- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Tiếng kèn lá trên đỉnh Mã Pì Lèng

18 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 98837)


vxtuu_hl109



Tôi lên Mã Pì Lèng dạy học.
Từ dưới chân núi, tôi cứ nhằm theo chòm bản thấp thoáng trong mỏm đá, tán cây mà leo lên. Trời nóng như đốt nương, vượt dốc, cổ họng khô rát, tưởng như mồ hôi đã cạn kiệt không thể chảy ra được nữa, thì bất chợt gặp một dòng nước từ trên núi chảy xuống, tràn qua cả mặt đường đá. Tôi hồ hởi phanh ngực áo, bỏ ca-táp, cởi dép rọ, đứng một lúc cho mát dịu lại, rồi mới thong thả rửa tay, rửa chân, xúc miệng ba lần, uống một ngụm, xong rồi mới lau mình, gội đầu... Các anh đã công tác ở vùng cao lâu năm, truyền cho tôi một kinh nghiệm là chớ có vồ vập thái quá, phải biết điềm nhiên. Người miền núi ai cũng thâm trầm, điềm đạm. Vả lại, đang nắng nóng mà lao xuống nước là dễ bị cảm nhập tâm như chơi.
Bản trên đỉnh núi, đi theo đường ngựa thì đỡ dốc, nhưng không biết bao giờ mới lên đến nơi. Thế là sẵn có dây thép to như ngón tay, lõng thõng bên vách núi, tôi liền đu người leo lên. Đây là những sợi dây an toàn của công nhân mở đường qua Mã Pì Lèng, qua mấy chục năm rồi, mà đến nay vẫn còn quấn chặt trên vách ta-luy dương.
Vừa leo tắt lên lưng chừng núi, tôi sững sờ khi nhìn thấy một cô gái người Mông Trắng, đẹp như tiên sa, đang lom khom đứng giặt giũ bên khe nước. Cô gái cũng giật mình hoảng sợ, khi đột nhiên nhìn thấy tôi như từ khe đá chui ra. Tôi định thần, vội nở nụ cười cầu thân:
- Giặt à?
Cô gái không nói gì, lại lặng lẽ giặt giũ. Tôi bèn ngồi nghỉ bên gốc cây cổ thụ cạnh khe nước. Bàn tay rộp máu và đầy gỉ sắt. Tôi thò tay xuống nước, xót ứa nước mắt, rồi thõng hai bàn tay trên đầu gối cho khô và lơ đãng ngắm nhìn mây trời đang từ đỉnh Mã Pì Lèng, bay sang bên kia biên giới. Cô gái Mông thì vẫn loay hoay với cái chậu gỗ tròn, đựng đầy nước tro bếp, ngâm cái váy vải lanh trắng rộng cỡ mười hai vuông. Trong cái quẩy tấu cạnh đó, còn vắt ngổn ngang mấy bộ quần áo tà pủ. Thôi chết, không khéo ban nãy mình gội đầu, rửa mặt và uống dòng nước này. Thảo nào... Tôi oẹ khan một cái. Cô gái giật mình quay lại, nhìn tôi trân trân. Tôi ngượng ngùng vội đứng dậy, lặng lẽ lên núi.

*
Tôi dạy lớp ghép. Lớp của tôi có hơn chục đứa trẻ. Chúng học rải rác ở tất cả các lớp của cấp một, nhưng ngồi chung một phòng học, gồm có sáu bộ bàn ghế. Đứa bé nào đến tuổi đi học thì được miễn học phí, được cấp sách vở, bút mực. Đứa nào bỏ học thì bị phạt. Con trai bỏ học bị phạt bảy quẩy tấu ngô, con gái bỏ học bị phạt chín quẩy tấu ngô.
