- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

VẾT THƯƠNG CỦA MỘT HẠT BỤI

15 Tháng Sáu 20221:33 SA(Xem: 8481)
 
hình TTKC
Nhà văn Trương thị Kim Chi

 


Tác giả:

Trương thị Kim Chi

 Quê quán: Quảng Ngãi

Tốt nghiệp khoa Việt Văn, Đại Học Sư Phạm Sài Gòn

Hiện định cư tại Hoa Kỳ

 

Truyện ngắn

VẾT THƯƠNG CỦA MỘT HẠT BỤI

Trương thị Kim Chi

 

 

1)       

                Em cúi đầu, giọng thấp hẳn xuống:

-  Cô ơi, theo em được biết, hồi xưa, một trong những hình phạt vô cùng kinh hãi là tứ mã phanh thây.

-  Ừ, chỉ hình dung thôi cũng đủ khiếp sợ.

-  Dạ, tay chân của phạm nhân bị cột vào bốn sợi dây nối vào chân bốn con ngựa. Khi hành hình, các nài ngựa sẽ thúc ngựa phi ra bốn hướng; nếu không có nài ngựa, người ta sẽ thét to lên hoặc đánh ngựa để chúng hoảng sợ bỏ chạy. Và bốn sợi dây sẽ kéo tay chân phạm nhân đến khi thân thể của họ bị xé ra.

-  Ôi thôi! Nghe sợ quá!  Sao bỗng dưng em lại nói đến chuyện đó?

            Em chậm rãi:

-  Dạ, em đã tìm đọc nhiều thiệt nhiều những kiểu hành hình đau đớn nhất để coi cái đau của mình cỡ nào. Cô ơi, em đã từng bị hành hình theo cách tứ mã phanh thây!

-  Hả?

            Em trầm ngâm.

-  Dạ, mà… có thể còn đau hơn, vì em không phải là phạm nhân, em không làm gì nên tội, em hoàn toàn vô tội, bấy giờ em chỉ là một đứa nhỏ chưa đầy tám tuổi.

-  Hả?

-  Dạ, ba em đã đem em ra cá độ, rồi ba bị thua.

-  …

-  Dạ, thực ra chuyện đó không lạ gì ở xứ em.

            Làn gió xuân êm ái thổi qua, giọng em nhẹ tênh:

-  Không hiểu sao em nhớ rõ lắm cô à. Cứ như thước phim được quay rất chậm, chậm đến độ không thể nào chậm hơn được nữa. Đó là buổi xế trưa, nắng quái hắt vào giữa sân, ba em cùng năm người đàn ông đang ngồi nhậu trên bộ vạc tre kê trước hiên nhà. Nhưng thôi, để tuần tới em kể cô nghe tiếp, tới giờ vô lớp rồi.

            Em và tôi cùng nhanh chân xuống cầu thang lộ thiên. Những bậc thang rộng bằng xi măng giả đá nâu với những nét vân đen đẹp tuyệt. Gió biển lồng lộng đuổi theo tóc chúng tôi. Cửa phòng lớp học Yoga đang hé mở. Chúng tôi rón rén bước vào. Vài người khác cùng vào. Chúng tôi khe khẽ, nhè nhẹ trải tấm chiếu nhỏ của mình ra. Cô giáo có mái tóc vàng sáng, đôi mắt xanh lá cây, miệng luôn nở nụ cười tươi vui ấm áp, đón chào cả lớp.

 

 

2)                   

            Khoảng tám năm trước đây, một sáng Thứ Bảy, tôi đang dạy lớp Tiếng Việt trong  nhà thờ, một người đàn bà Mỹ trắng dẫn em vào lớp. Bà tự giới thiệu đơn giản, bà tên Julie. Rồi bà nói, con gái yêu của bà vừa làm xong bài khảo sát trình độ, thầy hiệu trưởng xếp con gái yêu vào lớp nầy. Trước khi ra về, bà bắt tay tôi, vui vẻ nói, con gái yêu của bà rất thích học tiếng Việt, nhất định bà cũng sẽ học tiếng Việt.

            Con gái yêu của bà là em, người Việt, dáng gầy guộc, da hơi ngăm tái, đôi mắt to mênh mang ánh nhìn xa vắng, đôi môi không hề nở nụ cười. Khuôn mặt buồn bã của em được ôm kín bởi mái tóc đen dày xõa ngang vai.

