ thấy loáng thoáng trong sương. Tiếng còi tàu rỉ rả đâu đó trong sương mù. Không lâu sau đó. Tiếng còi rậm rả , thôi thúc mỗi lúc một gần hơn. Linh tính một chuyện chẳng lành sắp sửa xảy ra. Tất cả  thuyền viên bật dậy.

 “ Thằng Sản  vào đề pa máy. Thằng Xuất phụ với anh em kéo neo”

Tiếng Bành la to trong cabin.

Tiếng còi hụ càng lúc gần hơn. Lanh lãnh, chát chúa, giậm giật như xé nát màng nhĩ.

 “ Không kéo nữa, chặt bỏ ngay. Thằng Sản cho tàu chạy hết ga”  Tiếng Bành thét lên, giọng khản đục. Con tàu như con ngựa bất kham, nhảy chòm lên,  gần như dựng ngược. Một bóng đen nhờn nhợn  lướt sát sau đuôi tàu  vài ba mét, tung bọt trắng xóa. Cái chết đến với chúng tôi chỉ  trong đường tơ kẽ tóc.

Một chuyến biển khác. TQ đương phương lệnh cấm đánh cá trên vùng biển Đông mà họ gọi là vùng chủ quyền. Nhưng với ngư dân làng tôi, từ đời này sang đời khác, họ đã từng sống với nó,  thuộc nằm lòng từ vịnh san hô, chỗ nào cạn , nông  sâu đều  nằm lòng như sợi chỉ tay. Lệnh cấm đánh bắt cá kia không ngăn được ngư dân làng tôi vươn khơi. Tàu chúng tôi xuất hành vào thời điểm đó. Ngư trường quen thuộc từ nam Côn Sơn đến Trường Sa. Chuyến biển đó gần nửa tháng. Sáng hôm đó,  tàu  giàm lại, nghỉ ngơi sau  một đêm mệt nhoài. Bất chợt tàu Hải Giám TQ, như bóng ma hắc ám đâu đó thình lình xuất hiện. Bành cắt giàm, khởi động máy với tốc độ cao nhằm tránh sự truy sát của tàu TQ. Nhưng sức người có hạng, tàu  nhỏ , công suất thấp , làm sao đọ lại với tàu sắt đồ sộ kia. Nó chặn đầu tàu  lại, rồi như mèo vờn chuột, những chiếc vòi rồng thi nhau nhả nước. Nó tưới ướt nhẹp không từ bộ phận nào của con tàu. Nó cố nhận chìm tàu. Nửa lưng tàu ngập nước, tàu ngất ngư ngỡ như đang chìm xuống, Tàu hải giám TQ biến mất như một bóng ma như lúc đến. Chống chọi một hồi với con nước, may mà máy vẫn còn hoạt động, anh em bỏ bớt những vật dụng không cần thiết để con tàu thêm nhẹ, gọi tàu bạn đến cứu giúp ,thất tha thất thểu cố lết về bến.

Sau chuyến biển đó, tàu chúng tôi lên ụ sửa chữa gần tháng trời.

 

***

 

 

28 tháng chạp, những ngày cuối năm. Sau một chuyến đi dài ngày lênh đênh trên biển. Những nao nức, những niềm vui chờ đợi cho ngày cuối năm, bờ đang gần kề ở phía trước. Biển trời năm nay có khác hơn những năm trước, trời cuối năm mà sóng vẫn yên, biển lặng. Con tàu chạy với tốc độ vừa phải, 7 hải lý / giờ. Bành nắm tay lái suốt đêm đến gần về sáng. Hừng đông đang ở phía trước, cậu  vươn vai ngáp dài rồi vói cái điện thoại di động gọi cho cô vợ yêu: “Anh đang ở hải phận Quy Nhơn, khỏang đầu giờ chiều là về bến!”. Bành gọi người bạn thay nắm vô lăng,  bước ra boong sau làm vệ sinh . Trời vẫn chưa sáng hẳn, làn nước trơn lỉn, ướt đẩm phía sau ca bin tàu, do sơ ý và căn bệnh mất ngủ, cậu ta trượt chân ngã xuống nước. Chỉ mới tích tắc đó, khi con tàu giảm tối đa tốc độ thì không còn bóng dáng cậu ta đâu. Gió lúc nào cũng thổi phía sau boong tàu, sâu hun hút.

 

 