Buổi sáng, khi sương tan là tôi lên lớp. Một cái bảng đen nứt nẻ, tôi dùng phấn trắng thạch cao kẻ bốn cột cho bốn lớp. Trên góc bảng, tôi cũng ghi đủ số học sinh có mặt và vắng mặt. Số học sinh vắng mặt đầu giờ là phổ biến. Bởi vì, vào lúc sớm tinh sương, những đứa trẻ lớn phải đi cắt cỏ bò và cỏ ngựa; khi về lớp thì quần áo, đầu tóc của chúng còn ướt sương mai, dính đầy hoa cỏ và bùn đất. Cả lớp ghép chỉ có một lớp trưởng là thằng Páo, con của trưởng bản Mí Tủa. Làm quan có nòi, làm cán bộ cũng thế.
Lớp ghép có cái dở nhưng cũng có cái hay: dở, nghĩa là chỉ một thày mà cùng một lúc, phải truyền thụ kiến thức của nhân loại cho ngần ấy thứ bậc trình độ, thì làm sao mà cụ thể và sâu sắc được; nhưng hay là ở chỗ, chúng có điều kiện ôn bài lớp dưới và đi trước thời đại khi nghe bài lớp trên. Bọn trẻ thông minh và luôn ghi nhớ hình phạt khi bỏ học. Có lần, tôi ra bài tập toán cho thằng Páo lớp trưởng: ông Mí Tủa đi nương, mang về sáu quẩy tấu ngô. Chị Mỷ (cô gái giặt bên khe nước mà tôi đã gặp) cũng đi nương và mang về ba quẩy tấu ngô nữa. Hỏi nhà Páo có mấy quẩy tấu ngô? Trong khi thằng Páo còn đang loay hoay tính toán, thì con bé lớp dưới đã nhanh nhảu đứng dậy, trả lời: “Bằng cái ngô phạt đứa gái bỏ học”. Cả lớp cười ầm lên. Tôi ngớ người.
Buổi tối, bên bếp lửa, ông Mí Tủa thường dạy tôi những bài hát cúng ma. Bà Mí Tủa thường dạy tôi những bài hát đám cưới. Củi thông cháy thơm thơm. Củi tống quá nổ lép bép. Rượu ngô nồng nàn thấm vào tận gan ruột, càng làm tôi hát say sưa. Mỷ và Páo cũng học theo những câu hát của bố mẹ. Có khi, hai hòn than nóng bỏng từ đôi mắt Mỷ bắn sang, khiến tôi lâng lâng. Đến khi ánh lửa từ đôi mắt tôi chiếu lại thì Mỷ lại đỏ mặt quay đi.
Tôi thường theo thằng Páo vào rừng bắt chim hoạ mi. Nó khéo tay, đan được những cái lồng trúc rất đẹp. Nó cũng lanh lợi và táo bạo, nên bắt được những con hoạ mi hót hay nhất vùng Mã Pì Lèng. Có hôm, tôi theo nó đi cắt cỏ ngựa. Nó dạy tôi ngắt lá thổi kèn. Thày chiêm tinh bảo tôi thuộc cung bảo bình (verseau), nên những gì thuộc về văn học, nghệ thuật và khoa học, kỹ thuật là tôi tiếp thu rất nhanh, nhất là cái khoản thổi kèn lá, để nhằm vào việc tỏ tình bằng dân ca Mông.
Một hôm chủ nhật, tôi lên phòng giáo dục trở về, qua gốc sa mu cổ thụ, nhác thấy bóng Mỷ đang cắt cỏ ngựa, thấp thoáng ven rừng. Tôi bèn ngắt lá đưa lên môi thổi tí te. Mỷ ngẩng lên nhìn thấy tôi, mặt đỏ bừng, rồi lại cắm cúi cắt cỏ. Tôi được đà thổi vóng lên:
“Em ơi!
Tình yêu đôi ta đẹp thế này...”
Bỗng Mỷ buông liềm, ôm tay. Tôi vội chạy lên, nín thở ngắt cái lá sau lưng, nhai giập ra đắp vào vết thương, rồi lại ngắt lá cỏ tranh, tước hai bên cạnh sắc và quấn ngón tay cho Mỷ, nom hệt như một dải băng xanh xanh. Mỷ toan ôm bó cỏ để về. Tôi vội giằng lấy, lui cui đội đi. Mỷ cun cút bước theo sau. Chợt có tiếng trẻ con ngọng nghịu trong bụi cây:
- Vở chùng, vở chùng... (Vợ chồng, vợ chồng).
