- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

THÁNG 4 VÀ THƠ LỮ THI MAI

01 Tháng Tư 20182:48 CH(Xem: 27617)




lu mai4F- 2018
Nhà thơ Lữ Thị Mai - VN 2018

 

MẮT SƯA

 

Trắng đẩy vào ô cửa phố Phan

không qua nổi chiều sương mù ẩm cánh

từ đấy về vòm cầu Phùng Hưng

áo mỏng phù dung họa bích

 

làm sao thấy được em

ngày xuân tuyết trinh kỳ trăng quên hẹn

những đôi mắt tự tìm mình

những gót giày nhỏ xinh lười bách bộ

 

lạ thay phố ngày toàn khói

hơi người thơi thới trời mây

không gì thật hơn ánh nhìn màu trắng.

 

MƯA ĐỒNG VĂN

 

Mắt người đã khô

mưa vẫn trũng tim đá núi

đêm nay mình không ngủ được

vơ vất rượu ngô khèn lá chợ phiên

 

người Mông bán mua gì

hơi cỏ Mã Pì Lèng ngai ngái

sa mộc sóng đôi vẽ lại đỉnh trời

 

đèo sau mưa khởi toàn mây trắng

người tìm người vắng trong mơ

tường đá ấm mùa đào chín lựng

má bừng vía lửa đêm đông

 

triệu người bóng nhòa lưng núi

váy xòe theo đuôi ngựa cuối thung xa

chúng mình cứ nhìn nhau mà khóc

tia mắt lịm hơn bát rượu dốc sau cùng

 

bỗng chốc chân người bất động

những cung đường xa khuất lang thang.

 

MƠ LẠ

 

Bỗng thấy mắt mình rụng rơi

bỗng thấy đôi tay lần tìm trong bóng tối

ta đuổi miết theo những hòn bi

bình minh lăn phía nào chưa rõ

 

còn bây giờ

hoa sữa thơm đến bất đồng ngôn ngữ

một thoáng mưa mắt phố hai hàng

ký ức đổ vào ta gốc rạ

tháng Chạp vọng về hoàng hôn sương sa

 

tỉnh dậy chẳng tìm ra cặp mắt

trời đông sang da thịt buồn căng

cơn mơ lấy đi những điều rất thật

may ra còn trí nhớ ăn năn.

 

 

KHAI XUÂN

 

Lộc biếc vừa đơm nhức áo

núi in giấy mới chùng chình

ý nghĩ vượt vùng yên tĩnh

mây lành tạo tác đào phai

 

nơi này sót bụi mưa tháng Chạp

lau sậy qua tay rức hơi người

ai hát lại bài ca vách núi

muôn lối mòn thui thủi vắt lên cao

 

trẻ con ùa vào

lòng ta...

má hồng, chân không, mắt ướt

giỏ nan đựng đầy quả dại

ta mua thêm nỗi bâng khuâng

 

áo người một hàng lộc biếc

năm tháng trổ ra hờn tiếc...

 

NHỮNG GIẢ DỤ

(1)

Em bỏ đi khuôn mặt rườm rà

bức tượng cổ hắt vào muôn điệu sáng

son môi in màu nắng

hoa loa kèn mang mùi áo rất xa

 

thuở ấy có người theo ta

hỏi gì đều không nói

khóe cười váng đầu nghĩ ngợi

dẫn về sân ga lên mười

 

đường lá rụng phập phù ngọn lửa

vỉa hè bùng đám cháy nhỏ

chỉ riêng mình biết thôi

đời sống kia tươi tốt ngời ngời

 

bức tượng an vui đêm nào phẫn nộ

mắt trùng khơi bờ cõi chân mày

mi ướt ken dày mưa lũ

ta bắt đầu nghi hoặc mọi cơn mơ.

 

(2)

 

Khuya nay phên giậu quỳnh dao

ai vào phải mang đồ trắng

hẳn có người đang sợ lắm

trò chơi ám phận đàn bà

 

thì thôi

tắt đèn

vào nhà

nửa chừng thinh không áo mỏng

thềm rêu hút chặt bàn chân

 

quỳnh cười rất trong

dao sắc mật thư nghìn đêm có lẻ

tình ái mong manh chuyện kể dư thừa

 

ai lỡ vào đây chưa thể ra

nhớ đọc ba lần câu thần chú

tôi đã vào đây như phù du...

 

(3)

 

Mưa từ bên kia hoang dã

trà ấm lòng ban mai

ta tưởng tượng thêm một vài mùa hạ

gieo phong ba đâu đó bên mình

 

nước mắt có từ thời chưa sinh

ấy là dòng sông nhỏ

vắt qua đồi má khô

vô thức điềm nhiên thổ lộ

 

biển quanh ta quạnh đắng chén trà

muối trắng ân tình hữu hạn

nói gì cũng mặn

mọi ngôn từ đều dẫn đến ăn năn.

