- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

BÀI THƠ TÌNH CHO THÁNG MƯỜI MỘT

18 Tháng Mười Một 202010:54 CH(Xem: 13992)

BAI NAM -UL
Bãi Nam - photo UL


1 - Ngày 20-11

Và học trò nơi đảo xa

 

Cành san hô

Con kính tặng thầy

Hoa của biển thay lòng con đã biển

Mồ hôi thắp lời bảng đen phấn trắng

Một chữ cho trò

Một gánh gian lao

 

Chẳng chiến chinh con chữ cũng hầm hào

Giông tố bão bùng tường che ngói chắn

Hạnh phúc lớn lao

Trời êm biển lặng

Lời của thầy khai sáng mọi tâm tư

 

Mùa sẽ hoa trên đồng đất ngôn từ

Đảo xanh ngát hương đào hương lý

Mai con chữ sẽ nên hào nên lũy

Tiếp bước anh hùng

Đá cũng đơm hoa

 

“ Ngày cô thầy…”

Con chỉ có san hô

Hoa của biển và tình yêu của biển

Xương máu kết tinh bốn ngàn năm văn hiến

Nhất tự vi sư

Ơn mãi cô thầy

.

2 - Nhớ đồng

 

Lúa đi đi hết thời hoa

Lúa về về cả bôn ba chợ chiều

Bà ngồi giã một đăm chiêu

Máu xương chinh chiến

Chín chiều ruột đau

 

Thắp đêm soi mắt ngọn sầu

Phải duyên xin thức vào nhau chút đời

Mây đâu ngăn được gió trời

Buồn đâu theo suốt kiếp người gian nan

 

Bà ngồi giã ánh dương tàn

Sông sâu núi thẳm úa vàng tình xa

Hết mùa lúa đã cạn hoa

Gà tháng bảy

Ếch tháng ba

Nhớ đồng

.

3 - Lời buồn cho mùa đông

 

Chiến chinh đã khép lại rồi

Đất nằm im thở đá ngồi lưu ban

Ngát thơm hương lúa đồng vàng

Vẹn nguyên bất khuất trung can giống nòi

 

Bà ngồi giã nỗi cút côi

Một yêu lỗi hẹn cả đời nhớ mong

Dài sông lúc lỉu sâu nông

Hắt hiu mỏi đợi đèn chong thương là…

 

Mẹ nhớ con mẹ nhớ nhà

Con nhớ mẹ con nhớ ra chiến trường

Đồng nghèo năm một lần hương

Lúa không chỗ đứng đành nhường mồ hôi

 

Ngàn hoa thắp nến đêm trời

Đạn bom khói lửa át lời con tim

Chiến trường theo bố con tìm

Xuôi nam nhạn bắc và đêm mịt mù

 

Bà ngồi giã những đớn đau

Lưng còng chống xuống canh thâu mỏi mòn

Người đi đã hoá nước non

Nước non giàu đẹp ơi còn nhớ chăng

.

4 - Thương quê nhớ mẹ tôi về

 

Thương quê nhớ mẹ tôi về

Nhớ sao bến nước luỹ tre hồn làng

Cánh diều như vẫn bay ngang

Sông xưa như vẫn mơ màng như xưa

 

Nghiêng nghiêng mái tóc hàng dừa

Chải sao cho hết nắng mưa quê nghèo

Lúa về trăng cũng về theo

Trĩu vai quang gánh câu chèo lí lơi

 

Lúa thu chín rực tháng mười

Múa may tiếng sáo hả cười lưng trâu

Gió về cho gió đuổi nhau

Chân chim chân sáo hằn sâu hạ hồng

 

Hội làng soi ánh trăng trong

Mắt vui như ngỡ như lồng mắt ai

Tim tình vừa chớm quắt quay

Đã thương đã nhớ giăng đầy lối đi

 

Chân son dấu cát thầm thì

Đường xưa lối cũ mãi ghi trong lòng

Không tôi thì lúa vẫn đòng

Còn em…

Còn mãi em trong câu hò

.