            Giờ ra chơi, em không rời khỏi chỗ. Tôi đến bên em.Em đang lần giở những bài học tiếp theo, chăm chú đọc.

-  Chào em!

            Em hơi giật mình, ngẩng lên, vẻ dè dặt:

-  Em chào cô!

-  Cô rất vui khi có em trong lớp. Em chăm học như thế nầy chắc vài bữa nữa em sẽ được lên lớp Năm.

-  Dạ… em… em muốn học lẹ thiệt lẹ… để đọc sách tiếng Việt dễ dàng hơn.

-  Tuyệt lắm. Nếu em có gì cần hỏi, cô sẵn sàng giúp em.

-  Dạ… Cám ơn cô.

            Em tiến bộ rất nhanh. Những bài tập làm văn tả cảnh tả người của em khiến tôi vô cùng kinh ngạc. Ẩn chứa trong đôi mắt u buồn xa vắng của em là cả một khoảng trời nồng ấm tình yêu thương đằm thắm dịu dàng.

            Rồi mùa học qua nhanh. Sau đó em cũng mau chóng rời trường Tiếng Việt của nhà thờ.

            Em:

-  Em đã đọc ngốn ngấu sách báo tiếng Việt, như thể người đói được ăn, người khát được uống. Như thể khi lạnh run quơ được tấm mền để đắp. Em thường đọc trên Internet. Cô ơi, được đọc sách là một hạnh phúc lớn của em.

            Em đọc sách tôn giáo, sách văn chương, sách lịch sử. Em lên mạng hàng ngày theo dõi tình hình bên Việt Nam. Hễ rảnh là em đọc. Bởi em muốn biết nguồn cội mình. Em muốn biết tại sao ba em và nhiều đàn ông ở Việt Nam nghiện rượu. Em muốn biết tại sao má em và nhiều đàn bà ở Việt Nam cúi đầu nhẫn nhục chịu đựng khổ đau. Tại sao tại sao tại sao? … Em muốn biết quá nhiều, mà em hiểu thời gian thì trôi quá nhanh nên em không thể phí phạm. Lắm khi nhức đầu quá, em chỉ muốn quên quên quên…, tất cả tất cả… nhưng rồi em không thể nào quên. Cái buổi xế trưa nắng quái hắt vào giữa sân, ba em thua cá độ.

-  …

-  Ba em cùng năm người đàn ông đã nhậu suốt từ sáng. Họ nhậu tơi bời. Lưỡi họ dường như đã cứng lại nên giọng họ nhừa nhựa. Họ nói năng bậy bạ, hát xướng bậy bạ. Em là người đi mua rượu. Cứ chừng một hồi, ba em kêu em đi mua rượu. Em  không nhớ bao nhiêu lần em đã phải lội bộ vô trong ấp để mua rượu.

-  …

-  Và lần cuối cùng, khi em, một tay vịn thanh cầu, một tay ôm bình rượu, từng bước chân men trên cây cầu tre dẫn vào nhà, em thấy ba em chỉ tay vào em, lè nhè: “Nó đó”. Rồi ba đổ sụm xuống như cây chuối bị chặt gốc. Sau nầy em mới hiểu “Nó đó” tức là ba em đem em ra cá độ. Họ cá nhau chuyện gì em không biết. Vậy là năm người kia kéo em xuống chiếc xuồng. Lúc đó em vẫn chưa hiểu gì ráo. Em kêu khóc, em giằng co, em giẫy giụa. Ba em vẫn gục trên bộ vạc tre. Má em đang nấu cơm chiều, nghe tiếng kêu khóc, nách bé Út chạy ra, ngơ ngác, líu quíu xà quần quanh sân bởi vướng mấy cái lu, cái khạp đựng nước mưa. Má vấp té mấy lần trước khi chạy men theo bờ sông, mặc cho bé Út đang bò lê khóc thét trên vũng nước. Anh Hai em hơn em ba tuổi, đứng chỗ sàn nước cạnh chân cầu, miệng há hốc, ngơ ngác nhìn. Không ai hiểu chuyện gì đang xảy ra. Hình bóng má cuối cùng trong trí nhớ em là tóc má xổ tung ra, xấp xải, bước chân trần của má liêu xiêu tuyệt vọng dọc theo bờ. Em nghe rõ tiếng gào khóc của má, của anh Hai, của bé Út đuổi theo, chạy dài dài theo khúc sông một đỗi rất lâu. Chỗ nhà em vắng, không ai nghe tiếng kêu cứu. Chuyện diễn ra nhanh như một ánh chớp.

