- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

EM VÀ NỖI BUỒN

19 Tháng Mười 20192:19 CH(Xem: 18971)

anh TNT
Đời người như sương sớm - ảnh EDE

 

LÁ NÕN

 

Gió thơm ngực cỏ non tơ

Mùa xanh lá nõn ngẩn ngơ đêm này

Nụ hồng rạo rực bàn tay

Bồn chồn nhựa ứ hàng cây cúi đầu

 

Ngủ đi em

                    Đất đã đẫm ngâu

Lời ru lá đổ đẫm sầu phù du

Võng ru nhịp võng hoang vu

Bóng ru chợt bóng ngàn thu ngậm ngùi

 

Trăng tàn dỗ giấc mồ côi

Nghe đau chân cỏ bên đồi dế kêu

Nghe từng vốc đất tịch liêu

Thinh không rạn vỡ lệ xiêu bước người

 

Ngủ đi em

                   Môi mỉm nụ cười

Lúm đồng tiền ấy đánh rơi chốn nào

Nụ hồng kia mãi ngọt ngào

Nhân duyên… lá nõn xôn xao gọi mùa

 

Trần Quang Phong

 

 

 

GÓC RỪNG

 

n náu góc rừng

Nuôi dưỡng nỗi đau

Vành trăng cong dấu hỏi

Em có về phố xưa?

 

Mù tăm mùa áo trắng

Lửng lơ cuộc tình trong veo sương mùa hạ

Tiếng ve rơi nơi nào

Ai cúi nhặt dấu chân?

 

Cánh đồng sóng sánh vàng

Cây xanh lưng đồi khao khát

Đêm mưa nỉ non

Đất dỗi hờn

Người thầm thì cùng bóng

Em có về lối cũ?

 

Hoa đào rưng rưng hiên nhà ai

Rơi lặng lẽ

Đốm lửa góc rừng

Ấm áp lều khuya

Khói hương quấn quýt

 

Trần Quang Phong

 

EM VÀ NỖI BUỒN

 

Tôi vẽ nỗi buồn

Bút gió lạnh buốt

Mực mưa trong suốt

 

Ngọn gió rì rào hàng cây xanh cội rễ, lác đác lá vàng rơi vào thân phận đa đoan, bóng người mồ côi con đường xao xác, lạc nẻo về về quê xứ.

 

Giọt mưa thinh không chiều tha hương, hiên nhà ai ngậm ngùi chờ đợi, bầy trẻ thơ rượt đuổi tiếng cười lửng lơ, những bàn chân khỏa thân tung tóe ký ức.

 

Tôi vẽ khuôn mặt em

Mực xanh búp nõn

Bút hồng xôn xao

 

Cánh mày huyễn hoặc cong vắt mảnh trăng non, bầy chim én rủ nhau về ẩn náu. Giấy trắng nhân duyên dỗi hờn thuở ấy, dấu hài lan tinh khiết tiếng chuông trăng.

 

Ngọn gió heo may chải tóc, bụi hồng buông tiếng thở dài, đôi môi đỏ thị phi rạo rực, vầng trán trong veo chìm khuất vào mây.

 

Nỗi buồn mềm mại như môi em

Nồng nàn nụ hôn như da thịt trăng rằm

Tôi úp mặt vào ngực cỏ

Nghẹn ngào khuôn mặt sơ sinh

  

Trần Quang Phong

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 89919)
...Chết tuy biết vì sao mình chết, do đâu mình chết mà không làm gì được. Chết một lần dưới làn đạn Tây dương. Chết thêm một lần về tinh thần bởi lòng trung bị khủng hoảng, bị phản bội, ấy là thời đại của những con người như Hoàng Diệu, ấy là những anh hùng cứu nước như Hoàng Diệu...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75737)
Hợp Lưu 112 Xuân Tân Mão 2011 , đến với bạn đọc và văn hữu khắp nơi trong tiết trời lạnh hơn mọi năm. Một năm đã trôi qua với bao biến động trên thế giới ngày nay, và cũng là một năm có nhiều đổi thay nơi quê nhà. Dù đang ở nơi nào, tâm hồn người Việt vẫn luôn hướng về; mong mỏi đổi mới, cải thiện cho một xã hội tốt đẹp hơn. Mùa Xuân là biểu hiệu của khởi đầu và hy vọng, cũng là dịp cho chúng ta suy gẫm và nhìn lại một năm đã qua.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 103821)
...Tôi đến Trường Chu Văn An trên đường Thụy Khuê, vào phía sau sân trường tìm bãi cỏ nhìn qua Hồ Tây để nhớ đến nụ hôn đầu tiên Kiên bỡ ngỡ đặt lên môi Phương trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Bãi cỏ xanh mướt ngập đầu lưu giữ tình yêu đầu tiên của Kiên không còn nữa. Nếu giờ đây, Phương cũng đã đi nước ngoài và lấy chồng ngoại quốc, nụ hôn của Kiên trao cho Phương, chính tôi nhận và giữ hộ...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 87237)
Larsson lìa đời trước khi đứa con tinh thần, bộ tiểu thuyết thuộc loại trinh thám, Millennium Trilogy, gồm ba cuốn, mà ông đã viết vào mỗi tối như một trò giải trí cho thần kinh bớt căng thẳng, ra đời sáu tháng sau khi ông ký giao kèo với một nhà xuất bản Thụy Điển, Norstedts Förlag, nhà xuất bản thứ hai Larsson liên lạc và ký giao kèo, sau khi gửi cho một nhà xuất bản thứ nhất tới hai lần mà gói sách không hề được mở ra.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92713)
Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng Tư 1975, chúng tôi có cái hân hạnh được Công đoàn bảo hiểm Pháp ( Fédération Française des Sociétés d’Assurance ), qua thỏa ước với Bộ Tài chánh CHXHCNVN, gởi về nước cùng với một số nhà giáo Pháp giảng dạy bộ môn Bảo hiểm còn mới này trong trường Đại học Tài chính và Kế toán Hà nội - nay trường đã lột xác trở thành Học viện Tài chính.
14 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 109348)
Về đi thôi nhật ký ngày chân đất Gốc đa già bà kể lá bùa yêu Em ôm giấc thị thành nửa mùa cổ tích Hỏi gió trời sao giấu lá bùa yêu 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 84423)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83464)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75783)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80565)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.