- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

TRỞ LẠI ĐÂY YÊU EM

08 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 36088)

thienthe-nguyen_trong_khoi-content

 Thiên thể- tranh Nguyễn Ngọc Khôi


Bà ngoại tôi kể, dòng họ tôi đời nào cũng có một người chết vì tình.

Có thể dòng máu đa tình chảy ngấm ngầm trong huyết quản, truyền từ đời nàng Công nữ Nguyễn Phúc Hồng Miên đầu tiên đã gieo mầm mống yêu si cuồng thái quá cho các nàng Tôn nữ.

Thường chỉ là các nàng Tôn nữ mới đủ can đảm chết vì tình. Những người đàn ông trong dòng họ tôi chỉ đủ can đảm để bỏ chạy.

Có thể căn nhà biệt thự cổ truyền qua bốn đời đó xây phạm vào cung Nhan Sắc, nên bốn đời nhan sắc u uất khép mình trong bức tường kiểu Tây thuộc địa dầy 8 phân, những người đàn ông dần dần rời bỏ căn nhà quanh năm bốc mờ mờ khí lạnh và nằm trũng sâu trong vùng gió. Vì ở sát cạnh bờ biển lở. 

Có thể chân móng ngôi nhà xây lên từ một bờ biển lở, mà hàng dương cong mình chắn gió cũng không ngăn nổi con sóng mặn đập rầm rầm vào chân tường mỗi đêm. Và cát lở rào rào như tiếng chân người bỏ chạy về phiá biển.

Khi dì Hường chết, tôi còn chưa sinh ra đời. 

Mẹ kể dì Hường rất đẹp. Dòng họ tôi, đời nào cũng có gái đẹp. Sở hữu nét mặn mà từ các ông bố hoàng thân quý phái, phong lưu và các bà mệ nhan sắc u trầm, đài các.

Nhưng vẻ đẹp dì Hường rất khác lạ. 

Lần theo hai bức tường hành lang chạy dọc theo lan can cầu thang gỗ đàn hương, nổi bật giữa ngổn ngang những bức hình chân dung truyền thần đen trắng, khăn vấn, áo nhung , vòng kiềng lóng lánh là bức hình chụp duy nhất của dì Hường.

Dì không ngồi theo kiểu các mệ ngày xưa thông thường, hai bàn tay xòe đều mười ngón trên đầu gối khép nép, mắt nhìn thẳng ra phía trước, môi gượng nở nụ cười buồn muôn thủa của gái Huế. Dì ngồi đó, trong chiếc áo đầm ren tím, mong manh như bông hoa Lys trên cái cuống trắng nõn là thân hình thon thả , cần cổ cao mượt mà, hai bàn tay vươn ra phía trước và đôi mắt to đen lóng lánh như đang bừng bừng cơn sốt, đôi môi hồng đầy đặn khác thường. Khuôn mặt sống động đến độ trong ánh chiều mờ mờ ảo ảo của tia nắng quái cuối cùng, có thể cảm nhận được hơi thở ẩm ướt phả ra từ đôi môi đang run run mấy máy như muốn thốt lên:

- Hãy trở lại đây, yêu em!

Lời nói thì thầm đó miên man rì rầm chạy dọc theo các vách tường buốt lạnh, theo hành lang đầy gió, luồn vào những khe cửa tối tăm nhất của những căn phòng luôn ẩm lạnh, lẩn quất trong áo, trong khăn, trong tóc những người đàn bà còn ở lại trong căn nhà:

- Hãy trở lại đây yêu em!

Bức hình đó được chụp hai tháng trước khi dì chết.

Và sáu tháng sau khi dượng Hường bỏ đi.