Rồi nghe tiếng bụi cây xô dạt về phía bản. Tôi dừng chân, cười cười và nghếch mắt lên nhìn, nhưng bó cỏ bù xù trên đầu, khiến tôi không biết là đứa nào. Mỷ thì vội đứng cách xa tôi một quãng và chỉ tay, bặm môi hăm doạ bọn trẻ.
Cả bản chỉ có hơn chục nóc nhà. Nhà trưởng bản Mí Tủa to nhất, tuy mái cũng lợp cỏ tranh, nhưng vách lịa ván thông. Những ngôi nhà khác thì vách thưng bằng cây trúc. Mấy nhà mới chuyển đến thì ken tạm bằng cây ngô. Trưởng bản Mí Tủa cũng ít con nhất, chỉ có Mỷ và Páo thôi. Trưởng bản phàn nàn về chuyện không bắt được nhiều con. Tôi động viên:
- Nhà nước chỉ cho mỗi cặp vợ chồng đẻ từ một đến hai con thôi. Mình làm trưởng bản, gương mẫu là đúng lý.
Bà Mí tủa vừa tước lanh, vừa cười cười, nói chen vào:
- Mình biết ăn cái lá, hết đẻ thôi.
Tôi cười trừ, tán tếu:
- Ông bà trưởng bản đặt tên cho con giỏi đấy. Mỷ là cô tiên nhá, mà cũng đẹp như tiên. Páo là con rồng nhá, mà cũng giỏi như rồng.
Trưởng bản cười hơ hớ:
- Không biết bao giờ con Mỷ mới lấy chồng, thằng Páo mới lấy vợ, đẻ con, để tao được gọi là ông Dúng Tủa, Vản Tủa, cứ để mọi người phải gọi là Mí Tủa mãi thôi.
Mỷ liếc xéo tôi một cái, rồi lặng lẽ đứng dậy ra ngoài thái cỏ ngựa. Thằng Páo nhìn tôi chòng chọc.
Lớp học cũng chẳng khác gì nhà dân nghèo, cũng lợp cỏ tranh, cũng thưng cây trúc; chỉ khác là có những bộ bàn ghế học sinh. Chân bàn, chân ghế là những cọc gỗ tống quá chôn xuống nền nhà. Những cây trúc to, ghép lại, đặt lên trên những cái cọc thấp làm ghế ngồi. Những tấm gỗ thông đặt trên những cái cọc cao làm bàn viết. Buồng riêng của tôi ở ngay cuối lớp. Tôi xin đồn biên phòng mấy mảnh vải nhựa, căng xung quanh cho kín đáo và ấm cúng. Góc buồng có kê một cái trạn bát làm bằng trúc. Ba hòn đá đặt ở góc nhà làm bếp nấu ăn. Can rượu ngô lúc nào cũng túc trực bên cạnh. Đầu chái, tôi quây một cái buồng tắm. Đây là cái buồng tắm duy nhất trên đỉnh Mã Pì Lèng. Lớp học ở gần nhà trưởng bản. Người nhà trưởng bản mỗi khi qua lại đều phải đi sát buồng tôi. Tôi để ý, cứ mỗi khi tôi tắm là Mỷ không dám đi qua. Chờ cho tôi vào nhà, rồi mới căm cắm rảo bước. Tôi ngó qua khe trúc, giặng hắng một tiếng, tức thì Mỷ như mũi tên lao vọt qua. Tôi khoái chí cười một mình.
Bây giờ Mỷ hay đi cắt cỏ ngựa thay cho Páo. Tôi cũng hay lân la đến bên gốc sa mu cổ thụ, thổi kèn lá:
“Em ơi,
Đã nói nhiều nhưng ta chưa tỏ...”
Tiếng cắt cỏ ngừng bặt. Tôi hồi hộp dõi lên vạt rừng. Bỗng có tiếng kèn lá cất lên:
“Anh ơi!
Chúng mình dù tâm sự đẹp ngần nào...”