            Tôi ôm trán, rên rỉ:

-  Ôi!

            Biển muôn đời vỗ sóng. Biển nơi đây bình yên vỗ sóng. Giọng em như bị cắt thành từng lát mỏng dính trong thoáng gió biển lướt qua:

-  Cô ơi, đó chỉ là bắt đầu. Chỉ là bắt đầu.

            Em dừng lại. Không dưng em và tôi cùng nhìn ra xa. Bờ Thái Bình Dương vào chiều xanh thăm thẳm. Trời cũng xanh thăm thẳm nên biển và trời như tan hòa vào nhau. Xa xa, những con sóng trắng phau nhấp nhô lấp lóa dưới ánh nắng trông như dát bạc. Xa tít, giữa biển trời xanh ngát, thấp thóang vài cánh thuyền buồm nhỏ xíu như những chiếc lá, lấp lánh. Chỗ chúng tôi ngồi xa biển nên không nghe tiếng sóng vỗ, nhưng gió thì lồng lộng. Gió thổi tung mái tóc em và tôi. Ước gì gió cũng thổi tung hê tất cả những bất hạnh đời em. Giọt nước mắt vẫn cứ trào ra dù tôi cố nén, nhưng gió biển đã kịp thổi khô.

-  Cô ơi, giá như ngày đó, họ cầm dao giết em, coi bộ đỡ độc ác hơn là họ đã tứ mã phanh thây em. Dày vò hành hạ tâm hồn em. Em đã mấy lần tìm cái chết, nhưng không thành, cũng qua đó, em hiểu rằng, chết không phải là điều dễ dàng.

-  …

-  Em đã qua nhiều ngày điều trị tâm lý sau khi được cứu ra khỏi hang ổ bọn buôn người. Ngay cả khi được sang đây, em vẫn  tiếp tục được điều trị,  nhưng làm sao em quên được.

            Càng về chiều, biển càng sẫm màu, đẹp dịu dàng trong vẻ đẹp vĩnh cửu. Nắng đã nhạt màu. Gió bắt đầu lạnh. Tận chân trời đằng tây, xa tắp, mặt trời màu vàng cam vừa tựa cằm trên đường chân trời, nhuộm đỏ tía một vùng rực rỡ. Em dừng lại, trầm ngâm nhìn biển.

-  Mẹ Julie thường đưa em đi tắm biển ở đây. Mỗi lần em ngập người trong biển, em cảm thấy dễ chịu lạ lùng. Nước biển mênh mông, sóng biển lúc êm ái vỗ về, lúc mạnh mẽ dữ dội dường như muốn xóa sạch mọi vết thương, vết hằn trên thân thể em. Biển bao la dường như nhắc nhở rằng em chỉ là hạt bụi. Và vết thương của một hạt bụi thì có nghĩa gì đâu.  Phải không cô? Ngâm mình trong biển, ngữa mặt nhìn trời xanh trên cao, em tự nhắn nhủ rằng em còn nhỏ hơn một hạt bụi, nỗi đau của cái chưa bằng hạt bụi thì có đáng gì.

-  …

-  Mẹ Julie thương em lắm. Có những đêm khuya, cơn ác mộng ngày xưa hành hạ em, em ú ớ, vùng vẫy, gào khóc, cào cấu. Mẹ Julie chạy qua, ôm em vào lòng, vỗ về em, thì thầm cầu nguyện.

 

 

3)                   

            Nhớ hôm đầu tiên vào lớp Yoga, tôi ngỡ ngàng, vui mừng, em đó phải không? Em chạy ùa đến bên tôi, dạ em đây, em chào cô. Lâu quá gặp lại cô, cô khỏe không? Cô khỏe, cám ơn em, còn em? Dạ em cũng khỏe, em đã vào đại học. Ừ, cũng lâu rồi, mà em xinh quá, nhìn mãi cô mới nhận ra em. Cám ơn cô.  Quả thật cô và em có duyên với nhau ha, cuộc gặp lại hiếm có đó em. Dạ.