Đó đã là một mối tình rất đẹp. Nhiều người trong nhà còn nhớ lại. Dượng Hường là một bác sĩ, thời đó lấy được một ông Docteur tốt nghiệp trường Tây là niềm mơ ước cháy bỏng của các tiểu thư tỉnh lẻ. Dượng Hường lặng lẽ, trầm mặc, người gầy xương xương, khuôn mặt nhìn nghiêng như bức tượng cổ Hy lạp. Hai gia đình quen nhau lui tới hơn ba tháng là tính chuyện cưới hỏi, đám cưới linh đình nhất tỉnh lỵ thời đó, cô dâu chú rể lịch sự trong soire trắng và áo vest đen, chỉ nắm tay nhau, đi bên cạnh nhau mà chưa hề nhìn vào mắt nhau.

Đám cưới thời xưa là như thế, mẹ giải thích.

Nhưng dì Hường yêu ông chồng Docteur bằng tình yêu nhuốm mùi tiểu thuyết và đầy tôn thờ. Tình yêu đó của cô gái trẻ sáng bừng như mặt trời rọi vào từng góc khuất của ngôi nhà cổ, nhẹ nhõm như gió Nam chạy bằng những bước chân rón rén trên thềm gạch và cháy bỏng trong mắt mỗi khi dì nhắc đến tên anh chồng ít nói lạnh lùng.

Mọi người hầu như nghẹt thở vì ganh tỵ khi nói về tình yêu của dì. 

Cho đến khi các bà dì khám phá ra những vết bầm tím và vết sướt lờ mờ trên cổ tay của dì, sau đó hiện ngày càng nhiều trên bờ vai trần và chiếc cổ cao ba ngấn. Rồi một ngày không kìm được các bà dì đã pha thuốc ngủ cho dì Hường uống và tìm ra sự thật. Bà ngoại tôi hầu như chết ngất vì đau đớn, khắp thân thể của dì đâu đâu cũng có những vết roi, vết cào, vết sước, vết cấu xé, vết trước chưa lành, vết sau còn tươi rói chồng chất lên nhau.

Khi tỉnh dậy, dù tra khảo bao nhiêu, dì nhất định cắn môi ứa nước mắt không nói. Trong đôi mắt màu đen thẫm lóng lánh một tia tím rất lạ như vết sướt của kim cương đó, chỉ có bừng bừng một cơn sốt tình yêu hơn là đau đớn thể xác.

Nhà ngoại tôi chưa hết xao xác về bí mật khủng khiếp của ông Docteur cao ngạo lạnh lùng này, thì chồng dì Hường bỏ nhà ra đi. Cùng với một cô y tá trẻ. 

Trong khi bà ngoại tôi thở phào nhẹ nhõm, thì dì Hường trở về lại căn nhà cổ xanh xao như một xác chết. Từ đó linh hồn của dì Hường cũng tắt lịm , dần dần khắp căn nhà lạnh luôn rì rầm hơi thở thì thầm bồn chồn:

- Trở về đây yêu em!

Hơi thở đó vẫn không ngưng thì thào sau khi dì Hường đã chết, một đêm không có gió, không có cả tiếng sóng đập vào chân tường, như gió và sóng chỉ ngừng trong một ngày. Nghe nói căn phòng của dì tràn ngập hoa Lys, mùi thơm đặc quánh như nỗi đau vón cục đó một tuần sau vẫn bao phủ căn nhà.

Cho đến bây giờ vẫn vương vất khắp các bức tường.

Cho đến bây giờ hoa Lys không bao giờ được cắm trong nhà ngoại.

Cho đến bây giờ các bà dì vẫn chằm chặp rình rập mấy cô con gái Công Tằng Tôn Nữ mắt đen đến tuổi yêu trong nhà như rình lò thuốc súng.

Mấy chị họ của tôi, chị nào cũng đẹp. Nhưng mà ướt át nhất, gần giống với nhan sắc dì Hường nhất chỉ có chị Nhường chị. Dì Hai của tôi sinh ra hai đứa con gái, Nhường chị và Nhường em. Nhường em cao ráo sinh động,khỏe mạnh, da nâu bánh mật bao nhiêu thì Nhường chị dịu dàng, mềm mại, như một cành liễu rũ bấy nhiêu.

