Phần IV:
II. VIỆC NGHIÊN CỨU THỜI CẬN ĐẠI (1800-1975):
Giai đoạn trước 1975, việc nghiên cứu sử học đã có nhiều nguồn tư liệu hơn để làm việc. Tài liệu đáng tin cậy nhất, dĩ nhiên, là tài liệu văn khố. Nhiều nhà nghiên cứu sử học chuyên nghiệp đã sử dụng tài liệu văn khố Pháp, Mỹ và Liên Sô. Mới đây, văn khố Hội truyền giáo Hải ngoại cũng đã mở rộng, sau nhiều thập niên "cho người chết ngủ yên." Ngoài ra, người ta có thể sử dụng các báo chí đương thời xuất bản tại Đông Dương, Nga, Trung Quốc, Nhật, hay
A. TÀI LIỆU VĂN KHỐ:
Văn khố có nhiều loại. Chính yếu và quan trọng nhất là những tài liệu do chính quyền thu thập và soạn thảo, được lưu trữ và bảo quản để tiện theo dơi sự thi hành các chính sách hoặc kế hoạch hoạt động thuộc mọi ngành. Đây là những tài liệu cực kỳ quan trọng cho các nhà nghiên cứu. Mỗi cơ quan chính phủ đều có một văn khố. Những tổ chức, hội đoàn có cấu trúc chặt chẽ như Hội Truyền Giáo, nghiệp đoàn hàng hải, v.. v... cũng có văn khố riêng. Mỗi nhân vật tên tuổi cũng vậy. Mặc dù các viên chức hành chính hay quân sự, hay các tác nhân có thẩm quyền, vì những lư do dễ hiểu, đôi khi chủ quan, hoặc vì áp lực thư lại, có thể không viết hết sự thực, nhưng những kẽ hở này có thể loại bỏ hoặc bổ túc bằng các tài liệu khác, theo phương pháp tỉ đối (tức so sánh) và tổng hợp.
Ngoài ra, còn những thủ bút của các tác nhân lịch sử mà tính chất khả tín khó ai có thể bài bác. Hai lá thư xin nhập học trường Thuộc Địa của Nguyễn Tất Thành năm 1911, hay thư Giám mục Ngô Đình Thục gửi Toàn quyền Jean Decoux ngày 21/8/1944 van xin Decoux nghĩ đến công lao hãn mã của Ngô Đình Khả và họ Ngô mà nhẹ tay với Ngô Đình Diệm, Khôi, Nhu, v.. v.. chỉ là vài thí dụ cụ thể. Toàn bộ báo cáo của Giám mục Paul Puginier gửi các viên chức thuộc địa Đông Dương tại Văn khố Hội Truyền giáo Hải ngoại Pháp là một thí dụ khác. Bởi thế, với những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, tư liệu văn khố được xếp loại ưu tiên và khả tín hàng đầu.
Văn khố Việt không được bảo quản cẩn thận. Bởi thế không những một số "Châu Bản" nhà Nguyễn bị mục nát dần, mà ngay tư liệu của các chế độ Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa cũng chịu chung số phận. Những tư liệu của Đảng CSVN, dĩ nhiên, chưa và có thể không bao giờ được giải mật. Thí dụ như những điện tín và văn thư giữa Bắc Kinh và Tuyên Quang-Thái Nguyên trong các chiến dịch Biên Giới (9-10/1950) hay Điện Biên Phủ (1953-1954) vẫn là tài liệu quốc cấm–và, sau hơn nửa thế kỷ, các nhà nghiên cứu mới chỉ có được những "hồi kư" của Trần Canh, Vơ Nguyên Giáp, hay La Quí Ba, v.. v... Đó là chưa nói đến những mật điện và tài liệu về những chuyến đi Nga 1950, 1952, 1954 của Hồ Chí Minh.