            Từ đó, em và tôi hay đến trường sớm độ vài chục phút, cô trò cùng leo lên tầng hai, ngồi trên chiếc ghế đá chỗ hành lang hướng về biển. Cô trò đều yêu thích nơi nầy. Hành lang thênh thang rộng, thênh thang nắng gió, cấu trúc rất nghệ thuật, đẹp mê hồn. Có bữa biển chuyển mình, gió nhiều, lạnh thấu xương, cô trò vẫn co ro trong chiếc áo khoác, thưởng thức hương gió, thưởng thức vẻ đẹp kỳ vỹ của trời biển, và chuyện trò.

            Rồi khi vào lớp, cô trò trải tấm chiếu cạnh nhau. Chúng tôi thở chậm, đều, sâu và nhẹ. Chúng tôi mềm mại trong những động tác căng duỗi người và cân bằng.

          Phần cuối của buổi học rất dễ chịu. Cả lớp nằm im trên sàn, thả lỏng người. Cô giáo sẽ kéo kín tấm rèm cửa hướng ra biển chiều đang phai nắng, và tắt tất cả các ngọn đèn, để ru mọi người bằng tiếng chuông nhẹ êm ngân nga.

 

4)                   

-  Hè năm ngoái, em về Việt Nam. Em đã đi qua gần như suốt chiều dài của đất nước mình. Em đã xuống tận mũi Cà Mau và lên đến Lạng Sơn. Những dấu ấn lịch sử, Tây Sơn Bình Định, núi Nưa... Em đã được đi qua nhiều dòng sông lịch sử, sông Bến Hải, sông Bạch Đằng, sông Hát…

-  Ồ, Tuyệt quá! Cô chợt nhớ hồi nọ khi học tới bài Bà Triệu, em giơ tay xin đọc câu nói của bà: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình  ở  biển đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người.”

-  Dạ. Cám ơn cô. Cô nhớ hay thiệt!

-  Điều đáng nhớ thì phải nhớ, em à.

-  Dạ, cô ơi, em đã đi qua nhiều thành phố, nhiều miền nông thôn. Ô thôi! Đất nước thì bé nhỏ mà quán nhậu thì nhiều vô kể, em cứ tự hỏi tại sao tại sao?

-  Rồi… em đã tìm được gia đình?

-  Má em, sau khi em bị người ta mang đi, đã bị điên, rồi mất vì uống nhầm phải chai thuốc trừ sâu. Anh Hai em buồn giận ba em, bỏ nhà đi xa, nghe đâu đi xuất khẩu lao động gì gì đó, không ai biết tin tức. Bé Tư lên Sài Gòn đi làm thuê để kiếm tiền gửi về quê nuôi ba. Rồi ngày nọ, bé bị người ta dụ dỗ đi lấy chồng Đài Loan… Nghe kể, không bao lâu sau, người ta đưa cái hủ tro cốt của bé về… Bữa đó ba em nhậu xỉn, ôm hủ cốt bé Tư chạy qua cây cầu, trợt chân rớt xuống sông chết đuối. Chuyện gia đình em đó.

-  …

-  Giờ em vẫn còn đang học, và em đã định hướng cuộc đời mình. Em đã hiểu ra nỗi đau của em. Cô ơi, nỗi đau của em chưa bằng hạt bụi, sá gì với nỗi đau của má, của anh Hai, của bé Tư; thấm tháp gì với nỗi đau của biết bao nhiêu những đứa trẻ, những cô gái đang bị đày đọa trong các chợ buôn người rải rác trên nhiều quốc gia trên thế giới, và còn nhiều nữa... Nỗi đau của em đã dạy em bài học sống. Phải sống như thế nào, phải làm gì? Em không muốn nỗi đau của em trở thành vô ích.

 

5)       

                Chúa nhật, một chị bạn rủ tôi đi nhà thờ Mỹ. Chị nói, bữa nay ở đó có một vị mục sư nổi tiếng được mời về giảng. Nghe nói lời giảng, cách giảng của vị mục sư ấy có lửa, đầy sức lan tỏa, thuyết phục.

                Tôi ngỡ ngàng trước cách trang trí thanh nhã và trang trọng của nhà thờ. Tôi lặng im chiêm bái những bức tranh minh họa cuộc đời Đấng Cứu Thế trên các khung cửa sổ kính màu phỏng theo phong cách Gothic.

                Tôi rảo mắt tìm kiếm người quen, và bỗng hết sức kinh ngạc. Kìa! Có phải là em? Tôi đeo mắt kính vào, rồi gỡ mắt kính ra, có phải là em? Một cảm xúc rất lạ trào dâng khiến tôi rưng rưng.