Chị Nhường chị chơi thân với tôi, mặc dù tôi học kém chị đến hai lớp, chỉ vì chị mê ông thầy dạy văn của tôi. Ông thầy này cũng gầy xương, cũng lạnh lùng không kém ông dượng Docteur ngày xưa của dì Hường, là tôi đoán như vậy, nhưng có giọng giảng văn say sưa, trầm ấm, truyền cảm như lên đồng, và đôi mắt sáng như điện. Chị Nhường thầm yêu thầy từ ngày học lớp 10 mà không dám nói, đến năm lớp 12, sắp tốt nghiệp đến nơi mới cuống cuồng si mê.

Chiều nào chị Nhường cũng xin phép qua nhà tôi ôn bài, chưa kịp phủi chân đã nhảy lên giường nằm, ôm cứng chiếc gối ôm vào lòng, mở tròn mắt, say sưa bắt tôi kể chuyện thầy dạy Văn. Bao giờ cũng có nhiêu đó câu hỏi lập đi lập lại:

- Thầy có nói gì hông? Thầy có nhắc đến tên chị hông? Hôm nay Thầy giảng bài gì? Có hay hông? Thầy đọc thư của chị chưa? Có trả lời cho chị hông?

Ngày nào tôi cũng chỉ có một cái lắc đầu. Cũng không dám tả cho chị nghe cái chau mày tối sầm của thầy khi nhận thư "của chị em" mà hết hai phần ba lá thư là do tôi tự biên tự diễn nhờ là học sinh giỏi văn cưng của thầy, sau đó là cục lơ lạnh như tảng băng ngầm ném ra cho con mắt đau đáu trông chờ thư trả lời của tôi.

Nhưng hôm nay tôi cắn môi tung một tin sét đánh:

- Hôm nay thầy từ biệt, chuẩn bị chuyển về tỉnh dạy.

Làn da trắng hồng của chị Nhường chuyển sang sắc xanh tái, nước mắt bắt đầu ngân ngấn và đôi môi hồng đầy đặn run run:

- Thiệt hông? Giờ chị phải làm sao đây Út? Chị không thể sống thiếu thầy được!

Trời ơi, tôi than thầm trong bụng, giờ mới hiểu "không thầy đố mày làm nên" là như vậy đây!

Rồi chị chuyển sang khóc ròng ròng, nước mắt đầm đìa như mưa:

- Điệu này chắc chị chết quá, sống không nổi, Út à!

Tôi quýnh quíu hết tay chân, hình ảnh dì Hường và đôi mắt bồn chồn lên cơn sốt, đôi môi run rẩy thì thầm miên man trong căn nhà cổ hiện lên làm tôi rùng mình. 

- Từ từ để em tính cái coi. Nhường cuống quít lên làm em hoảng quá à!

Những lời rì rầm từ đôi mắt dì Hường ong ong trong đầu tôi. Tôi ôm chầm lấy chị Nhường:

- Em có cách rồi, nhẹ nhàng không được thì phải dùng biện pháp mạnh thôi! Năn nỉ không được thì hăm dọa, khủng bố! 

Tối đó hai chị em đi tới khuya mới về, rón rén chui vào giường, hai chân còn lạnh ngắt, lá me trước ngõ nhà thầy rụng như mưa trên đầu. Cả đêm người chị Nhường như lên cơn sốt, áp chặt vào lưng tôi, hơi thở nóng hầm hập.

Trời vừa mờ sáng, mẹ đã lay tôi và chị Nhường dậy:

- Thầy dạy văn tìm con kìa.

Hai chị em run rẩy chạy lập cập ra ngoài cổng rào. Thầy đứng đó, bên giàn hoa bông giấy, màu áo chemise trắng nổi bật bên màu hoa tím, tay cầm xấp giấy dày cộp. Chị Nhường phong phanh trong áo lụa, run rẩy trong gió sớm, làn môi hồng nhợt nhạt như bông hoa mắc cở. Thầy chau mày nhìn đăm đăm vào chị Nhường:

- Hai em dán mấy cái poster này lên hàng cây trước nhà tôi? Hai em gan thiệt! May mà tôi dậy sớm tò mò đọc thử, rồi tịch thu nếu không thì hai em gặp rắc rối rồi. Vừa can tội làm mất vệ sinh vừa dán quảng cáo không xin phép trước, nội dung thì gây hoang mang khó hiểu!