Mới đây đã có nỗ lực gửi các chuyên viên Việt ra ngoại quốc học tập thêm về kỹ thuật bảo quản và tổ chức văn khố. Hy vọng sẽ có những tiến triển tốt đẹp hơn. Ngoài ra, theo một học giả Nga, Anatoli Sokolov, văn khố Đảng Cộng Sản Việt
Do tình huống đặc biệt của Việt
Giai đoạn từ 1945 tới 1975 cũng vậy. Quan trọng nhất vẫn là tài liệu văn khố Pháp, Mỹ, Nga, Trung Quốc và Bri-tên. Tuy nhiên, một số tư liệu trong giai đoạn này vẫn chưa giải mật. Cho đến năm 2001, chẳng hạn, văn khố Mỹ mới chỉ mở tới năm 1971. Mặc dù mỗi năm đều có thêm tài liệu giải mật, nhưng có những tài liệu vẫn chưa được tham khảo. Thí dụ như tài liệu về cuộc đảo chính 1963 tại Thư viện John F. Kennedy chưa mở hết,đặc biệt là các công điện và báo cáo của Henry Cabot Lodge. Thư viện Gerald Ford đã giải mật một số hồ sơ về cuộc sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa–như báo cáo của Tướng Frederick Weyand ngày 9/4/1975, một số công điện của chiến dịch Frequent Wind—nhưng trên đại thể chưa đủ để dựng lại một bức tranh toàn diện. Văn khố Pháp thì nhiều tài liệu trong giai đoạn 1945-1954 phải chờ tới năm 2009-2010 hoặc có thể lâu hơn mới được tham khảo. Tài liệu Bộ Ngoại Giao cũng mới mở đến năm 1964. Tư liệu về Trần Đình Lan chỉ giải mật năm 2029! Tài liệu Nga và Trung Cộng, vì được xếp hạng là liên quan đến an ninh quốc gia, hầu như không mở ra cho các học giả ngoại quốc.
Tại Mỹ, ngoài các Văn khố Quốc Gia, Văn khố các Bộ và nha sở, Văn khố các binh chủng, còn văn khố tại các thư viện Tổng thống Mỹ. Đây là nơi tập trung các tư liệu có yếu tố quyết định cho chính sách ngoại giao cũng như nội trị của mỗi Tổng thống. Muốn có được một bộ sử chính xác về chiến tranh Việt Nam, không thể không làm việc tại các văn khố này; đặc biệt là các thư viện Dwight D. Eisenhower, John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson, Richard Nixon, Gerald Ford và Jimmy Carter. Cho tới nay, tôi thường làm việc tại Văn khố Lyndon B. Johnson, trong khuôn viên Đại học
Bất cứ ai muốn tái tạo lịch sử cận đại Việt một cách tương đối trung thực không thể không làm việc tại Thư viện LBJ. Theo sự hiểu biết của tôi, chỉ riêng cựu Đại tá Phạm Văn Liễu, chẳng hạn, đã có hàng chục tư liệu chưa được bạch hóa. Có lẽ chính ông Liễu cũng chẳng rơ lư do khiến ông bị cách chức Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia vào ngày 8/4/1966 (dù mãi tới ngày 21/4/1966 mới được công bố): Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã buộc tội ông Liễu tiếp tay cho cuộc tranh đấu miền Trung của Phật Giáo và Lực Lượng Tranh Thủ Tự Do (3-6/1966) vì một công điện kư tên giả mà ông Liễu chẳng bao giờ nhận được. Lãnh tụ "Baby Turks" Nguyễn Ngọc Loan đã chết, nhưng Tướng Nguyễn Cao Kỳ, cựu Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (1965-1967), có thể giải thích thêm việc này.