5 - Sông đau chưa thoả rộng dài

 

Mùa đi trên nụ trên bông

Nhớ thương mắc cạn trên dòng ca dao

Vẫn còn nhau phía ngày sau

Tiếc ơi hỡi tiếc buồng cau đã già

 

Bà ngồi giã một thời hoa

Chiến chinh khói lửa biết là về đâu

Một sông có biết bao cầu

Trăm xuân chỉ một mái đầu bạc phơ

 

Không đi sao có người chờ

Ông cười đợi cũng là thơ mà bà

Chiến trường đã khép đã xa

Khuyết tròn trăng chẳng thể xa khuyết tròn

 

Sông đi không hết cánh buồm

Nhớ thương mắc cạn trên khuôn ngực đầy

Nên tình phượng phố là đây

Môi thăm thắm nở trên tay hạ hồng

 

Yêu như giọt nước phiêu bồng

Hòa vào biển ái là không còn mình

.

6 - Sắc màu yêu thương

 

Phượng rơi xuống chiếu mùa hè

Thương mưa tóc rối nắng về ôm vai

Buồn ve rớt giọt nhớ ai

Trang yêu nhoè ướt bên ngoài mùa thi

Về sông hỏi chuyện phân ly

Áo còn đang nụ tiếc gì sông ơi

 

Bẻ đôi ngày tháng ra phơi

Con trăng mồng mười nuốt hết tháng giêng

Hoá ra tình mới là điên

Ái yêu thù hận oán phiền đều vương

Xuân đi qua lối ngày thường

Vẫn hoa vẫn lá vẫn hương nội đồng

 

Bà ngồi giã những đợi trông

Chiến trường đã khép sao không thấy người

Tình buồn như cánh diều trôi

Nhọc công cõng gió để rồi gió bay

Chát cau hẫng vị trầu cay

Mắt chưa phai úa đã đầy hoàng hôn

.

7 - Hạnh phúc

 

Khoan nghĩ về hạnh phúc

Khi núi sông đang gọi phía chưa liền

Khoan nghĩ về hạnh phúc

Khi bếp nghèo không ấm lúc chiều lên

 

Hết cách ngăn rồi còn khóc chi em

Vui cũng khóc mà buồn cũng khóc

Không định nghĩa được từ hạnh phúc

Vẫn thơ ngây giữa tiếng khóc tiếng cười

 

Hạnh phúc thật gần nào có xa xôi

Lành áo công cha

No lòng cơm mẹ

Vất vả tảo tần chắt bao thế hệ

Mãi nở những nụ cười khi hạnh phúc trào dâng

 

Vết thương chưa lành

Chinh chiến lưu niên

Con khôn lớn giữa hai dòng nước mắt

Mãi trong con mẹ là Tổ quốc

Nhân ái nghĩa tình độ lượng bao dung

 

