- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NGUYỄN KHOA ĐIỀM VÀ CHUYẾN NGƯỢC DÒNG VỀ “CÕI LẶNG”

12 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 90846)

coilang_nkdiem-content

Thơ hay không hẳn vì cái áo ngôn từ bay bổng mà hay bởi tính triết lý đằm sâu. “Cõi lặng” [1] của Nguyễn Khoa Điềm là như thế. Lời thơ chân thật, tuôn trào tự nhiên trong từng sát na. Nhưng ẩn bên trong là “động”, cái “động” nhân tình, suy tư, chiêm nghiệm của một chủ thể triết luận sắc sảo. Đón nhận chuyến ngược dòng trở về “Cõi lặng”, người đọc như bị mê hoặc trước một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm.

Một thời gian dài, tính từ tập thơ “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” (1986), Nguyễn Khoa Điềm mới xuất bản tập “Cõi lặng” (2007). “Cõi lặng” được viết trong nguồn cảm hứng trở về, sau cuộc giã từ chính trường, “chia tay với điện thoại bàn, cạc-vi-dit, nắm đấm mi-crô”, sống trong tự do “một mình một ba-lô và xe đạp”. Bây giờ, “gió gọi anh đi” để anh trở lại là “một người trong mọi người”. Vì thế, nỗi niềm, giọng điệu của “Cõi lặng” rất thật. Nó như là những lời tự vấn, tự thú, sám hối của nhà thơ trước cuộc đời. Qua cuộc nói chuyện giữa Thanh Thảo với Nguyễn Khoa Điềm (do Trần Đăng ghi lại), chúng ta mới thấu hết tâm sự của một người khi trở lại với quê hương, với thơ: “Bây giờ cần phải có một dòng “văn học sám hối” ông à. Tôi ủng hộ ông tiếp tục làm thơ theo xu hướng đó, song ông mà dấn thêm điều này nữa thì mới… hoành tráng. Đó là, thi thoảng mình cũng nhớ đến “nắm đấm mi-cơ-rô và điện thoại bàn”, nhớ “giày đen, cà vạt” nữa chớ ông! Có thể ngay thời điểm này thì ông không nhớ đến ba cái thứ lằng nhằng ấy, song một năm nữa chẳng hạn, ông lại nhớ đến nó cho coi! Điều đó cũng bình thường thôi. Và khi ông “nhớ” những thứ ấy mà thành thơ được, ông mới chính là ông. Tôi tin rằng những bài thơ kiểu như thế sẽ rất hay vì nó đẩy con người đến chỗ tận cùng của sự trần trụi. Không sợ hãi và không che đậy” [2].

Ở “Cõi lặng”, người đọc nhận ra được một hình tượng nghệ thuật có dáng dấp con người thực của tác giả - cốt cách của một thi nhân. Những trăn trở từ đáy lòng đều được cởi trói. Người thơ ấy hòa vào mọi người, vào quê hương để soi chiếu gương mặt của mình, đứng trong hiện tại mà chiêm nghiệm, ngẫm suy.

Thơ ca đang đi trên con đường vô hạn của nó. Những cuộc đổi thay đều cần thiết cho gương mặt của nền thơ ca Việt Nam. Tuy nhiên, dù có cách tân, khoác lên nó chiếc áo hậu hiện đại hay là gì gì đi chăng nữa, thơ bao giờ cũng cần tính triết lý. Những đòi hỏi đó không thể chối bỏ và vĩnh cửu. Bàn về vấn đề này, Hồ Thế Hà nhận định: “Chất triết lý trong thi ca, đặc biệt ở những nhà thơ lớn, bên cạnh kiểu tư duy thuận lý, dường như bao giờ cũng thể hiện sự nghịch lý nhưng là sự nghịch lý nằm trong tính toàn thể của nó, bao gồm cả hình thức và nội dung, để cuối cùng người đọc nhận ra một nét riêng, một phong cách đặc biệt từ sự hài hòa này” [3]. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu tính triết lý. Một thứ triết lý đầy bản thể với trách nhiệm và ý thức đích thực của người làm ra nó.

Không cầu kì về hình thức, câu chữ tự nhiên, đời thường, ít thủ thuật phân cắt con chữ, ông hóa giải hình thức thơ ca bằng những đào sâu chiêm nghiệm. Những chiêm nghiệm bắt nguồn từ mạch ngầm kí ức:

Nhà thơ cúi xuống tìm những hạt mồ hôi bỏ quên trên mặt đất

Bao người đã mất, đang còn

Sống âm thầm sau rặng tre khuất lấp

Không một dấu vết

Những mặt ruộng nứt nẻ

(Cánh đồng buổi chiều)

Hành động “cúi xuống” đã nói hết sự trân trọng của nhà thơ đối với những gì “đã mất, đang còn” của thân phận con người. Câu thơ dài, ngắn đan xen như chính từng giọt lòng của ông tan chảy vào đời.