                Đúng là em! Em đang đứng trong ban hát dẫn trên bục giảng. Em bé nhỏ giữa các cô gái Mỹ trắng, Mỹ màu cao lớn. Em xinh xắn tinh khôi trong chiếc đầm trắng, giày trắng, dây buộc tóc màu trắng. Em như một đóa huệ trắng nuốt. Em thanh khiết trong sáng như thiên thần. Em hát hết lòng hết dạ. Thỉnh thoảng em nhắm mắt như để lắng sâu tâm hồn vào lời ca thánh.

                Kìa là bà Julie, mẹ em. Tôi vừa bắt gặp đôi mắt long lanh hạnh phúc của mẹ Julie đang ngồi dãy ghế cạnh tôi. Tôi biết lát nữa đây, khi nói về em, bà Julie sẽ vô cùng sung sướng “con gái yêu của tôi, con gái yêu của tôi…”

                Em đó ư? Đứa bé đã từng quằn quại dưới gánh nặng quá khứ đau buồn tủi hờn.

                Em đó ư? Đứa bé mà ngày nọ, trước giờ vào học, thường ngồi ủ rủ trong góc nhỏ chỗ chân cầu thang nhà thờ, đôi mắt vô hồn, vẻ mặt lạnh lẽo, môi không bao giờ nở được nụ cười.

                Ừ, đó là Em! Em ngày xưa đã từng bị hành hạ đau đớn như cách tứ mã phanh thây và đã học được rằng đó chỉ là vết thương của một hạt bụi.

Trương thị Kim Chi   

 