Chợt một nụ cười ấm áp thoáng qua rất nhanh trên môi thầy. Thầy dúi vào bàn tay run lẩy bẩy của chị Nhường một lá thư mỏng:

- Tôi gửi em lá thư cảnh cáo. Riêng mấy tờ poster này tôi sẽ giữ lại làm bằng chứng.

Và thầy quay lưng đi.

Cho đến bây giờ, chị Nhường vẫn còn giữ những tờ giấy A4, in chữ to đậm "Hãy trở lại yêu em!", "Xin anh đừng đi!" và lá thư hồng chỉ có một dòng chữ nghiêng "Tôi sẽ trở lại yêu em" ép sau lưng tấm hình cưới phóng to. 

Vẫn đôi mắt bừng bừng như đang lên cơn sốt hao hao giống dì Hường , chỉ khác đôi môi hồng đầy đặn ngây ngất cười, bên cạnh anh thầy dạy Văn trong nét mày nhẹ nhõm không chau. Và hai bàn tay đan vào nhau chặt không muốn rời!

UYÊN LÊ

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Chín 202310:53 CH(Xem: 7107)
Trong những thập niên tới—khi các văn khố hoàn toàn mở rộng—chúng ta mới có thể biết rõ ai là người Việt đầu tiên đã đến Mỹ và tiếp cận với nền chính trị Mỹ. Cách nào đi nữa, Bùi Viện khó thể là nhân vật này… /... Nguyễn Sinh Côn—dưới bí danh Paul Thành, rồi Nguyễn Ái Quốc—có thể là người Việt đầu tiên đến Mỹ, và chắc chắn là người đầu tiên nghiên cứu hệ thống chính trị Mỹ… /... Phần tư thế kỷ sau, Nguyễn Sinh Côn—với bí danh Hồ Chí Minh—thực sự móc nối được với cơ quan tình báo chiến lược (OSS) Mỹ, được tặng bí danh “Lucius,” rồi bước vào Hà Nội giữa cao trào cách mạng 1945.[lvii] Mặc dù Liên bang Mỹ đã chọn thái độ “hands-off” [không can thiệp] khi liên quân Pháp-Bri-tên khởi đầu cuộc tái xâm lăng Việt Nam năm 1945, / ...cũng như thiết lập sự chính thống cho chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, qua cuộc bầu cử quốc hội 1946 và bản Hiến Pháp 9/11/1946...—đồng thời có thời gian chuẩn bị cho cuộc chiến kháng Pháp suốt 8 năm kế tiếp.
21 Tháng Chín 20232:50 CH(Xem: 6378)
Mùa thu trải ra trải ra / Từng bước chân trên ngọn cỏ khô / Có em chạy băng qua cánh đồng hoang tưởng / Nụ hôn vội một sáng ướt mưa / Có phải em và mùa thu / Chia tay và nỗi buồn có thật / Như mưa / Rơi xuống đời nhau.
15 Tháng Chín 202312:19 SA(Xem: 4603)
Vô cùng thương tiếc khi được tin: Anh Nguyễn Văn Cử, Pháp Danh Gelek Gamba / Cựu học sinh Chu Văn An và Trần Lục / Cựu Sĩ Quan Võ Bị Thủ Đức, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa / Sinh ngày 16 tháng 4 năm 1944 tại Hải Phòng, Việt Nam / Đã quá vãng ngày 22 tháng 8 năm 2023 / tại San Jose, California / Hưởng thọ 79 tuổi
12 Tháng Chín 20238:24 CH(Xem: 6624)
Đá nghe chuyện của mưa / Mang lời cho gió / Phía sau câu chuyện là tiếng sóng / Nụ cười gieo / Gió cuốn mây / Những đứa trẻ nhặt mưa ban ngày.
12 Tháng Chín 20231:30 CH(Xem: 5978)
