- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Mượn “phế Tích Của Ảo Ảnh” Trịnh Y Thư Buông Lòng Tưởng Tượng Một Quê Hương

28 Tháng Mười Hai 20174:02 CH(Xem: 20763)
TrinhYThu- phe tich-legiangTran

 


Phế tích của ảo ảnh, theo tôi, chuyển tải một ẩn dụ khao khát về nhân bản, những ai muốn đi tới tương lai, con đường đó phải dứt bặt những hồn ma bóng quế của quá khứ. Chúng chỉ là những phế tích và sẽ tạo nên ngằn ngại nếu kí ức là cái bóng dính theo bước chân bước lên đường về tương lai.


 


Tính lãng mạn của thi ca diễn tả cả hai thái cực, lúc hiện ra huy hoàng diễm lệ như bình minh như đầu xuân như tiếng sét ái tình; lúc tàn phai như rừng thu như hoàng hôn như tan vỡ tình yêu, đẫm buồn, sầu bi, thê lương. Mà mặt tích cực hay tiêu cực vẫn mang một vẻ đẹp lạ lùng.
Thơ có vẻ như phơi bày tâm thức của thi nhân, mà dường như cũng khiêu gợi có cái gì ẩn đằng sau ấy là những thơ mộng ao ước hơn; giống như chiếc áo lụa mỏng mai mờ ảo mặc trên người cô gái son trẻ khích thích đôi mắt nhìn vào kèm theo tưởng tượng bên trong là đồi nương liễu lài thơm tho mỹ miều diễm lệ.

 

Tập thơ “Phế Tích Của Ảo Ảnh” của Trịnh Y Thư, chủ đề này là tựa một bài thơ dài mười đoạn và cũng là bài mở đầu, sau đó gồm thêm 30 bài thơ, và thi tập được phân làm 3 chương, mỗi chương là những bài thơ tiêu biểu cho tiêu đề chương ấy. Bài viết này tập trung vào bài thơ chủ đề được mở đầu cho tập thơ, và hoàn toàn chỉ là sự tưởng tượng của người viết chứ không gán định nào về ý tưởng của tác giả gửi gấm trong bài thơ, xin lưu ý như thế. Bài thơ phân ra 10 đoạn, mỗi đoạn diễn tả một bối cảnh khác nhau, những câu thơ trích đoạn do người viết chọn theo ý thích nên hẳn nhiên không lột tả trọn vẹn ý tưởng của đoạn thơ ấy.

 

Bài thơ “Phế Tích Của Ảo Ảnh” dùng hai thể loại chính: tự do và thơ xuôi, tuy khá dài nhưng hấp dẫn người đọc qua chữ nghĩa văn chương mượt mà, chuyên chở tính ẩn dụ trong ý nghĩa “phế tích”, “ảo ảnh” của những gì đã trôi qua, kèm theo là những tư duy về chúng. Khởi đầu là câu chuyện của nhân vật “Tôi” trở về thăm quê hương Việt, mong tìm lại hương vị của quá khứ, hoặc có thể, những hương vị của quá khứ khiến cho nhân vật Tôi phát sinh nhiều trăn trở. Kế tiếp là diễn tả về một người lính già vừa tạ thế, hình ảnh tiêu biểu cho những con người sống với nỗi ám ảnh của chiến tranh mà họ đã rơi vào và xem đó là cuộc đời của họ. Sau cùng là tư duy của nhân vật Tôi trong hiện tại cuộc sống của ông, bày tỏ những cảm thức của bản thân về những phế tích của ảo ảnh. Bài thơ vì thế gây cho tôi có nhiều cảm giác và xúc cảm để tưởng tượng xa hơn, như là hình dung bên trong lớp áo tơ lụa của một xuân nữ căng tràn nhựa sống, một sự mơ mòng của một tâm hồn cũng tràn trề sinh lực về một bức tượng hay bức tranh khỏa thân tuyệt mỹ chứ không bằng ánh mắt chan ý tưởng tình dục.

 

Ai đó bảo rằng tâm hồn thi nhân tương đồng với tâm thức đạo sĩ. Osho thơ mộng gọi cái tâm thức này là “hang động của trái tim”. Tất cả mọi sinh thái theo nhà Phật, cho rằng đều là huyễn vọng hư ảo, như Kinh Pháp Cú nói rằng, “chúng ta là những gì mà chúng ta suy nghĩ”, thế giới bên ngoài đối với một cá nhân do tâm trí ấy nhận thức, từ đó cá nhân này sẽ sống theo cách mình chọn lựa. Tông phái Duy Thức cố gắng chứng minh thế giới ngoại cảnh chỉ là hư vọng do tâm tưởng, qua vài giai đoạn thu nhận của cơ phận đặc thù của cơ thể con người, mà tâm thức thấy chúng “hiện ra” như thật. Thiền định ở bậc cao sâu, các vị như thế cho biết, nhận ra tính vô ngã và cuối cùng là tính Không, triết lý rốt ráo của đạo Phật. Đó cũng hiển nhiên là tính “vô thường” của đời sống sinh hoại, của tiết điệu mùa màng, của lịch sử hưng phế, và ngay cả vũ trụ vô hạn, v.v...

