- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

ĐI

22 Tháng Ba 201112:00 SA(Xem: 107401)


tranmongtu_di

Bà nội Adora vừa đứng làm những chiếc bánh tamale vừa lắng tai nghe mấy người đàn ông đang chụm đầu vào nhau bàn bạc ở góc nhà. Cái bàn bé xíu mà có đến sáu người lớn nhỏ chen chúc. Trong đó có Camilo, con trai bà và thằng cháu nội mới 16 tuổi, thằng Edmundo. Bà vừa trải những mảnh lá bắp khô ra mặt bếp, tay cho chút bột ngô, mấy miếng mỡ vào, nhưng mắt vẫn thỉnh thoảng lại liếc về phía họ. Buổi trưa nắng gắt, táp vào căn bếp hướng tây chói chang nơi bà đang đứng nấu nướng, làm bà cứ thỉnh thoảng lại phải lấy tay dụi mắt, nước mắt bà cứ ứa ra vì mặt trời tra vào những giọt nóng bỏng.

Tiếng sóng biển ở một nơi thật xa nào đó bắt đầu đổ ầm ầm trong đầu bà, cái đầu đã xơ xác trắng phau, càng lúc tiếng sóng càng rõ hơn. Căn nhà này ở thật xa biển, nhưng sao sóng lại dội vào đến đây? Có phải cái tên biển được mang ra nói tới mỗi lẩn tụ họp đã mang theo cả sóng vào căn nhà này. Căn nhà bà và con trai, cháu nội đang cư ngụ do những người công giáo trong một họ đạo ở Mỹ (*)sang xây cho hai năm nay. Mỗi năm, những người đàn ông tốt bụng này, họ đã sang tận đây. Nhóm đổ nền xong, đi, nhóm kế tiếp lợp mái, đến. Họ tự bỏ tiền túi ra mua vé máy bay, bay sang, mua vật liệu về xây cất, họ thay phiên nhau cùng với người chủ gia đình làm cho xong ngôi nhà trong một mùa hè. Rồi họ lại tiếp tục làm cái khác vào mùa hè năm tới. Cái nước Mỹ là nước gì mà lòng tốt như biển và tiền bạc nhiều đến thế! Trách chi ai cũng muốn bỏ xứ sở mình đến đó.

Con dâu bà, ba năm trước đây nó đã bỏ đi, nó đi không tới nơi cũng không quay về. Bà nghe nói nó chết khi chưa ra khỏi một cái đường cống nào đó. Bà nhìn con trai, nhìn cháu nội, khóc hết nước mắt. Nhất định không bao giờ cho hai người này xa bà một bước nữa.

Nhưng thời gian lau khô những giọt nước mắt và hao mòn trí nhớ. Cả mấy tháng nay, người con trai duy nhất của bà lại bắt đầu toan tính một chuyện rất hệ trọng. Bắt đầu anh ta giấu bà, nhưng không giấu mãi được, vì chuyện hệ trọng đó còn dính đến thằng cháu nội cũng duy nhất của bà. Cuối cùng bà biết : hai cha con nó đang tìm đường đi sang cái xứ sở bờ sôi giếng mật đó. Hình như họ sẽ bơi trong sóng nước mà đi.

Họ nói hai cha con sẽ đi, đi đến một chỗ không thể mang bà theo được. Bà biết chỗ đó là đâu rồi. Bà biết bà có cản cũng không cản được. Ba năm đã trôi qua, họ đã quên cái bất hạnh đã xẩy ra cho vợ và cho người mẹ họ, họ nghĩ tới một nơi chốn ấm no, đầy đủ hơn nơi này.

Bà đặt cái đĩa có mấy cái bánh tamale còn bốc khói trước mặt mấy người đàn ông. Tiếng thì thầm im bặt, họ ngước mắt nhìn bà. Edmundo nhìn thấy hai mắt bà nội đỏ hoe vì nấu ăn. Camilo không dám nhìn mẹ lâu, anh cúi xuống nhìn mấy chiếc bánh đang bốc hơi, anh biết những giọt lệ của mẹ đã nhỏ xuống những chiếc bánh này, và chốc nữa anh sẽ nuốt hết vào trong bụng mình.