Chợt có tiếng trẻ con cười rúc rích trong bụi cây. Mỷ bốc một nắm đất ném rào rào. Bọn trẻ con lốc nhốc cõng nhau chạy lên bản. Thì ra, chúng đã rình mò. Tôi lững thững về bản, trong lòng lo sợ bọn trẻ con lẫn chuyện với trưởng bản. Nhưng tiếng kèn lá lại vút lên:
“Anh ơi,
Em muốn nói với anh bằng điều khác...”
Tôi thẫn thờ... Chiều biên cương tím biếc. Sương giăng mờ lũng núi. Tiếng chuông bò loong coong về bản. Khói lam quyện trên những mái tranh. Hun hút dưới chân núi, dòng sông Nho Quế nhạt nhoà như một dải thắt lưng xanh xanh, huyền huyền ảo ảo.
Tối hôm đó, như thường lệ, tôi lên nhà trưởng bản chơi. Vừa đến sân, tôi đã nghe tiếng trò chuyện rì rầm khác thường. Tiếng ông Mí Tủa: “Nhù già nhù, tử già tử - Bò là bò, trâu là trâu, không lẫn lộn được. Ta là người Mông trên núi, thày giáo là người Kinh dưới ruộng...”. Tiếng bà Mí Tủa: “Nó dạy học hết ba năm thôi. Về xuôi, nó bỏ mày”. Tiếng thằng Páo: “Tôi bảo Mỷ yêu thày giáo, không yêu, đứa khác nó yêu mất đấy”.
Mấy hôm sau, tôi bảo với trưởng bản là lên đồn biên phòng bàn chuyện “xoá mù”. Mỷ cũng xin đi ăn cưới cái bạn là Tiên ở xóm người Giấy bên sông Nho Quế. Nhưng kỳ thực, chúng tôi hẹn gặp nhau ở cầu Tràng Hương. Tôi cầm cành lá đợi Mỷ trên cầu. Một lúc, thấy bóng Mỷ dắt ngựa xuống núi, tôi liền ngậm lá, thổi một hồi:
“Em ơi,
Tình yêu đôi ta đẹp thế này
Đã nói nhiều nhưng đôi ta chưa tỏ
Vẫn còn điều bí ẩn ở thắt lưng em...”
Mỷ cũng buộc ngựa, thổi lá:
“Anh ơi,
Chúng mình dù tâm sự hay đến mấy
Nhưng gặp nhau
Em muốn nói cùng anh chưa tỏ
Nhưng vì chưa biết cõi lòng anh...”
Tôi cùng Mỷ dắt ngựa qua cầu. Mỷ sánh vai bước bên tôi. Cầu treo rung rinh in bóng hình nhạt nhoà trên sóng nước. Tôi ngây ngất như bước trên mây. Mỷ cũng bâng khuâng như lướt trên gió. Ngược dốc, Mỷ đẩy tôi lên ngựa, rồi nắm đuôi ngựa mà chạy theo. Khi ngựa qua sườn núi, Mỷ ngồi gọn trong lòng tôi trên lưng ngựa. Má đỏ au và thơm như táo chín, môi đỏ mọng như hoa đào ngậm sương, mắt nhìn thăm thẳm trời thu biên thuỳ, cánh tay trắng ngần của Mỷ quàng lên cổ tôi. Chúng tôi hôn nhau mê mải. Ngựa quen đường, phi nhong nhong. Đến đầu dốc, tôi xuống ngựa cho Mỷ về trước. Khi chia tay, Mỷ cúi xuống hôn tôi, khiến cái váy lanh trùm xuống cả vai... Mãi đến khi con ngựa sốt ruột bậm bạch gõ móng xuống đường mòn và vươn cổ hí vang, chúng tôi mới rời nhau.

*
- Thày giáo, Mỷ ăn lá ngón rồi.