Kể từ lần đó, chúng tôi quay trở lại và coi quán Eden như điểm hẹn hàng ngày. Thi thoảng, em sẽ đến sớm hơn tôi, vẫn dáng vẻ im lìm nhắm mắt hút thuốc không hề để tâm tới xung quanh ấy. Em thích những bản nhạc thê thiết vẫn nhả lời rầu rĩ ở quán. Lý do mới thật sự đơn giản làm sao.
12 Tháng Chín 20232:20 SA(Xem: 6858)
Ngủ đi. mênh mang suối nguồn / Ngủ đi. vợi nhẹ tâm buồn không đâu / Một bóng đời vút ảnh câu / Mà trần gian vẫn nhiệm mầu sắc không
12 Tháng Chín 20231:37 SA(Xem: 6201)
Phàm những gì người ta thích thì thường chòi mòi chốc mảy vì thứ ấy. Ví như người mê gái đẹp (thấy gái đẹp ai không mê, người nào nói không mê gái có mà hâm!), cô nào có vóc dáng lả lướt, ngồ ngộ, trang phục hơi sex đôi chút thì con ngươi như dán chặt vào đó. Lại có người thích chơi chim, mỗi lần nghe tiếng hót là như bị hốt hồn. Mỗi cách chơi đều có hội riêng, tập hợp những người cùng sở thích, chủ nhân của những quán cà phê vỉa hè cũng đã tận dụng cái sở thích ấy để mà câu khách. Trên cành cây có treo dăm ba lồng chim, bên ly cà phê mà tán pháo, tán cái vui dân dã của mình. So cọ con chim này hót hay , con chim kia đang bắt đầu thay lông. Và cũng từ đó, có nhiều kẻ tìm được khối tiền vì những trò chơi.
12 Tháng Chín 202312:43 SA(Xem: 6387)
Hai câu trên nằm trong bài thơ mang tên “Lễ Phục Sinh 1916” của William Butler Yeats. Bài thơ nhằm tưởng nhớ tới những người đã ngã xuống cho tự do và độc lập của Ireland. Cuộc hành quyết đẫm máu các thủ lĩnh cách mạng sau cuộc trỗi dậy vào ngày lễ phục sinh đã đánh thức cả một thế hệ Ireland. Cuối cùng, nhân dân Ireland cũng dành được độc lập vào năm 1949 và bài thơ của Yeats được cho là một trong những bài thơ chính trị hay nhất của thế kỷ 20 trong lịch sử văn học nước Anh.
12 Tháng Chín 202312:14 SA(Xem: 7163)
khi ngôn ngữ trở thành phù phiếm / trên môi người hát ca / anh trở về yên ngủ / dưới cội hoa mai già
10 Tháng Chín 20238:59 CH(Xem: 5927)
Sau gần một năm, chính xác là 11 tháng và 15 ngày, chữa trị ung thư mắt tại một bệnh viện nổi tiếng ở Houston, Texas, nay tôi đã về nhà yên bình và niềm vui trong lòng dâng cao mãi. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi nhận ra mình thực sự sống sót, thoát chết, trở về trong “chiến thắng vinh quang”, sau cuộc chiến chống lại căn bệnh quái ác. Căn bệnh ấy quái ác thật, nguy hiểm thật, chỉ nghe tên cũng rùng mình run sợ. Điều trị khỏi bệnh ung thư đối với riêng tôi, là một dấu ấn hằn sâu trong tâm não. Đã có biết bao người bỏ cuộc giữa đường. Tôi thì không! Một chiến sĩ trên đường ra mặt trận, được trang bị tinh thần quyết chiến, quyết thắng, lẽ nào tôi không có chiến công mang về. Trung tâm ung thư nằm ở tầng lầu 14 của bệnh viện, đã gợi ý tôi, tưởng tượng rằng mình đã xuống tới tầng địa ngục thứ 14, và không ngại ngùng, ghi lại những cảm xúc chân thực và niềm vui sướng tuyệt vời trong bài hồi ức “Trở về từ tầng…14”.