 

Họ đã lặn ở một chiều sâu nhất mà họ có thể làm được. Họ không nói gì được với nhau. Người cha bao giờ cũng bám sát cạnh con, cái khoảng cách giữa hai người trước sau chỉ dài bằng đúng một chiều dài của người cha. Ông vừa lặn vừa nghĩ, một là cả hai cha con cùng thoát, hai là một mình nó thoát. Nhất định không phải chỉ một mình ta. Nó còn trẻ, nó cần sống hơn mình. Người con bám sát cha,nó nghĩ cha có thể yếu sức chịu đựng hơn nó, mặc dù cha bơi lặn rất giỏi. Nó nhẩm lại số điện thoại, địa chỉ, tên của những người sẽ đến đón cha con nó, để ngộ nhỡ lạc mất cha và họ không đến kịp nó còn biết cách đi tìm sau này. Edmundo đã học thuộc lòng và nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần với cha, trước khi hai người trầm mình xuống nước. Nó nhớ khi nó mười ba, mẹ cũng tìm đường đi, nhưng mẹ không đến được nơi đó, mẹ cũng chẳng thể quay về. Người ta nói, một nhóm mười người, chỉ có hai người chui ra được khỏi đường cống đó, tám người còn lại bị động, không ra được, nước cống lên cao, lương khô mang theo hết. Họ chết vì đói hay vì chìm trong nước, không ai biết rõ. Hai người đi thoát, biên thư về, kể lại chỉ có vài câu giản dị: “Chết trong đường cống”, thế thôi. Rồi nhóm khác lại tiếp tục đi, có người thoát, có người bị bắt, gửi trả lại biên giới, có người chết trước khi bị phát giác. Họ được phía bên kia xứ sở đặt tên cho là “Wet Backs” Những Cái Lưng Ướt.

Camelo thỉnh thoảng lại quay đẩu lại nhìn con, ông không nhớ là đã ở bao lâu dưới nước, nhưng ông biết là không lâu lắm, chặng biển này không dài, cái ranh giới hải phận này ông đã thuộc lòng từng khúc và trước khi hai cha con lặn xuống họ đã biết lúc nào thì cần ngoi lên. Chỉ sợ lúc ngoi lên gặp ngay trực thăng tuần duyên của bên kia biển đang hoạt động. Giữa hai cha con ông thỉnh thoảng lại có bầy cá len vào giữa, những con cá nước mặn đầy mầu sắc, đôi khi một mảng rong vướng vào chân họ. Họ chẳng có tâm trí đâu mà nhìn ngắm. Edmundo nghĩ đến mẹ, sao mẹ không còn sống để cùng đi với cha và mình. Nó nghĩ mình sắp đến nơi rồi, sắp vào được vùng biển mà bao nhiêu thằng bạn mình ao ước.Nó lại nghĩ đến bà nội, bà nội lúc nào cũng làm bánh, lúc nào cũng hầm đậu với mỡ heo cho cha con nó. Tội nghiệp bà nội ở nhà một mình, rồi ai nuôi bà, làm sao bà có tiền mua đậu, mà dù có tiền mua đậu cũng đâu có ai ăn với bà. Ngôi nhà mấy người Mỹ làm phước, sang tận quê nó xây cho, có mái và bốn bức tường tốt, nhưng trong nhà trống trơn, bàn ghế lỏng chỏng, cái long chân, cái tuột đinh. Nó tự nói với mình là sẽ đi làm, sẽ gửi tiền về cho bà nội sắm đồ đạc tốt. Mà làm gì nhỉ? Khi bà chỉ còn mỗi một mình. Thì nó sẽ lớn hơn, sẽ có tiền, sẽ về thăm bà. Bà già rồi, nó biết, nhưng bà sẽ đợi nó mang tiền về. Nó tin như thế. Mấy người đi trước, thoát được, gửi tiền về ầm ầm, họ chuyên làm cắt cỏ, rửa chén ở những tiệm ăn, lau chùi chợ, khuân vác hàng. Dễ ợt, nó khỏe lắm, việc gì cũng làm được hết.

Cha nó chậm lại một chút, ngoái đầu nhìn nó, chỉ một bàn tay lên cao, nó biết là sắp đến chỗ ngoi lên. Nó bơi rướn lên song song với cha, hai cha con nhô đầu lên khỏi mặt nước, nghe ngóng. Biển vắng, không có bóng người, nơi đây không phải là bãi tắm đông đúc. Mùa đông, mặt trời lặn sớm, gió se lạnh, cả không gian có mầu xanh xám, nhưng sóng vỗ nhẹ, yên ắng. Họ vẫn ngâm mình dưới nước, chỉ có hai cái đầu tròn như hai cái nồi xoay qua xoay lại nghe ngóng.