Những chiêm nghiệm trong “Cõi lặng” được hành động hóa để đến và đi từ chốn thực thực hư hư như dòng sông Hương huyền thoại trôi mãi trong tâm khảm con người: 

Anh trôi đi

Không bắt đầu không kết thúc, không bờ bến

Anh mang tự do của nước đến với cuộc đời

Như sông từ hữu hạn đến vô hạn

Để mãi mãi có mặt

Để sống

Bên người

Phải chăng Sông Hương?

(Sông Hương)

“Trôi” ngỡ hồ nhẹ nhưng không nhẹ vì cái đích của nó là không cùng. Nhà thơ “trôi” với tư thế rất riêng: “Anh nằm cong như một con thuyền neo bên sông”. Tư thế trở trăn của một tâm hồn “Thơ ta, ta gửi đến bao người” dù đã “hăm hở đôi vai tuổi tác” nhưng vẫn “Bằng bước chân chậm rãi/ Nhà thơ lặng lẽ nối gót người nông dân đi mãi” để “quẫy đạp một hành trình mới”: “Cả người nằm trong đất, cả người đang đi trên đường/ Chúng ta nhìn đời bằng ánh mắt ngay thẳng/ Bởi chúng ta là người chiến thắng”. Một hành động, một tư thế, một hành trình vô tận... như thế rất thiết thực cho thơ và cho cả người thơ. Ngay trong cơn buồn đau, hư tàn, với Nguyễn Khoa Điềm vẫn là hy vọng:: “Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành/ Nỗi buồn đánh thức hy vọng” (Hy vọng). Nơi tàn nhẫn nhất, buồn nhất lại là “cõi lặng” để cọ xiết lòng mình trước âm ba cuộc sống.

Nhà thơ xem cuộc trở về này là một “định vị”. Mà quả đúng thế! Một người quả quyết “hút tâm trí đường bơi những con bống cát” “đi mãi vào cánh đồng buổi chiều”, chỉ còn lại “anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ” để khoáng đạt cõi tâm mình: “Giấc mơ xưa dù bao dâu bể/ Bên thềm xuân còn một nhành mai”. Cho nên, những hình ảnh con sông quê hương, cây long não nhà bạn, cánh đồng làng, cố nhân... trong thơ ông đều chứa chất tâm sự. Khi bạn lục đục vào nấu ăn, một mình nhà thơ với cây long não cũng trở thành câu chuyện cuộc đời: “Cây long não già mà lá trẻ/ Như ta giữa cuộc đời này.../ Năm tháng bên nhau/ Nhận lấy phần bụi bặm/ Trả ta hương lành/ Và một chút gì sâu xa/ Không rõ nữa” (Ngồi với cây long não nhà bạn).

Như vậy, kí ức trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là kí ức-hành động chứ không phải là kí ức-dĩ vãng. Nguyễn Khoa Điềm viết “Cõi lặng” nhưng đâu phải là chốn nhàn hạ, trốn mình mà là chốn sôi động của tâm hồn. Về với “cõi lặng” để giao cảm giữa mình và đời, để khẳng định bản lĩnh và nhân cách của một thi sĩ. Nên, chuyến về này là “chuyến về” để tiếp nối lộ trình con người:

Anh gọi đó là chuyến về không hạn định

Để là một người trong mọi người

Anh tham dự trận tấn công cuối cùng

Vào cái chết

Hãy lộn ngược da anh

Và ghi lên đó mật khẩu:

- Không lùi bước!

(Bây giờ là lúc...)

Dù: “Mắt mũi ngày càng kém/ Chữ nghĩa rậm rịt điều cao xa/ Bao giờ, nơi nào, anh đọc được mình/ Qua nỗi đau nhân loại?” (Những quyển sách), nhà thơ vẫn không ngừng tiếp bước. Đấy là sự thiết lập tương hỗ giữa nhà thơ với cuộc thế. Người đọc có thể chưa hào hứng với tính “vô tư” câu chữ của “Cõi lặng” nhưng lại bị lôi kéo bởi lớp trầm tích trong đó. Những hình ảnh, con người đời thường, những chớp nhoáng của nỗi nhớ, của sự luyến tiếc pha chút ân hận... lôi kéo, đầy ma mị.