Trường hợp hai Tướng Huỳnh Văn Cao và Tôn Thất Đính cũng vậy. Tướng Cao không bị chỉ định mà tình nguyện ra Đà Nẵng thay Tướng Đính làm Tư lệnh Quân đoàn I. Tướng Đính thì có những lời tuyên bố khiến ông phải hối hận, sau này. Riêng Thượng Tọa Thích Trí Quang, giống như tôi đã trình bày trong tập Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967, là nạn nhân của chính ông. Người Mỹ hiểu rằng Thượng Tọa Trí Quang không là Cộng Sản, và cái mũ Cộng Sản đã bị những người Ki-tô cuồng tín–nhất là tàn dư Cần Lao-Nhân Vị của Ngô Đình Nhu-Ngô Đình Cẩn–và ngay cả các cán bộ Cộng Sản, chụp lên đầu ông. Thượng Tọa Trí Quang, qua những tin tình báo nhận được ở Tòa Bạch Cung, có tới ba loại người thù: Cộng Sản, Ki-tô cuồng tín hiếu chiến kiểu Trung Cổ, và phe kiêu binh, đại diện bằng những Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Nguyễn Bảo Trị. Khi chính phủ Johnson, qua đề nghị của nhóm Edward Lansdale và Bill Colby, quyết định cho giới Ki-tô trở lại thống trị chính trường miền Nam từ năm 1967-1968, ngày tàn giấc mộng kê vàng "quốc sư” của Thượng Tọa Trí Quang bắt đầu. Ngay đến Linh mục Hoàng Quỳnh, người chủ trương hòa đồng tôn giáo để chống Cộng, cũng bị nhóm Đại Đoàn Kết của Nguyễn Gia Hiến loại bỏ vì "đã già, mềm yếu với Phật giáo," không còn xứng đáng cầm đầu các ủy ban "hành động" Ki-tô. Tướng Nguyễn Bảo Trị và Ủy viên Thanh niên Vơ Long Triều cũng tự nhận đã ra công vận động giáo dân Ki-tô Hố Nai và Phú Nhuận xuống đường đương đầu với Phật giáo, ngăn chặn không cho Phật giáo thống trị các cơ quan dân cử và chính quyền. Niềm tin tôn giáo đã bị những kẻ tham vọng khai thác làm con đường tiến thân cho riêng họ. Những ai thích tin tưởng ở "thánh chiến" nên ghé văn khố LBJL ở
Đặc biệt có giá trị là những công điện trao đổi giữa Sài Gòn và Oat-shinh-tân trong giai đoạn 1964-1968. Một trong những tài liệu đáng chú ư là "sự hiểu ngầm" của Hà Nội trước khi Tổng thống Johnson tuyên bố ngừng oanh tạc Bắc Việt ngày 1/11/1968. Những báo cáo của Tướng Lansdale về các nhân vật Việt
Các "lãnh tụ" miền Nam, như Bùi Diễm, trong hồi kư In the Jaws of History, Trần Văn Đôn, trong Our Endless War, và Nguyễn Cao Kỳ trong Twenty Years and Twenty Days chẳng thấy đá động gì đến những chi tiết phía sau hậu trường, chỉ thấy khoe mình tài, mình giỏi, mình quân tử. Việc quá nhỏ để nhớ hay nhắc đến trong hồi kư chăng?
Huỳnh Văn Lang, trong hồi kư Nhân Chứng Một Chế Độ (3 tập), và Y sĩ Đặng Văn Sung, qua buổi phỏng vấn riêng của tôi năm 1997, ít tháng trước ngày ông từ trần, tự chứng tỏ lương thiện hơn nhiều người đồng thời. Cả hai đều thú nhận hợp tác chặt chẽ với cơ quan tình báo Mỹ. Và không như nhiều người đóng vai ngụy quân tử, chụp mũ cho người khác là "CIA" hay "Xịa."
Lật dở những trang tài liệu quản thủ kỹ lưỡng, khác hẳn với những hồ sơ dầy bụi thời gian của văn khố Pháp, hơn một lần tôi thoáng nhớ đến những chữ "Moise", "Jacobs" và "giải phóng" trong thư "Petrus Key" gửi "Grand Chef" Jauréguiberry vào cuối tháng 3/1859 (do một linh mục ở Vĩnh Long chuyển) để thúc dục "những sứ giả của Thiên Chúa [Ki-tô]" này xâm lăng Đại Nam cho nhanh; hay, ba chữ "bol de riz" (bát cơm) bảo hộ Pháp của dòng họ Ngô mà Ngô Đình Khôi đã nhờ Ngô Đình Nhu chuyển lời cho Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Paul Arnoux vào tháng 8/1944 trong các văn khố Pháp. (Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, tập III)
Cơ trí, ắt cơ tâm. Những "lãnh tụ" của hạ bán thế kỷ 20 có vẻ khôn ngoan và thông minh hơn những người của thế hệ trước. Những tấm lòng yêu nước ... Pháp và Mỹ mới (ít nữa thì trên đầu môi chót lưỡi) chẳng hiểu nên nhớ hay quên? Đây mới là những "bí ẩn" lịch sử mà người ta cố che đậy, dấu diếm, chẳng khác gì người Cộng Sản cố tình tô lục chuốt hồng cho Hồ Chí Minh ... suốt đoạn đường "cứu nước" và "yêu nước" ... chủ nghĩa xã hội!