 

Nói chen chút đạo lý vào, vì trong bài thơ “Phế Tích Của Ảo Ảnh” ký ức còn lưu giữ của nhân vật Tôi được xem như là bóng ma của quá khứ, là phế tích, là ảo ảnh, những thứ thuộc về quá khứ, tỉ như thần rùa, như cuộc chiến Nam-Bắc, hay mang tính cá nhân như kỷ niệm một thời, hình ảnh một Việt Nam trước kia v.v. đối với hiện tại chỉ còn là những ảo ảnh, còn tệ hơn thế đối với nhà thơ họ Trịnh, chỉ là loại phế-tích-của-ảo-ảnh mà thôi, và trong một ý nghĩa nào đó, chúng không còn có tác dụng hợp thời. Người Mỹ có câu nói “Don’t look back!”, trong chiều hướng khuyến khích ta nên bước tới tương lai đàng trước hơn là mất thì giờ nhìn lui về quá khứ đàng sau; vì thế quốc gia này thăng tiến nhanh chóng để trở thành một đế quốc hùng mạnh và tiên tiến. Nếu nhà đương quyền Việt Nam thực hành như thế, nếu người Việt như thế, nước Việt ắt đã nâng cao dân trí và không bị xem là một trong những quốc gia trì trệ nhất thế giới hiện nay.

 

*

 

Ai ly hương cũng cất trong lòng một quê cha quê mẹ. Nhà thơ Trịnh Y Thư đi du học trước giai đoạn nước Việt Nam lâm vào cuộc chiến Nam-Bắc trở nên khốc liệt và chấm dứt vào năm 1975. Theo tôi, chàng du học sinh họ Trịnh ắt mang theo trong lòng những hình ảnh về quê hương thật là đẹp, có thể còn đầy những ấn tượng an bình, hiền hòa… Dĩ nhiên, những hình ảnh về chiến tranh Việt Nam do thông tin cung cấp tại Hoa Kỳ lúc chiến trường sôi máu đó cũng khiến cho anh chập chùng những ý nghĩ đau xót… Vì thế, quê hương đã réo gọi ông trở về thăm cố hương giống như bao trái tim nhớ nhung quê nhà, nên bài thơ “Phế Tích Của Ảo Ảnh” ngay phần mở đầu về lại quê hương, ông đã bày tỏ những cảm xúc chân tình, và bằng ngôn ngữ trí tuệ, văn chương, sự diễn đạt xúc tích, tiềm ẩn một nỗi lòng tha thiết nhưng đẫm buồn, qua dạng thi ca.

 

Bùi Giáng, người ở lại tận tụy với hai chữ “quê hương”, qua bài thơ "Cố Quận", có vài câu dưới đây:

 

Niềm vui cố quận lênh đênh

Niềm đau khách địa qua ghềnh cồng chua

Niềm vui cố quốc chiền chùa

Niềm đau xa vắng giậy mùa trở cơn

 

Phạm Công Thiện là người rời bỏ quê hương, sự ra đi mà ông ví giống như con trường giang mọi rợ, khi chảy khi bay, nhưng trong lòng ông, một người tưởng chừng “không còn cần thiết” phải biết quê hương là gì nữa, vẫn có hình bóng quê hương. Trong bài thơ “Trường giang mọi rợ” của ông, có nhiều địa danh quê hương được ông nhắc đến qua vài câu thơ như sau:

 

con sông Cửu Long chảy từ thượng tứ

Mỹ Tho buồn thây chết trôi sông

khi thượng đỉnh đìu hiu khi trác táng đến tận màn sân khấu

vẫn nhớ những buổi hát bội quê nhà

kèn trống cải lương đứa con nít ngó cô đào trang điểm

biển Nha Trang trời sinh cát hạ

đọc thơ Ba Tiêu cho Quách Tấn nghe

...

bồ câu buồn gáy lại năm xưa

mái chùa cũ Đà Lạt chiều tận thế.