Bến đò xứ, 2014-2024

Nguyễn Thanh Sơn

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Chín 202411:34 CH(Xem: 7870)
Anh à, giữa những ngày hội của người làm phim cả nước tại thành phố biển Nha Trang, quặn lòng trước thảm cảnh của dân ta - nhất là người dân vùng núi Tây Bắc - Đông Bắc qua mấy đợt lũ lụt lên tiếp, em bỗng nhớ về anh… Những điều anh dự báo và khẩn thiết kêu gọi trong kịch bản phim truyện "Vùng rừng nóng bỏng" chưa kịp lên màn ảnh đã rơi ập vào chính số phận của anh: chiếc xe khách chở anh đã bị đổ tại đèo Chiềng Đông hiểm trở, do hậu quả của những cơn lũ rừng, sau nhiều năm tháng dài đốt phá rừng triền miên vô tội vạ!
22 Tháng Chín 202411:26 CH(Xem: 7256)
tôi về gặp lại mùa thu / gặp lại một đám cỏ mù bên sông / mẹ tôi đã bỏ cánh đồng / theo mây lên núi hóa rồng mà bay
22 Tháng Chín 202411:17 CH(Xem: 6767)
Chắc bạn cũng có nghe câu chuyện về ông Phó Thủ Tướng Đức gốc Việt, từng là đứa trẻ mồ côi bên Việt Nam. Tôi thật sự cảm động muốn khóc, không phải vì ông là người có tài, đẹp trai, ăn nói khôn ngoan hay làm lớn mà vì nếu cha mẹ nuôi không mang ông về Đức, có thể hôm nay ông cũng đã là kẻ lang thang đầu đường xó chợ ở một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam. Bạn tôi muốn kể cho quý vị nghe về một đứa trẻ bụi đời, lang thang đầu đường xó chợ trên đất Hoa Kỳ, nhờ mẹ nuôi Việt Nam mang về chăm sóc, dậy dỗ đã trở nên người hữu dụng.
13 Tháng Chín 20243:25 SA(Xem: 8056)
bay nửa vòng đời ngơ ngác tìm nhau / chưa kịp chạm tay / mùa thu đã cháy / trong lá khô đôi môi nào run rẩy / mãi hoài không gọi nổi / một cái tên
12 Tháng Chín 20246:15 CH(Xem: 7895)
Bài thơ GIÓ đã được thi sĩ Đức gốc Việt Nguyễn Chí Trung trình bày từ năm 2004 tại nhiều Đại Hội Thi Ca Quốc Tế (International Poetry Festival) trong các buổi đọc Thơ trước công chúng. Bài thơ được viết bằng tiếng Đức vào mùa Thu năm 1993 và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng cũng như xuất bản ở nhiều quốc gia Âu châu (Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha …).
12 Tháng Chín 20243:39 CH(Xem: 6806)
Lúc ngồi trong xe với Hiệp rồi, anh vẫn còn thắc mắc: “Tôi vẫn không hiểu tại sao ông lại cùng nhận tin Lê mất. Ông đâu có biết hắn là ai.” Hiệp ngồi thẳng người, chăm chú nhìn ra phía trước. Gương mặt hắn bình thản như một ngày biển lặng. Lần chót anh gặp hắn là lúc hai người đang đi ngược phía với nhau trong khuôn viên đại học, vội vã đến lớp cho kịp giờ dạy. Sau hai năm đại dịch, cả hai mới gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, hứa hẹn sẽ lại cùng đi uống cà-phê hay ăn phở như ngày trước. Thế mà một năm học đã trôi qua, không ai gọi ai, hẹn hò gì cả. Anh buồn buồn nghĩ, mỗi người ai cũng bận bịu với vợ con, làm gì mà có thì giờ nhàn rỗi để tán dóc với nhau.
12 Tháng Chín 20242:26 CH(Xem: 6335)
Kiều Thu 15 tuổi đang học cấp 2 của một trường trung học cơ sở tại Quy Nhơn trong một vùng quê êm đềm. Nhưng chữ nghĩa và sách vở càng ngày không mấy hấp dẫn cô nàng đang tuổi dậy thì. 16 tuổi, Kiều Thu gặp Hải có biệt danh là “Hải đại bàng”. Thế là những cuộc picnic, vui chơi với bạn bè hấp dẫn nàng hơn, nàng bắt đầu biết thế nào ăn chơi, những điều mới lạ với những cuộc vui không chỉ giới hạn trong Thành Phố ven biển mà tiến xa hơn. Kiều Thu quyết định nghỉ học vào năm 17 tuổi bắt đầu sống chung với Hải đại bàng.
12 Tháng Chín 20242:10 CH(Xem: 6994)
Ngày xưa hồi còn nhỏ, tui hay nghe bà cố tui đọc câu: "Còn duyên kẻ đón người đưa. Hết duyên đi sớm về trưa một mình". Tui thấy ngồ ngộ dễ thương nên tui nhớ luôn câu ấy ở trong đầu. / Mấy mươi năm trôi qua cho đến giờ tuổi đã về chiều, ngồi ngẫm lại đời mình. À! người ta thì "còn duyên kẻ đón người đưa" còn mình hết cả một đời người trôi qua mà mình có chút duyên nào đâu, vì từ nhỏ cho tới lớn đâu có ai đón đưa, thương nhớ mình chứ ... Xấu hổ thiệt nhưng cũng phải thú thiệt vì ở cái tuổi này rồi, có níu kéo gì nữa đâu hè!! Nói thiệt may ra ông trời ổng thấy tội tội mà kiếp sau ổng cho mình có chút "diên" (duyên)làm vốn lận lưng.
12 Tháng Chín 20242:02 CH(Xem: 9377)
đổ về xa ngái / đi mô ngoai đầu ngó lại / sững. trồng / cây thầu đâu há miệng trần tình / đừng. đừng vội khóc / tiều tụy ơi! đổ về xa ngái / đi mô ngoai đầu ngó lại / sững. trồng / cây thầu đâu há miệng trần tình / đừng. đừng vội khóc / tiều tụy ơi!
03 Tháng Chín 20243:54 CH(Xem: 9902)
Bài thơ “GIÓ” của thi sĩ Nguyễn Chí Trung GỒM 48 tiểu đoạn, mỗi đoạn 4 câu, tất cả là 192 câu thơ được viết theo thể thơ lục bát. Xuất hiện lần đầu trên thi đàn quốc tế “International Writers In Belgrade” vào năm 2003./ Từ 2004 đến nay khắp các Đại Hội Thi Ca Quốc Tế ĐHTCQT International Poetry Festival trên thế giới từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc mời tác giả Nguyễn Chí Trung tham dự và đọc Thơ, Ông đều trình bày bài thơ này. Vì thế bài thơ GIÓ được dịch ra nhiều thứ tiếng gốc La tinh của Ậu châu, và cả tiếng Hindi của Ấn, hay tiếng Ả Rập, hay Thụy Điển hay ngôn ngữ tổng hợp Serbo-Croatia v... v...