Camelo nói với con:

- Khi mình lên khỏi nước, con không đứng thẳng, con lăn tròn và giấu mình trong cát, thật nhanh, thật kín, nhớ chưa?

- Con nhớ.

Đúng, Edmundo đã thực tập rất nhiều lần ở bãi biển phía quê mìnhvới đám bạn. Nó nghĩ nó làm được.

Hai cha con cùng ngước mặt lên trời một lúc, cùng nghiêng tai lắng nghe những tiếng động trên không. Tất cả vẫn im ắng. Camelo nói khẽ nhưng đủ rõ cho cả hai cha con nghe: “Vào bờ” Tiếng kêu bật lên như tiếng lò xo của một cánh cửa, như tiếng hô của một người lính ra trận. Hai cha con đứng thẳng lên như hai con cá heo trên mặt nước, chạy, rồi lăn ngay khi chân họ chạm vào bờ cát. Cả hai quay tròn , vừa quay vừa trũi mình vào cát. Bỗng ngay trong tích tắc của những vòng quay lăn tròn đó, họ nghe thấy tiếng cánh của trực thăng đảo qua đảo lại trên đầu họ, rồi bay mất hút vào một góc mây thấp nào đó. Chúng hiện ra thật nhanh và bay đi thật nhanh.

Camelo chưa kịp định thần, anh không biết mấy chiếc trực thăng đó từ đâu xuất hiện thình lình như vậy và chúng cũng biến mất chưa đầy năm phút. Anh bảo con:

-Cứ nằm im, chúng ta sắp có người đến đón rồi. Chúng ta đúng hẹn lắm.

Những người đến bới cát lôi hai cha con anh ra không phải là những người cùng xứ, không phải những người hai cha con mong đợi. Đó là những người lính canh giữ vùng biển nước Mỹ. Cha con anh được đưa vào trạm an ninh biên giới hải phận và điền tên vào giấy nhập cư bất hợp pháp. Họ sẽ gửi cha con anh trở về biên giới Mễ bằng đường bộ ngay chuyến xe đầu tiên ngày mai.

 

Bà nội Adora đứng ở trong căn bếp quay về hướng tây. Mắt đăm đăm nhìn ra con hẻm đầy nắng, mặt trời tra những giọt đỏ quạch vào mắt bà. Bà hình dung lại hai cái lưng của hai người đàn ông một già, một trẻ đó, khi họ quay lại phía bà, bỏ đi. Bà đứng đó hai hôm rồi, chờ nghe một người nào đó đến báo cho bà biết con và cháu bà đã đến được nơi chốn họ muốn đến.

Dưới ánh nắng gắt của mặt trời giữa ngày, hai người đàn ông đó đang thất thểu tiến về căn nhà, trên thân thể họ còn nguyên bộ quần áo lặn, nhưng chúng vẫn khô queo như chưa hề được dìm trong nước.

Con và cháu bà trở về với hai chiếc “Lưng khô”.

 

Trần Mộng Tú

3/2011

*Wet back” là danh từ gọi những người Mễ trốn sang Mỹ bằng các đường cống.

 - Nhà thờ Công Giáo St. Louise ở Bellevue,WA có chương trình sang Mễ hàng năm xây nhà cho người nghèo ở Tijuana