Thằng Páo gọi thất thanh qua cửa liếp. Tôi vội cùng nó nhảy lên lưng ngựa, phóng như bay xuống bệnh viện huyện. Vừa phi, tôi vừa gọi Mỷ, vang động cả núi rừng. Xộc vào phòng cấp cứu, tôi thấy Mỷ chỉ còn thoi thót thở. Tôi nấc lên. Mỷ nhìn tôi đau đáu. Khuôn mặt Mỷ chợt rực rỡ, đẹp bội phần như tiên giáng trần trong giây lát, rồi đồng tử dãn dần. Bác sỹ lắc đầu tuyệt vọng. Ông Mí Tủa hộc lên một tiếng, rồi đi ra ngoài. Bà Mí Tủa gục bên xác Mỷ. Thằng Páo gào lên:
- Mỷ ơi, bố mẹ ưng ý rồi mà!
*
Ngôi mộ của Mỷ đặt dưới chân núi Mã Pì Lèng. Tuần nào cũng vậy, tôi từ bản lên phòng giáo dục và sáng thứ hai lại có mặt ở lớp. Đi qua, lần nào tôi cũng ngồi bên mộ, có hôm nửa đêm, có hôm trời sáng mới rời. Một đêm trăng suông, tôi ngồi bên mộ, sương ướt đầm vai áo, chợt nghe mơ hồ như có tiếng kèn lá từ trời cao vọng về:
“Anh ơi...
Đã nói với nhau nhiều nhưng chưa nói hết
Vẫn còn điều ngây ngất ở trong em...”
Có mùi hương toả ra ngào ngạt. Mỷ hiện lên, thấm hơi sương lạnh giá, ánh mắt nồng nàn như xưa, làn môi đằm thắm như xưa, khẽ cất tiếng thì thào như gió thoảng:
- Mỷ biết anh còn thương Mỷ nhiều, yêu Mỷ nhiều mà.
- Mỷ à, anh chỉ thương em thôi. Đất này chỉ có mình anh là đỉnh Mã Pì Lèng, cũng chỉ có mình em là sông Nho Quế thôi. Ta mãi bên nhau. Sao em vội bỏ anh mà đi, bố mẹ đồng ý rồi mà...
- Đá lở, cây đổ rồi, không làm lại được nữa đâu. Nhưng mà anh thương được cái Tiên ở bản người Giấy thì tốt đấy.
Tôi than khóc ầm cả lên. Dòng sông, đỉnh núi cũng đồng vọng ồi ồi... Giật mình tỉnh dậy, mới biết là mình nằm mê.
Lần sau, lại đến thăm mộ, tôi thấy một cô gái người Giấy giống Mỷ như hai giọt nước, liền hỏi:
- Cô là Tiên, phải không?
Cô gái gật đầu và bật cười khanh khách. Từ đấy, Tiên ngây ngây dại dại như bị ma làm, phục thuốc và cầu cúng mấy cũng không khỏi. Tiên cứ xé quần áo Giấy, đòi mặc quần áo Mông và gọi tên tôi thảm thiết.
Một đêm mưa to gió lớn, sấm rung đất chuyển. Mỷ lại hiện về, thì thầm:
- Mỷ biết cái lỗi rồi. Mỷ lại về với anh. Ngày mai, chờ ở gốc cay sa mu ngày xưa...
Hôm sau, trời quang mây tạnh, tôi ra thăm mộ Mỷ, thì sườn núi đã sạt lở, chẳng thấy ngôi mộ đâu nữa. Tôi buồn bã trở về, qua nẻo đường xưa, tới gốc sa mu cổ thụ, chợt sững sờ khi nhìn thấy một cô gái người Mông Trắng, đẹp như Mỷ, đang đứng bên khe nước. Cô gái cũng giật mình hoảng sợ khi đột nhiên nhìn thấy tôi như từ khe đá chui ra. Tôi định thần, vội nở nụ cười cầu thân:
- Mỷ à?
Cô gái không nói gì, lặng lẽ ứa hai hàng nước mắt.

Vũ Xuân Tửu
Tuyên Quang
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 103170)
C ơn mưa từ chiều đến giữa đêm vẫn chưa chấm dứt. Những cuộc hành hình liên tiếp bằng cách quấn rơm chung quanh kẻ bạo loạn rồi đốt giống như thui chó mấy ngày trước thịt vẫn còn khét. Sư bần thần đi lại trong thư phòng. Bất chợt một tiếng sét lớn sáng lòa đánh ngang cây gạo trước cổng chùa. Sư nghe thấy tiếng cây đổ vang dội trong tâm khảm. Điềm báo đến. Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng, sư ngồi xuống, xếp bằng hai chân. Tịnh.