Những cảm hứng thế sự được nhìn nhận qua lời thơ thầm ẩn như “mùi thơm lúa khoai thân thuộc” mà lại tái tê, se thắt. Ông nhận ra mồ hôi quá rẻ rúng trước cuộc sống đầy cạm bẫy và rỗng rênh:

Hung bạo trên mạng, trên sàn diễn, trong lớp học

Hung bạo giữa bàn nhậu, cửa sau công sở, hung bạo đường phố

Hung bạo văn chương, tố giác nặc danh

Lạng lách thời thượng và sành điệu

(Nghe tin hai nhà khoa học bị tai nạn xe máy)

Sự sống được liệt kê, bày ra hết thảy. Trong cuộc sống hỗn độn ấy, mạnh yếu trở thành hý trường:

Những kẻ mạnh luôn đánh thắng

Những kẻ yếu luôn đổ máu?

Kẻ mạnh chiếm đa số trong nghị viện

Kẻ yếu bị rượt đuổi trên đường phố?

...

Kẻ mạnh ném bom ở Afghanistan, Irak

Kẻ yếu gom từng chút tự do gãy nát

Thế kỷ 21

Phải chăng thế kỷ của kẻ mạnh?

Theo Bakhtin, bản chất của thơ ca là bày biện thế giới nội tâm của người nghệ sĩ. Tuy nhiên, hình tượng nhân vật trữ tình và tác giả đời thực dù có giống nhau nhưng không hoàn toàn trùng khít. Hình tượng nhân vật trữ tình luôn bị chi phối và kiểm soát bởi ý thức của tác giả. Bởi vậy, “Cõi lặng” ấy đâu chỉ dành cho riêng ông mà nó còn dành cho người đọc. Những sát na cõi lặng vô cùng quý giá. Cõi lặng giúp con người chiến đấu với chính mình: “Để mình còn là mình/ Mình là sự sống” (Sự sống).

Sự tự thể hiện suy ngẫm của mình ở “Cõi lặng” đưa thơ Nguyễn Khoa Điềm đến cách thể hiện trực diện. Ông đã nhìn uyên thâm đằng sau bức màn nhung của chính trường sự thực đầy những quằn quại về thân phận nhân sinh. Sự trở về của một cái tâm sáng, một người mạnh mẽ “Chào anh công chức rời những tờ giấy nặng” để làm mới cuộc đời mình:

Rồi con nhớ lại trong đời con cũng đã từng đứt bữa

Cũng đã từng lấy cơm chấm cơm

Mỗi hạt cơm cõng một củ sắn, củ khoai hoặc chỉ là rau dại

Lúc đó mỗi hạt cơm trong miệng con thật ngọt bùi, thơm thảo

Con không cần ăn đến sơn hào hải vị

Để biết đến vị ngon có thể có trong đời

Chỉ cần trong một sát-na con biết lắng mình vào cuộc sống

Một hạt cơm là cả cuộc đời”

(Tập Thiền)

Thiền như cái gương vô hình của cuộc sống. Điều cơ bản là người ta ngộ được chân lý Thiền. Hướng đến cõi thiền là hướng đến sự thánh thiện tâm. Tâm giác ngộ thiền. Thiền làm tâm sáng. Ngay trong bữa cơm, Nguyễn Khoa Điềm nhận ra chân lý thiền. Đó là sự giác ngộ của một tâm hồn đau đáu với cuộc sống nhân sinh khi soi vào cái mơ hồ - “cõi lặng” - chốn sâu nhất của bản ngã để tìm gương mặt mình: “Anh soi thấy mặt mình/ Với nỗi buồn trong sạch” (Cõi lặng).

Mỗi bài thơ là một trải nghiệm. 56 bài thơ trong “Cõi lặng” là 56 nỗi niềm. Những nỗi niềm ấy gom lại kết nên một hồn thơ ưu tư, trăn trở. Sự trăn trở ấy cuồn cuộn khi đón nhận hạnh phúc ngay chính cuộc đời trụi trần này. Nó đã làm nên linh hồn, sức nặng của tập thơ: “Tôi đi mãi vào sớm xuân/ Làm một người trắng nợ/ Thong dong mà mới mẻ/ Cầm tay và giã từ...” (Thành phố, sớm xuân...). 

Đồng Hới, ngày 10-1-2011

H.T.A


-----------------

[1]. Nguyễn Khoa Điềm, Cõi lặng, NXB Văn học, 2007.

[2]. Trần Đăng, Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: "Bây giờ gió gọi anh đi", http://www.baobinhdinh.com.vn/.

[3]. Hồ Thế Hà, Những khoảnh khắc đồng hiện (tiểu luận-phê bình), NXB Văn học, 2007, tr 33-34.




Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Tư 20244:07 CH(Xem: 324)
On the evening of December 21, 1946, the Bach Mai radio resumed its operations somewhere in the province of Ha Dong after a day of silence. One of its broadcasts was Ho Chi Minh’s appeal to the Viets for a war of resistance. He reportedly said: The gang of French colonialists is aiming to reconquer our country. The hour is grave. Let us stand up and unify ourselves, regardless of ideologies, ethnicities [or] religions. You should fight by all means at your disposal. You have to fight with your guns, your pickaxes, your shovels [or] your sticks. You have to save the independence and territorial integrity of our country. The final victory will be ours. Long live independent and indivisible Viet Nam. Long live democracy.
08 Tháng Ba 202411:17 SA(Xem: 2666)
The fact that Ho Chi Minh proclaimed Vietnamese independence and the formation of the Democratic Republic of Viet Nam [DRVN] on September 2, 1945 did not assure its international recognition. The French—reactionaries and progressive alike— adamantly insisted on the reintegration of Indochina into the French Empire, by force if necessary. Other great powers, for various reasons, independently supported the French reconquest.
23 Tháng Mười 20237:38 CH(Xem: 5581)
Even prior to the termination of the war in Europe in the summer of 1945, the United States and the Soviet Union stood out as the leading Great Powers. The United States emerged as the most powerful and richest nation, envied by the rest of the world due to its economic strength, technological and military power. Meanwhile, the Soviet Union surprised all world strategists with its military might. Despite its heavy losses incurred during the German invasion—1,700 towns and 70,000 villages reportedly destroyed, twenty million lives lost, including 600,000 who starved to death in Leningrad alone, and twenty-five million homeless families—after 1942 the Red Army convincingly destroyed German forces and steadily moved toward Berlin.
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 6554)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 59866)
R ồi đến cuộc sụp đổ của miền Nam mùa Xuân 1975 và nhiệm kỳ Tổng thống vừa tròn 40 tiếng đồng hồ của Tướng Minh. Lệnh buông súng đầu hàng của Tướng Minh sáng ngày 30/4/1975 khiến nhiều người, vốn chẳng biết nhiều về những diễn biến tại hậu trường sân khấu chính trị, trút mọi trách nhiệm việc “ mất nước ” (sic) lên đầu ông “ hàng Tướng ” này. [Những lời thở than, khóc lóc “ mất nước ” cũng chẳng khác gì việc đồng hoá một chế độ chính trị với “ Tổ Quốc ” trên trình độ hiểu biết chữ Việt!]
15 Tháng Tư 202410:16 SA(Xem: 471)
Vòng Tay Học Trò là tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa năm 1964. Tác phẩm được công chúng nồng nhiệt đón nhận và theo đó cũng hứng nhiều luồng ý kiến khác nhau, càng làm cho tác phẩm nổi tiếng hơn. Chính vì vậy, từ khi xuất hiện, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận trong giới chuyên môn và công chúng độc giả, Hàng chục năm sau, lúc chúng tôi còn nhỏ, chưa đọc tác phẩm đã thuộc tựa đề vì Vòng Tay Học Trò gắn liền với tên tuổi tác giả. Nói đến Nguyễn Thị Hoàng người ta nhớ đến Vòng Tay Học Trò.
15 Tháng Tư 202410:12 SA(Xem: 891)
đời đã một lần ta có nhau / thời gian sương trắng nhạt phai màu / tóc xanh ngày mộng nào xa ngái / rồi bỗng chìm quên trong mắt sâu
15 Tháng Tư 202410:04 SA(Xem: 857)
Cạn đêm vàng võ mảnh sầu Bạc vương nhánh tóc áo nhàu dung nhan Còn chăng ta với nồng nàn? Đếm xanh xuân rụng vơi tan cuộc người
15 Tháng Tư 20249:48 SA(Xem: 845)
Sài gòn buổi sáng ngồi một mình Cây cao đường vắng phố lặng thinh Người phu quét lá gom từng lá Chiếc lá vàng khô hết nhục vinh
15 Tháng Tư 20248:23 SA(Xem: 775)
Thế nào gọi là tiểu-thuyết-mới (Nouveau Roman). Đó là câu hỏi của những người chuyên viết về tiểu thuyết và những người thường đọc tiểu thuyết. Giữa hậu bán thế kỷ XX; một phong trào văn chương thuộc thế hệ trẻ Pháp như Alain Robbe-Grillet, Michel Butor, Claud Simon, Jacque Derrida, Nathalie Sarraute, Pierre Bourdier…được tung ra giữa “thị trường” văn học thời ấy vào đầu thập niên 1962,cái gọi là Tiểu-Thuyết-Mới, lập tức phong trào nầy được khám phá ngay, không những ở Pháp mà ngay một vài nước khác trên thế giới,Việt Nam ta cũng chịu ảnh hưởng phong trào thời thượng lúc đó, kể cả bộ môn nghệ thuật khác, tuy không rực rở nhưng đã hội nhập được với trào lưu thời bấy giờ…