 

(4)

 

Buổi chiều thắp nến lên

nắng chói mờ đuôi mắt

lòng dửng dưng rụng đầy thanh xuân

chưa kịp nhớ nhung gì

đã tắt

 

người ta đối thoại với nhau

sao mình đau

thấy như tim ngừng đập

thấy đón đầu cửa ngực một dòng sông

 

bóng núi trăm năm chảy thành sáp nến

tên chiều nhạt hơn mưa đêm

ta chợt thấy những tàng cây luống tuổi

gọi mây trôi ngun ngún khói trời

 

ai cũng nói ngôn từ quá mới

tấc lòng độ lượng mồ côi

tận cùng mọi cuộc đối thoại

là chiếc gai đau nhói chôn vùi

 

(5)

Huyên náo vầng trăng mê rong chơi

trần thế có người suốt đời trồng cỏ

mong đổi màu khu vườn

nghìn lá đỏ nghiêm trang như mực

 

người búng vào lau sậy niềm tin

lỡ chết đi đời tuốt cờ bông trắng

nào ngờ chỉ là mây sà xuống

cho vay

 

thực ra vườn vẫn lay lắt cây

ai giả dụ thì tự bày câu chuyện

ý nghĩ lên rêu biết lối mà xanh

hoặc tàn lụi sẽ an lành trong đất

 

vì ta vầng trăng chợt thức

treo giữa trời mưng mưng vành nôi

người trồng cỏ đánh rơi đôi hài gió

từ đó mộng mơ nhân bản thăm dò.

 


 

LỮ THỊ MAI

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 90011)
...Chết tuy biết vì sao mình chết, do đâu mình chết mà không làm gì được. Chết một lần dưới làn đạn Tây dương. Chết thêm một lần về tinh thần bởi lòng trung bị khủng hoảng, bị phản bội, ấy là thời đại của những con người như Hoàng Diệu, ấy là những anh hùng cứu nước như Hoàng Diệu...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75821)
Hợp Lưu 112 Xuân Tân Mão 2011 , đến với bạn đọc và văn hữu khắp nơi trong tiết trời lạnh hơn mọi năm. Một năm đã trôi qua với bao biến động trên thế giới ngày nay, và cũng là một năm có nhiều đổi thay nơi quê nhà. Dù đang ở nơi nào, tâm hồn người Việt vẫn luôn hướng về; mong mỏi đổi mới, cải thiện cho một xã hội tốt đẹp hơn. Mùa Xuân là biểu hiệu của khởi đầu và hy vọng, cũng là dịp cho chúng ta suy gẫm và nhìn lại một năm đã qua.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 103948)
...Tôi đến Trường Chu Văn An trên đường Thụy Khuê, vào phía sau sân trường tìm bãi cỏ nhìn qua Hồ Tây để nhớ đến nụ hôn đầu tiên Kiên bỡ ngỡ đặt lên môi Phương trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Bãi cỏ xanh mướt ngập đầu lưu giữ tình yêu đầu tiên của Kiên không còn nữa. Nếu giờ đây, Phương cũng đã đi nước ngoài và lấy chồng ngoại quốc, nụ hôn của Kiên trao cho Phương, chính tôi nhận và giữ hộ...
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 87360)
Larsson lìa đời trước khi đứa con tinh thần, bộ tiểu thuyết thuộc loại trinh thám, Millennium Trilogy, gồm ba cuốn, mà ông đã viết vào mỗi tối như một trò giải trí cho thần kinh bớt căng thẳng, ra đời sáu tháng sau khi ông ký giao kèo với một nhà xuất bản Thụy Điển, Norstedts Förlag, nhà xuất bản thứ hai Larsson liên lạc và ký giao kèo, sau khi gửi cho một nhà xuất bản thứ nhất tới hai lần mà gói sách không hề được mở ra.
15 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 92846)
Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng Tư 1975, chúng tôi có cái hân hạnh được Công đoàn bảo hiểm Pháp ( Fédération Française des Sociétés d’Assurance ), qua thỏa ước với Bộ Tài chánh CHXHCNVN, gởi về nước cùng với một số nhà giáo Pháp giảng dạy bộ môn Bảo hiểm còn mới này trong trường Đại học Tài chính và Kế toán Hà nội - nay trường đã lột xác trở thành Học viện Tài chính.
14 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 109491)
Về đi thôi nhật ký ngày chân đất Gốc đa già bà kể lá bùa yêu Em ôm giấc thị thành nửa mùa cổ tích Hỏi gió trời sao giấu lá bùa yêu 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 84540)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83572)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 75912)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 80711)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.