15 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 84840)
... c ái bản sắc nói chung cho người Việt hải ngọai khắp nơi trong cộng đồng thế giới với biết bao dị biệt. Họ sẽ được giáo dục, có văn hóa, và có tiếng nói khác nhau. Quê hương đáng lẽ phải là những điểm chuẩn chung để mọi người còn có một cái gì để noi theo. Đó là niềm kiêu hãnh, là tình tự dân tộc, là đạo đức chính trị, là đạo đức kinh doanh, nếu chỉ thấy cái thua kém, thù hận, và ô nhiễm mọi mặt. thì có lẽ đã muộn rồi. Như đàn cá hồi khi ra biển rộng, lúc tìm đường về, nhưng cái tổ cũ đã bị phá bỏ, các kinh rạch cũ đã bị rác rưởi lấp kín, thì chắc là lại ra đi, về vùng vẫy tự do ở vùng biển rộng trời cao...
14 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 103786)
C hính phủ Hoa Kỳ ngày 12 tháng 5 loan báo cho công khai tập tài liệu nổi tiếng mang tên Hồ sơ Ngũ Giác Đài, sau khi các tài liệu về cuộc chiến tranh Việt Nam từng một thời được xem là tối mật bị tiết lộ với báo chí cách nay 4 thập niên.
14 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 99426)
T in Luân Đôn - Trong bản báo cáo thường niên 2011 về tình hình nhân quyền trên thế giới được công bố hôm nay, tổ chức Ân Xá Quốc Tế, Amnesty International đã đưa ra những nhận định đáng lo ngại về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam khi cho rằng các biện pháp hạn chế gắt gao vẫn tiếp tục đè nặng lên quyền tự do ngôn luận, lập hội và hội họp.
12 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 112412)
g iá như không có em xe rác thành phố chắc sẽ mang tôi đi đến khu vực dành cho những bài thơ tứ cố vô thân lề đường chỉ còn lác đác những mảnh vụn của giấy viết rơi rải từ khe hở của xe rác cũ kỹ
12 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 94451)
LTS : Lần đầu cộng tác cùng Hợp Lưu, Hoàng Thuỵ Anh hiện sống và làm việc tại thành phố Đồng Hới. Chúng tôi trân trọng giới thiệu những bài viết của tác giả Hoàng Thuỵ Anh đến với quí văn hữu và bạn đọc của Hợp Lưu. TCHL
12 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 90968)
M ỗi bài thơ là một trải nghiệm. 56 bài thơ trong “Cõi lặng” là 56 nỗi niềm. Những nỗi niềm ấy gom lại kết nên một hồn thơ ưu tư, trăn trở. Sự trăn trở ấy cuồn cuộn khi đón nhận hạnh phúc ngay chính cuộc đời trụi trần này. Nó đã làm nên linh hồn, sức nặng của tập thơ: “Tôi đi mãi vào sớm xuân/ Làm một người trắng nợ/ Thong dong mà mới mẻ/ Cầm tay và giã từ...” (Thành phố, sớm xuân...). 
12 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 111635)
C ửa nam quan cột ô nhục cây số zéro con mắt mở trừng nghiền nát loài rắn rết hồn thiêng róc thịt vùi khí uất giọt máu nhuộm tình sông núi cắt lìa
12 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 118231)
N ỗi nhớ em mang cho anh ngày vội vã Chẳng kịp nói dăm ba câu Chuyến tàu lao nhanh như kẻ trộm gặp lệnh truy nã Anh như tội phạm thuộc về riêng em… Và lẩn khuất trong dòng người tấp nập
12 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 122101)
T a còn nửa bóng nguyệt hồng Biết bao giờ động tùng dương kiếp này Uống đi!liễu rũ cơn say Ngày mai còn mất trang đài về đâu