PHAN THÀNH MINH

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
26 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 99020)
Á Nam Trần Tuấn Khải sinh năm 1894 tại làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, mất năm 1983 tại Sài Gòn, thọ đúng 90 tuổi ta. Cuộc đời ông trải qua hầu hết những giai đoạn thăng trầm nhất, chứng kiến hầu hết những biến cố quan trọng nhất của lịch sử cận hiện đại Việt Nam. Ông cũng chứng kiến hầu hết những cuộc đổi thay của văn học hiện đại Việt Nam, từ sự ra đi của thơ Cũ đến sự xuất hiện của Phong trào thơ Mới, của Tự lực văn đoàn, đến các trường phái, trào lưu, khuynh hướng, chủ thuyết văn học cả tư bản và cộng sản gần suốt thế kỷ XX.
25 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 105750)
... T ôi cảm thấy mình như Từ Thức trở về, không còn ai biết mình, nhớ ra mình là ai, đôi khi lại còn bị đối xử một cách bất thường. Những lưu luyến với quê hương càng ngày càng như những rễ cây khô cố bám víu vào nền đất phù sa hai bên bờ sông, chưa biết ngày nào bị nước cuốn trôi đi...
21 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 91017)
“Đến bây giờ tôi còn thương mấy con ếch báo thức; chúng là những con ếch đầu đàn, ngủ đông trong hang, nấc lên tiếng gọi đầu tiên đánh thức đàn ếch chui ra khỏi hang mà vào cuộc sinh nở với mùa xuân. Nhưng các nhà "tiên tri ếch, kẻ đánh thức đồng loại" dậy đón xuân kia đã bằng tiếng ồm ộp của mình báo rằng: lạy ông tôi ở bụi này. Mấy tay bắt ếch chuyên nghiệp nghe tiếng kêu thức tỉnh đồng loại của dũng tướng ếch cách mạng kia bèn chộp chú liền, cho vào giỏ về thịt; vào giỏ rồi mà chú vẫn uôm uôm! Vẫn báo cho đồng loại dậy mau mà chạy đi, mà vọt xuống ao kịp trốn ... . " (Trần Mạnh Hảo)
21 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 105434)
LTS : Nguyễn Thi Quyên, hiện là Nghiên cứu sinh ngành Văn học so sánh tại Đại học Strasbourg, Cộng Hòa Pháp. Câu chuyện về Trương Chi đã được tác giả viết trong một đêm mưa như gửi tiếng lòng về với quê hương xa xôi.Tạp chí Hợp Lưu trân trọng giới thiệu “Trương Chi” đến cùng quí độc giả và văn hữu khắp nơi. Tạp Chí Hợp Lưu
21 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 105025)
P l ease help us to secure the immediate and unconditional release of Viet Khang
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 126529)
l à ngày em không còn nghĩ về anh nữa sự tự tin của anh không đủ giữ gìn những kí ức về nhau
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 40892)
Lời toà soạn: Mùa thu năm rồi, dưới sự bảo trợ của chương trình học bổng Fulbright của Hoa Kỳ,Giáo sư Tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP-HCM/Sàigòn, đã có mặt tại Hoa Kỳ để thu thập chất liệu cho dự án nghiên cứu về các nhà văn nữ Việt tại hải ngoại. Trong dịp này, chị đã có dịp tiếp xúc với nhà văn/nhà báo Trùng Dương, cũng là một thành viên Fulbright của niên khoá 1990-91, và là một trong năm nhà văn nữ nổi tiếng nhất của nền văn học Miền Nam 1954-1975. Sau đây là cuộc nói chuyện giữa hai thế hệ văn học từ hai môi trường khác biệt, mà nhà văn Trùng Dương đã, với sự đồng ý của người phỏng vấn, dành cho tạp chí Hợp Lưu ...
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 94452)
Q uốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tập thơ cổ nhất hiện nay chúng ta còn giữ được. Trước nay, tập thơ này luôn được các nhà nghiên cứu coi là tư liệu đặc biệt quý hiếm để nghiên cứu về ngôn ngữ và văn học Việt Nam thời Cổ- Trung đại, cụ thể là ngôn ngữ thơ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV. Đã có nhiều bản phiên âm chú thích của nhiều thế hệ học giả trong hơn năm mươi năm qua về văn bản này, cũng đã có nhiều bài viết và một số ít chuyên luận nghiên cứu riêng biệt về nguồn ngữ liệu phong phú này. Bài viết sẽ tiến hành khảo sát một số trường hợp trong ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi ...
18 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 89444)
T rong đời Nguyễn Du có ba sự việc liên can đến Trung Quốc:Năm  1803 , Nguyễn Du được cử lên  ải Nam Quan tiếp sứ  nhà Thanh sang phong sắc cho vua  Gia Long . Năm  1813 ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm chánh sứ tại  nhà Thanh cho đến  1814 . Năm  1820 Gia Long qua đời,  Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang  nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết...
17 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 103153)
C on tàu lùi lũi rời thành phố giữa lúc từng cơn mưa bụi gối lên nhau mê mải, những cung đường lồng lộng mở ra trước mắt. Phía sau lưng, thành phố đông đúc và ẩm ướt khuất dần. Ngày ra mắt họ hàng, anh cũng đưa chị về trên chuyến tàu như thế. Cũng một ngày mưa bụi gối lên nhau.