A nh giới thiệu với tôi tên cô nhưng không nói cô là gì của anh, một cách
ngầm bảo tôi hiểu thế nào cũng được, cô có thể là tình nhân mà cũng có thể là
em họ xa (chẳng hạn). Anh cũng nói thêm cô sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, chuyến
này sang Mĩ du lịch và định ở lại chơi chừng hai tháng. Cô đẹp, dĩ nhiên—tôi
chưa thấy anh đi với người đàn bà không nhan sắc bao giờ—nhưng không còn trẻ
nữa. Tuy thế thật khó đoán tuổi cô, có thể ngoài ba mươi, có thể hơn. Cô ít
nói. Hình như cô chẳng để tâm gì đến câu chuyện giữa tôi và Quang mà chỉ ngồi
trầm tư uống cà phê, phóng tia mắt ra ngoài khơi, nơi có những cánh buồn trắng
dật dờ trên mặt biển như đang trôi về nơi vô định.
C on hẻm vắng người lạ kỳ dẫn cô vào một cửa tiệm
u tối, ngoài cửa kính màu sắc thế kỷ thứ 18 chỉ treo vỏn vẹn một biển hiệu xộc
xệch và bức tranh chân dung sỉn màu. Cô ghé lại gần nhìn kỹ và choáng váng;
chân dung của chính cô, lệch lạc, méo mó nhưng đúng là đường nét Á đông của đôi
mắt 1 mí cách xa nhau, sóng mũi thấp, gò má tròn dẹt và đôi môi hơi cong hai
bên khóe.
H đã rời bỏ nơi chốn chúng tôi cùng rong chơi “ nơi đó sặc mùi lừa bịp – H nói những cái thớt và những đứa liếm thớt H không chịu được mùi không phải của người”
« C hiến tranh là sự tiếp nối chính trị bằng những phương tiện khác» . Câu văn trứ danh này của Clausewitz, có lẽ ai trong chúng ta cũng từng
nghe qua. Nó xác lập sự phụ thuộc của quân sự vào chính trị. Từ khi có những tập
hợp người gọi là thành quốc hay quốc gia, người ta không làm chiến tranh đơn
thuần nhằm chém giết lẫn nhau, mà để giành lấy quyền định đoạt số phận của một
cộng đồng. Và kẻ tham chiến có thể thua hàng trăm trận đánh, miễn là thắng trận
cuối cùng, nếu sau đó nó mang lại quyền quyết định về việc tổ chức chính quyền
trên một lãnh thổ.
T ình trạng dịch thuật hiện nay ở Việt Nam đang ở mức cần phải
báo động. Radio RFI đã dành nhiều chương trình cho những buổi nói chuyện với
nhiều dịch giả trong và ngoài nước về vấn đề này. Sau Hoàng Hưng, Phạm Xuân
Nguyên là những nhận định có phần nghiêm khắc của dịch giả Trần Thiện-Đạo đã sống
ở Paris trên nửa thế kỷ. Trước 30-04-1975, Trần Thiện-Đạo cộng tác với các báoVăn,
Tân Văn, Bách Khoa, Nghệ thuật... ở Sàigòn và hiện nay vẫn thường xuyên gửi bài
in trên các sách báo văn học trong-ngoài nước. Ý kiến của Trần Thiện-Đạo sẽ như
một liều thuốc đắng, may ra giã được một số tật cố hữu trong địa hạt dịch thuật
của Việt Nam.
Trước 30-04-1975 Thế Phong là một
nhà văn quân đội. Ưu điểm của Thủy và T6 nằm ở giọng văn chuyển tải suy nghĩ nhân vật liên tục không chấm dứt, qua đó, người
đọc bắt gặp thủ đô Sàigòn về đêm. Một thủ đô phù phiếm dù mặt trận kề cận. Một
Sàigòn vừa trải qua Đảo Chánh đã chờ đợi Chỉnh Lý. Thế Phong ghi lại tâm trạng
bấp bênh của xã hội miền Nam mà các chi tiết vũ trường, thao thức nhân vật có
thể chuyển hoán cho hôm nay, bây giờ. Bối cảnh truyện xảy ra năm 1964, năm khởi
đầu của nền đệ nhị Cộng Hoà.(TCHL)
C ánh tay tôi rơi dài bên tôi, tựa tiếng thở sâu từ ngàn năm trước. Tôi thở mơn
man, dịu dàng trên đồi cao cùng người tình xa xứ đáng thương. Tôi thở lười biếng,
hão huyền bên người đàn ông dậy nực phù sa sông Hồng. Tôi thở không thành tiếng
trên triền cát vàng tựa chiếu chỉ vua ban, nghẹn ngào nuốt sâm quý hắc mùi đền đài
Trung Hoa. Tôi thở dồn dập kích động, rên hú thanh quản từng hơi trong căn
phòng Tim. Nước sông Hồng mùa đông cạn ráo. Dầu cho Hồ Tây tràn nước ra đường,
sương mù dăng trắng thành phố. Không khí ẩm ướt đọng thành vũng trong những
ngôi nhà phố cổ. Không ai, không gì biết đến sự tồn tại của tôi. Đồng loã cùng
thân thể mát thơm, uốn dẻo và trái tim hỗn mang của tôi là màu đêm tối.
Tôi xô nó ra nói thôi mà, làm ở trong chùa tội
chết. Nhưng thằng nhỏ giờ phút này còn có biết gì nữa, công an nó còn chưa sợ,
sợ gì tội. Tôi ngó lên bức hình ông Quan Công trên bàn thờ, tôi nói coi chừng
cái ông cầm cây Thanh Long đao kìa. Danh bước đến thổi tắt phụt ngọn đèn dầu.
Trong phòng bỗng tối mực. Danh đã cởi áo tự hồi nào. Nó kéo tôi nằm ngữa ra nền
xi-măng. Bóng tối như đêm làm cho dạn dĩ hơn, không còn mặc cảm tội lỗi nữa,
tôi ôm Danh với tất cả ham mê. Thằng nhỏ tuổi trẻ mà tài cao. Nó làm tình như
giông, như bão.
...Trong hoàn cảnh hiện nay, người làm văn học,
trong hay ngoài nước, đặc biệt là giới trẻ, đang có cơ hội và khả năng tạo một
sinh khí cho xã hội VN, giúp giảm thiểu những phá sản tinh thần đang xẩy ra.
Muốn vậy, rất cần có sự đam mê, học hỏi, và lòng can đảm nói thật, viết thật. Không
có nền văn học có giá trị nào được xây dựng trên sự giả dối và tránh né.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.