Sự khác biệt giữa người học sử chuyên nghiệp và những người thích "bí ẩn" là người học sử cố gắng xuyên suốt những dữ kiện chính xác thành một diễn giải lịch sử khoa học, khách quan tối đa; những người thích công bố "bí ẩn" thường mang tư tâm "xây dựng kỳ đài" hay "đào mộ" nào đó. "Bí ẩn" bởi thế thường chỉ là những câu chuyện bên tách cà-phê, ly ruợu mạnh, hoặc bàn mạt chược, chiếu xóc đĩa, chắn cạ nhằm xuyên tạc, mạ lÿ kẻ thù, xưng tụng, bái lạy chủ cũ bằng thứ lư luận "rẻ rách ... sinh chuột con." (Đáng buồn hơn nữa là dăm ba người có đôi chút học thức chuyên đi ăn cắp công trình nghiên cứu của người khác–nhất là những tài liệu do tôi phát hiện tại các văn khố–in vào "sách" của họ, rồi cao giọng chỉ trích–nhưng chỉ phơi bày rơ ràng hơn sự ngu dốt và điêu ngoa hào nhoáng của loài tinh tinh tân thời).
Đáng tiếc là văn khố LBJL vẫn chưa giải mật một số hồ sơ. Như tài liệu về buổi gặp mặt giữa Tổng thống Johnson và Giáo Hoàng Paul VI ngày 23/12/1967. Tài liệu về vụ bà quả phụ Anna Chennault móc nối Bùi Diễm cùng Nguyễn Văn Kiểu để làm gió cho ứng cử viên Richard Nixon của Đảng Cộng Hòa trong cuộc tranh cử Tổng thống 1968 cũng chưa có tính cách thuyết phục, vì chỉ là những ý kiến riêng của các nhân vật như McGeorge Bundy, Nguyễn Cao Kỳ, Bùi Diễm, v.. v... Hai thư viện Tổng thống khác sẽ lôi cuốn nhiều nhà nghiên cứu trong những năm tới là Thư viện Richard Nixon và thư viện Gerald Ford.
B. BIÊN KHẢO:
Đặc biệt giai đoạn cận đại có nhiều biên khảo bằng Việt ngữ cũng như ngoại ngữ khá giá trị. Những học giả nổi danh về Việt
Vì trước năm 1975, hầu hết tác giả Việt không được sử dụng tài liệu văn khố hay tư liệu nguyên bản, nên thường có tình trạng sao chép giây chuyền lỗi lầm của người đi trước. Trường hợp các Thánh lệnh của Giáo hoàng Ki-tô trong việc phân chia thế giới cho
Ngoài ra, vì ảnh hưởng của chế độ Bảo hộ Pháp cũng như các thế lực bản xứ, các nhà nghiên cứu không được tham khảo các tư liệu bất lợi cho mục tiêu khai hóa của người Pháp (tức biến Việt Nam thành một nguồn cung cấp vật liệu thô và nhân công rẻ tiền, đồng thời cũng là một thị trường đóng kín cho hàng hóa Pháp, và vùng đất để rao giảng đạo Ki-tô Vatican). Bởi vậy, hầu hết sử sách viết về giai đoạn này hiện đang lưu hành–ngoại trừ các bộ quốc sử triều Nguyễn–đều ca ngợi công lao khai hóa của người Pháp. Vài dòng ngắn ngủi của Trương Vĩnh Ký để kết thúc bộ Bài giảng sử An-Nam-Mít [Cours d’histoire annamite] là một thí dụ tiêu biểu.[ Xem bài Petrus Key].