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 35038)
LTS: Một năm rưỡi trước khi từ trần, tướng Trần Độ đã hoàn thành một tập nhật ký mà ông đặt tên là Nhật Ký Rồng Rắn: bắt đầu từ cuối năm 2000, viết xong tháng 5 năm 2001. Nhật ký Rồng Rắn là một bút ký chính trị trong đó, với tất cả tâm huyết, tác giả trình bày suy nghĩ của mình về các vấn đề chính trị của đất nước. Tháng 6.2001, Trần Độ vào Sàigòn thăm con và nhờ người đánh máy bản thảo. Ngày 10.6, ông đi lấy bản thảo, bản vi tính và sao chụp thành 15 bản. Trên đường về nhà, ông bị tịch thu toàn bộ các bản thảo và bản in chụp, xem là "tang chứng" của tội "viết và lưu hành tài liệu xấu". Cho đến ngày từ trần 9.8.2002, tướng Trần Độ không được trả lại nhật ký của mình. Trích đoạn dưới đây là một phần của nhật ký này. {theo tạp chí Diễn Đàn}.
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 34187)
Đ ại văn hào Gabriel Garcia Márquez, tác giả cuốn tiểu thuyết danh tiếng “One Hundred Years of Solitude” và là người đã đoạt giải Văn Chương Nobel năm 1982, đã qua đời ngày 17 tháng 4 vừa qua, hưởng thọ 87 tuổi.
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 32725)
K hi em vừa lên 7 tuổi, anh Hai anh Ba tròn 15 tuổi, nghề trầu cau Nam Phổ hầu như suy tàn, đã qua thời kỳ cực thịnh. Vườn cau xưa san sát nhau vắt vẻo nhìn trời xanh đã thưa thớt, hàng cau già khẳng khiu trong gió. Cảnh thương lái thu mua tấp nập vào mùa cau rộ chỉ còn lại trong những câu chuyện kể chen lẫn tiếng chắt lưỡi thở dài như thạch sùng đeo dính thân cau của vú Mười hàng đêm.
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 30668)
Đ ặng Mỹ Hạnh là một nữ nhiếp ảnh gia của những “Xứ sở rừng mưa” như tựa một bút ký của cô. Nếu nhiếp ảnh là đam mê chính, văn chương là đam mê thứ nhì mà cô tự định nghĩa: "Tiếp cận với nghệ thuật bằng ngữ ảnh của cảm xúc và viết ra cõi lặng bên trong như một nhu cầu thở." Một cõi lặng đôi khi ngấm ngầm dữ dội, như tùy bút "Những cơn man dại của trái phá".
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 31789)
D ưới đây là bài “Nguyễn Hữu Hồng Minh - Nhà thơ hiện nay như con sói trụi lông...” của "Văn Chương Việt" phỏng vấn nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh. Chúng tôi xin phép được đăng lại để gởi đến quí bạn đọc của Hợp Lưu. Xin chân thành cảm ơn “Văn Chương Việt”TCHL
17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37717)
Nhân viên mai táng đến thật đúng giờ khiến María Dos Prazerès, còn khoác áo choàng tắm và đầu gắn các kẹp tóc, chỉ kịp giắt một đoá hồng đỏ lên vành tai để không xuất hiện quá ít quyến rũ như bà đang ấn tượng về chính mình.
16 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 35824)
Đ êm đọc những bài thơ của em Quả thật không sao giấu được nụ cười Vài ý nghĩ muốn làm một tuyển tập Gồm những bài thơ cứt thời gian
16 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33494)
D ưới đây là bài “Trần Vũ: mỗi con người trưởng thành mang trong mình một tín ngưỡng văn chương” của Da Màu phỏng vấn nhà văn Trần Vũ. Chúng tôi xin phép được đăng lại để gởi đến quí bạn đọc của Hợp Lưu. Xin chân thành cảm ơn “Da Màu.” TCHL
16 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 33514)
A nh giới thiệu với tôi tên cô nhưng không nói cô là gì của anh, một cách ngầm bảo tôi hiểu thế nào cũng được, cô có thể là tình nhân mà cũng có thể là em họ xa (chẳng hạn). Anh cũng nói thêm cô sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, chuyến này sang Mĩ du lịch và định ở lại chơi chừng hai tháng. Cô đẹp, dĩ nhiên—tôi chưa thấy anh đi với người đàn bà không nhan sắc bao giờ—nhưng không còn trẻ nữa. Tuy thế thật khó đoán tuổi cô, có thể ngoài ba mươi, có thể hơn. Cô ít nói. Hình như cô chẳng để tâm gì đến câu chuyện giữa tôi và Quang mà chỉ ngồi trầm tư uống cà phê, phóng tia mắt ra ngoài khơi, nơi có những cánh buồn trắng dật dờ trên mặt biển như đang trôi về nơi vô định.
16 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 30824)
C on hẻm vắng người lạ kỳ dẫn cô vào một cửa tiệm u tối, ngoài cửa kính màu sắc thế kỷ thứ 18 chỉ treo vỏn vẹn một biển hiệu xộc xệch và bức tranh chân dung sỉn màu. Cô ghé lại gần nhìn kỹ và choáng váng; chân dung của chính cô, lệch lạc, méo mó nhưng đúng là đường nét Á đông của đôi mắt 1 mí cách xa nhau, sóng mũi thấp, gò má tròn dẹt và đôi môi hơi cong hai bên khóe.