 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Hai 20244:36 SA(Xem: 1981)
em gở vòng tay đêm, choàng dậy / những tia chớp đuổi nhau / tiếng sấm gầm, tiếng bầu trời nổ tung / nghìn hạt thuỷ tinh đen / mưa tháng chạp /
07 Tháng Hai 20243:34 SA(Xem: 2625)
Khi tìm đọc văn học chiến tranh (giai đoạn 1954-1975) tôi bắt gặp rất nhiều lần lời giới thiệu ngắn tên tuổi, và các tác phẩm của nhà văn Nguyên Vũ. Kể từ đó, tôi luôn tìm Nguyên Vũ để đọc, song dường như không có tác phẩm nào của ông được đưa lên các trạng mạng, hay các thư viện điện tử. Hôm rồi, thật may mắn, đang nghiền ngẫm về cố nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, tình cờ tôi bắt gặp: Mây Trên Đỉnh Núi, truyện dài gồm 20 chương của Nguyên Vũ. Đây có lẽ là truyện dài đầu tay, và ít được nhắc đến của ông. Cũng định thử một vài trang, rồi lúc nào đó sẽ đọc tiếp, nhưng bập vào tôi không thể dứt ra được, và đọc một mạch ngay nơi làm việc. Sự hấp dẫn, sinh động ấy, không hẳn bởi chỉ nội dung, mà còn do bố cục, nghệ thuật đan xen những tình tiết câu chuyện...
07 Tháng Hai 20242:19 SA(Xem: 3311)
Bài này, “Cái Tôi kỳ việt và Âm bản Thành phố/Tình yêu trong thơ tự do Thanh Tâm Tuyền”, được phát triển, bổ sung và mở rộng từ bài viết gốc năm 1986, với tựa “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”, theo tinh thần tựa đề “L’Homme, cet Inconnu” (1935) (Con Người, kẻ Xa Lạ ấy) của Alexis Carrel (Nobel 1912). Một vài chủ đề đã được đưa vào, hay tô đậm, qua một cái nhìn hồi cố và tái thẩm, để làm đầy đặn và làm rõ hơn các đường nét về thơ Thanh Tâm Tuyền, vốn, trong bản gốc nguyên thuỷ, đã được vạch ra nhưng chưa được khai thác kỹ.
07 Tháng Hai 20241:35 SA(Xem: 3132)
Người ta thường chỉ nói về thơ Thanh Tâm Tuyền ở cái thời tuổi trẻ của ông, và gần như không có ai nói kỹ (hoặc tương đối kỹ) về tập “Thơ Ở Đâu Xa”, kết tinh bởi những bài thơ thời sau này của Thanh Tâm Tuyền, đặc biệt là thời ông đã đi qua những hào quang của tuổi trẻ mình, và cũng là thời mà ông đang đi vào, đang đi qua những hiện thực sống động nhất, theo một nghĩa nào đó, của thân phận con người, nói chung, và thân phận thi sĩ, nói riêng, của chính ông. Cũng có ý kiến cho rằng thơ Thanh Tâm Tuyền, trong giai đoạn này, chỉ là thơ thời khổ nạn, tù đầy, không có mấy điều đáng bàn. Ý kiến đó có lẽ nên được xét lại. Con người thi sĩ, đặc biệt những con người thi sĩ với chiều sâu và kích thước như của Thanh Tâm Tuyền, có thể tự thể hiện phong cách độc đáo của mình, tự khám phá hoặc đổi mới mình, trong tứ, trong từ, trong hình ảnh, suy tư mình, trên các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, tiết nhịp, điệu thức, thể loại… trong bất kỳ hoàn cảnh hiện sinh nào của họ.
07 Tháng Hai 20241:29 SA(Xem: 3023)
Sài Gòn những ngày cuối năm trời ấm dần hơn, nắng mang hương xuân vương trên hoa cỏ dịu dàng làm lòng người chao lại nỗi nhớ quê. Tạ xa Qui Nhơn đến nay đã 5 năm rồi, thời gian như chớp mắt ngoảnh lại thấy những ngày cũ ở quê lùi xa dần xa dần mất hút. Nơi nàng ở khá yên tĩnh thích hợp với người ở cái tuổi chiều thu cận kề. Buổi sáng thức dậy, nàng có những phút yên ắng nhìn dòng sông êm trôi lặng chảy đón bình minh vừa lên, nghe chim ríu rít chuyền cành, nàng còn có thể dắt cháu đi học qua các con đường im vắng mà nghe cháu nói bi bô bên tai rồi còn có những phút đi rải cơm cho chim cho cá ăn, có những buổi chiều nhìn nắng tắt bên song mà nhớ, nhờ bớt nói lại nên bớt thị phi.
06 Tháng Hai 202410:00 CH(Xem: 2130)
BÊN BỜ AO- Khuyết danh - Trần C. Trí chuyển ngữ
18 Tháng Giêng 20248:59 CH(Xem: 2503)
PHÂN ƯU / Nhận được tin buồn / Cụ Bà : PHẠM THỊ SỰ / Pháp danh Quảng Diệu Nhẫn / Sinh ngày 7 tháng 3 năm 1935 tại Mỹ Thi, Đà Nẵng, Việt Nam / Đã tạ thế ngày 12 tháng 01 năm 2024 / (Nhằm ngày 2 tháng 12 năm Quý Mão) / Hưởng thượng thọ 89 tuổi.
17 Tháng Giêng 20243:42 CH(Xem: 4123)
“Thế là Tết 1999, lần đầu tiên tôi được bước vào ngôi nhà mà tôi không biết rằng sau này tôi sẽ thường xuyên tới. Mang tới một bó hoa lớn, cầm tờ ghi địa chỉ trong tay, tôi mò mẫm tìm. Khác hẳn suy nghĩ của tôi, ngôi nhà khá rộng rãi, khang trang, lại mang hơi hướng Tây hóa. Thấy tôi, mọi người ai cũng vui vẻ tiếp đón. Trùng hợp là Tết năm đó có cả em dâu cùng cháu trai bên Đức cũng về Việt Nam thăm họ hàng. Chúng tôi nói chuyện, hỏi han về cuộc sống, những vấn đề vấp phải trong xã hội, và kết thúc bằng tiết mục karaoke tại nhà để chào đón một năm mới đầy niềm vui, thành đạt hơn. Ngày hôm đó qua đi nhanh đến nỗi mà tôi gần như không còn nhớ gì đến nó.” (Phạm Ngọc Lương)
04 Tháng Giêng 20249:03 CH(Xem: 2982)
CHIA BUỒN / Nhận được tin trễ / Văn Thi Sĩ / Nhạc Sĩ Nguyễn Đình Toàn / từ trần vào ngày 28 tháng 11 năm 2023 tại Nam California / HƯỞNG THỌ 87 TUỔI
03 Tháng Giêng 202412:49 SA(Xem: 3720)
Tháng Giêng nắng vàng thơm ngát Đàn én bay về chao nghiêng Thầm thì…lời ca em hát Lý tơ hồng khúc giao duyên