Bởi thế, người ta thấy xuất hiện những loại văn sử không những chỉ sai lầm về dữ kiện mà còn méo mó nguy hiểm về lối giải thích hay lập luận (vì tác giả thuộc giới trung gian bản xứ, hoặc vì không dám làm mất lòng các quan chức bảo hộ cùng những nhà truyền giáo và giáo dân nặng mang tinh thần Trung cổ, nếu không phải với chủ đích cung văn những tác nhân trên). Ngay đến vài sử gia cũng tìm cách tránh đối diện những sự thực gai góc về phong trào trào thực dân Ki-tô/vật bản từ thế kỷ XVI tới thế kỷ XX. Bất cứ ai dám công bố những sự thực lịch sử do mình dày công sưu tầm thì lập tức bị vu cáo có dụng tâm "nói xấu" cá nhân này, tôn giáo nọ, hay "sai lầm." Nên chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy những người như Petrus Key (Trương Vĩnh Ký) hay các công thần của chế độ Bảo hộ Pháp và con cháu họ (như Ngô Đình Khả, Ngô Đình Thục) thanh thản và mạnh bạo gọi những người chống lại chế độ Bảo hộ Pháp là "rebelles" (giặc hay phiến loạn). Giống như sáu trăm năm trước, Lê Tắc đã dùng những thuật ngữ "bản nghịch" (những tên phản loạn) hay "yêu đảng" để gọi hai Bà Trưng, Bà Triệu Ẩu, hay Lư Bí, Dương Thanh, v.. v...
C. BÁO CHÍ:
Các tài liệu báo chí cũng khá phong phú. Từ cuối thế kỷ XIX, báo chí đã lưu hành ở Việt
Qua thế kỷ XX, báo chí được chuyên nghiệp hóa ở cả ba miền. Người nghiên cứu ít nhất phải tham khảo các tờ báo chính như Trung Bắc Tân văn, Nam Phong, Thanh Nghị, Tri Tân ở miền Bắc; Tiếng Dân ở miền Trung; cùng các báo La tribune indigène, La tribune indochinoise, Nam Kỳ Lục Tỉnh, v.. v... ở miền
D. HồI Ký:
Hồi ký là một kho tài liệu khá có giá trị. Hầu hết các viên chức cao cấp Pháp đều viết về những sinh hoạt của họ tại Đông Dương. Tác nhân Việt thì rất ít người viết hồi ký. Mở đầu phong trào này là hai cuốn nói về chuyến đi sứ Pháp và Espania của Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ (1864). Rồi đến Chuyến đi Bắc Kỳ năm 1876 của Petrus Trương Vĩnh Ký, Đi Tây của Phạm Quỳnh. Phạm Duy Khiêm cũng có hai tập hồi ký nói về cuộc phiêu lưu sang Pháp làm thông ngôn cho lính thợ [ONS].
Hai cuộc chiến 1945-1954 và 1959-1975 sản xuất khá dồi dào hồi ký. Đa số nhân vật ngoại quốc (Nhật, Trung Quốc, Pháp, Mỹ, v.. v...) đều viết hồi ký. Nhiều tác nhân Việt cũng có hồi ký, đặc biệt là phe Cộng Sản.
Dĩ nhiên, hồi ký không hoặc chưa là lịch sử. Chỉ là lời chứng trước tòa án lương tâm và dân tộc. Hồi ý Nguyễn Xuân Chữ (1996), hay Một Cơn Gió Bụi của Trần Trọng Kim (1969) là những thí dụ. Tác nhân lịch sử có thể sai lầm, trong khi kể lại các sự việc hay lư luận, nhưng đó là những điều khó tránh. Đa số dùng hồi ký để biện minh tâm trạng mình như Linh mục Cao Văn Luận, qua cuốn Bên Dòng Lịch sử (Sài Gòn: 1984) hay ông Đỗ Mậu với hai tập Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (tái bản năm lần, từ 1987 tới 1993) và Tâm Thư (tái bản một lần).
Huỳnh Văn Lang, qua 5 tập hồi ký về đá gà, đi săn, và hoạt động chính trị cũng rọi sáng vài ba sự thực lịch sử về chính phủ Ngô Đình Diệm (1954-1963) và tâm trạng người trí thức Ki-tô miền
Trong số các hồi ký, tập Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi và Tâm Thư của Tướng Đỗ Mậu là một hiện tượng. Tập VNMLQHT được in lại nhiều lần ở hải ngoại. Ngay nhà xuất bản Công An của CSVN cũng sửa chữa, cắt xén in lại trong nước. Tại hải ngoại, vì vạch trần những sự thực không đẹp của chế độ Ngô Đình Diệm và hàng lãnh đạo Ki-tô, ông Mậu đã bị đả kích một cách tàn nhẫn và thô tục suốt nhiều năm.
Cá nhân tôi cũng bị lôi cuốn vào chốn "giang hồ gió tanh mưa máu." Có kẻ tung tin tôi đã tiếp tay hoặc giúp Tướng Mậu hoàn tất cuốn Tâm Thư của ông, dù chính tôi chưa hề biết mặt ông Mậu, và cũng không hề quen biết ở trong nước. Tôi đã giữ thái độ im lặng, vì chửi bới, vu cáo trên các tờ báo chợ là một thông lệ hơn biệt lệ ở hải ngoại. Tôi cũng quá bận rộn, không có thì giờ. Hơn nữa, theo tôi, sự thực chỉ là sự thực. Những lời chửi bới, vu cáo "rất chợ búa" Tướng Mậu, hay những người có can đảm công bố sự thực về gia đình Ngô Đình Khả-Ngô Đình Diệm (như ông bà Nguyễn Mạnh Quang) cùng những tập đoàn "trung gian bản xứ" khác chắc chắn không thể làm đẹp hơn cho họ. Và chắc chắn không thể làm giảm giá trị của những sự thực đã được công bố. Chẳng ai có thể gói lửa bằng giấy.
Riêng những hồi ký của các tác nhân Cộng Sản cũng không hoàn toàn vô giá trị như một số người muốn chúng ta phải tin và tuân lệnh. Các hồi ký của Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Lê [Trịnh?] Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái, Trần Độ, Phạm Khắc Hoè, Lê Tùng Sơn, Nguyễn Văn Trấn, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Thị Thập, Lê Văn Hiến, Hoàng Văn Hoan–hay hồi ký của những người ngoài đảng như Vũ Đình Hoè, v.. v...– đều có chỗ dụng của chúng, nếu biết loại bỏ những khía cạnh tuyên truyền quá lộ liễu. Với chế độ Cộng Sản, không cần sự thực. Chỉ cần những mảnh vụn sự thực phục vụ cho mục tiêu chính trị giai đoạn. Ngay đến những tài liệu tự ca ngợi mình của Hồ Chí Minh, như Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (ký tên Trần Dân Tiên), hay Vừa đi đường vừa kể chuyện (ký tên T.L.) ít nữa cũng cho người đọc thấy cách vận chuyển của hệ thống tuyên truyền Cộng Sản.
Tôi nhớ đến tiếng "Vẹm" mà dân chúng miền Bắc đã từng sử dụng để gọi tổ chức Việt Minh. Không chỉ có những lời dối trá hào nhoáng, mà còn có những lươi mã tấu sỉn máu để bắt mọi người phải coi những lời dối trá đó là khuôn vàng thước ngọc, phải sủng kính như Thánh kinh.
Với cương vị chủ bút nhà Xuất bản và Phát hành Văn Hóa, tôi đã cùng ông Nguyễn Xuân Phác thực hiện một số cước chú cho bản thảo hồi ký còn dở dang của cụ Nguyễn Xuân Chữ, và góp ý với tất cả những tác giả từng muốn nhờ chúng tôi xuất bản hay phát hành. Tôi cũng từng chia xẻ cho một số tác giả tư liệu văn khố thu thập được trong các chuyến du khảo, với hy vọng giúp người viết cũng như người đọc thấy được những sự thật không thể chối cãi của một số tác nhân lịch sử bấy lâu được tô hồng chuốt lục cho những mục tiêu chính trị giai đoạn nào đó. Tham vọng nhỏ bé của tôi là trả sự thực cho lịch sử. Vì chỉ có sự thực lịch sử mới giúp người Việt thoát được những cơn giông bão triền miên của thế cờ chiến lược quốc tế, cùng những tham vọng ngoại cường. Cá nhân tôi không hề có tham vọng chính trị, trước cũng như sau năm 1975.
Những điều cần làm, đã, đang, và sẽ làm, chỉ hướng về một tương lai tốt đẹp hơn cho đất nước và dân tộc nói riêng, cũng như sự cảm thông của nhân loại nói chung.
III. NGHIÊN CỨU THỜI HIỆN ĐẠI
Việc nghiên cứu thời hiện đại, tức từ 1975 tới nay, vô cùng khó khăn. Các tư liệu thường rất hạn chế, phần lớn dựa theo tin tức tình báo và ngoại giao cùng báo chí.
Tuy nhiên, đôi khi, người nghiên cứu có được những tài liệu cực kỳ quí báu. Cuộc xâm phạm Việt Nam của Hồng quân Trung Quốc năm 1979, và cuộc chiếm đóng Kampuchea của Cộng Sản Việt Nam từ 1978 tới 1989 giúp người nghiên cứu nhiều tư liệu về liên hệ giữa Trung Cộng, Việt Nam và Kampuchea. Trong số những chi tiết đáng kể có việc Quân ủy Trung Cộng cùng các Tướng Trần Canh, Vi Quốc Thanh, v.. v... đã thực sự chỉ huy các trận đánh Cao Bằng-Lạng Sơn (1950) hay chiến dịch Điện Biên Phủ (1954); Chu Ân Lai ép buộc Hồ Chí Minh phải chấp nhận tạm thời chia đôi Việt Nam theo vĩ tuyến 17 tại Hội nghị Geneva (7/1954); hay, tháng 9 năm 1958, Hồ Chí Minh đã sai Phạm Văn Đồng viết thư cho Chu Ân Lai, nhìn nhận lãnh hải do Bắc Kinh công bố để có quân viện đánh chiếm miền Nam.[ Xem Phụ Bản]
Nhưng cho tới năm 2009 này, các sử quan Cộng Sản hay "xã hội chủ nghĩa" vẫn nhất định nhắm mắt lại mà ca ngợi công ơn vĩ đại của những Karl Marx, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, hay Hồ Chí Minh. Các sử quan và văn nghệ sĩ trong nước từng được Trường Chinh Đặng Xuân Khu nhiều hơn một lần dạy bảo rằng văn chương, thơ phú hay sử học phải bám sát và phục vụ mục tiêu chính trị giai đoạn của Đảng Cộng Sản Việt
Chưa một ai, nhưng chắc chắn sẽ có người, làm một cuộc so sánh những văn thư ngoại giao thời Việt
Một triết gia Tây phương từng viết: "Không ai có thể tắm hai lần trong cùng một dòng nước." Nhưng cổ nhân cũng dạy rằng: "Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ." Đại họa của thế nhân thường do không chịu học hỏi những bài học lịch sử. Ai nấy đều muốn quên đi những chuyện buồn dĩ vãng, gìn giữ những niềm vui, nỗi sướng cũ như một túi hành trang. Đáng sợ hơn nữa là có nghĩ rằng mình đã "biết hết rồi!" những điều mà họ thực sự chẳng biết gì cả. Như huyền thoại người Mỹ đưa quân vào miền
Với một dân tộc như dân tộc Việt–một dân tộc kiêu hùng bảo vệ sự sinh tồn của mình bằng máu và nước mắt từ nhiều ngàn năm qua–bài học dĩ vãng luôn luôn là tấm gương soi mặt ngàn năm. Nhờ vậy, dù không so sánh được với các cường quốc, tổ tiên ta đã để lại cho con cháu một giải giang sơn gấm vóc làm vốn liếng. Tàn phá những tư liệu lịch sử, hay không bảo quản đúng mức các kiến trúc cổ thời, các kho văn khố, là tội ác văn hóa khó tha thứ. Nói chi việc nổi lửa thiêu đốt văn hóa phẩm của miền Nam Việt
Một dân tộc thiếu sự lương thiện trí thức hẳn khó thoát cảnh nô lệ ngoại bang.
Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu
Copyrighted 2002, 2009; All Rights Reserved