 

Phạm Công Thiện từ khi rời đất nước chưa bao giờ về thăm quê nhà, ông cho thấy ông “yêu quê hương qua màn ảnh nhỏ” khi những video về du lịch được các đài truyền hình ở Việt Nam dùng để kích động lòng thương nhớ quê hương của Việt Kiều, ông xem một cách say sưa… Cho nên, Seamus Heaney của Ái Nhĩ Lan, người thi sĩ có tâm hồn đậm đà với quê hương, khi được trao giải Nobel văn chương 1995, Phạm Công Thiện đã hào hứng viết một tiểu luận về nhà thơ này, diễn tả thi ca của Seamus Heaney mang tính sắt son chung thủy với đất nước quê hương mình:

“…đặc điểm nổi bật nhất của Seamus Heaney là khôi phục lại tính thể của "thiên nhiên"… qua sự linh hiện sống dậy của những linh địa quê hương, những hình ảnh và tiếng nói đồng vọng… từ sông hồ và đồi cao lũng gió, từ những cơn mưa bất tận… đến những làng mạc đìu hiu chiều tối… Đặc điểm sáng ngời nhất của thi ca Seamus Heaney là lòng sắt son chung thủy với đất đai, sơn hà, hải hồ của quê hương”.

 

Tôi thả hồn bay bay tưởng tượng theo dòng thơ của thi nhân họ Trịnh ngay đoạn thơ đầu bài:

 

Rêu phong mái ngói ngày tôi trở lại

đốm chiều lập lòe ánh mắt

sâu kí ức mù đồng cỏ nương ngô

âm vang châu thổ

nghe như tiếng thở dài từ nghìn năm

bồi hồi dòng sông cạn.

 

Đó là cảm nhận tiên khởi của người tha nhân sau bao năm dài xa cách nay trở về nhìn lại mái nhà xưa, như là chặng cuối sau những bước dài cuộc viễn du của cậu sinh viên ngày đó, tuy nhiên, chặng cuối đường như lại bắt đầu cho điểm khởi hành, mà đoạn thơ liền theo đoạn thơ trên, ông bộc lộ một nỗi bức xúc, mà, tôi hàm đoán, khởi đầu của một sự nhức nhối về những hình ảnh ký ức, ký ức giống như một con sâu mù trước cảnh vật, âm vang châu thổ quê nhà dường như là tiếng thở dài từ nghìn năm; còn ánh ban mai của một đất nước chấm dứt chiến tranh thì hừng rỡ lên như mang dấu ấn tội đồ đối với một huyền sử thần kỳ của dân tộc Việt, qua thi ngữ của ông:

 

Sau những bước dài cuộc viễn du

chặng cuối là điểm khởi đầu

nhức nhối những bào ảnh

bóng tối thê lương

ban mai hừng rỡ như mang dấu ấn tội đồ

phát vãng từ thần kì huyền sử.

 

Những dòng thơ nối tiếp, nối tiếp, tôi nhặt ra những câu tôi cho rằng chuyên chở những ý tứ chính mà nhà thơ bùi ngùi thở dài:

chẳng thể rũ bỏ quá khứ

như ném vào bãi phế thải

làm sao tôi hiểu được hoàng hôn

dù lịch sử trở về từ vĩnh cửu.

Kí ức tôi đang rạn vữa

còn lại chỉ là sự lãng quên

Chỉ còn sự cô độc

ôi tôi yêu nó xiết bao

vang váng một linh hồn hôn muội

Nơi tôi đứng chiều nay

những mái nhà nâu

những chiếc cầu lung linh bóng nước

sẽ tan biến cả và còn lại

chỉ là phế tích của ảo ảnh – rớt rơi.

 

À, cuối đoạn 1 bài thơ, Trịnh thi sĩ đã lên cò bắn ra viên đạn “phế tích của ảo ảnh”, để từ đây là những dàn trải trong tâm hồn thi nhân.

bất chợt một góc trời điêu hao thành lũy

giữa muôn trùng cảnh lạ bến nước bủa giăng.

 

Tôi chờ đợi một tiếng kêu bằn bặt thổ ngơi

ẩn nhẫn như cơn mộng oan khiên phong vận

thoát thai thành một nghĩa cử tầm thường

bốn phía trời căm dù hờn tủi cũng đành.

như một kẻ hành hương lạ thất lạc

trong ngôi đền không có nổi một lư hương.

 

Đứng dưới rượng hoa già kí ức tràn về khiển trách

không không tôi không chấp nhận

lời nguyền rủa ấy xin đừng trút lên tôi

một mai làm người tôi sẽ gửi lời thâm tạ

như lá chúc thư trần tình cho phiên bản cuối.

 

“lời nguyền rủa ấy xin đừng trút lên tôi”? Nhà thơ ngụ ý gì với câu thơ này? Kí ức, biểu tượng này đại diện cho thứ chi chi? Lịch sử? Nỗi buồn dân tộc? Bên thua cuộc? Tràn về khiển trách chi mà ông đáp rằng một mai làm người tôi sẽ gửi lời thâm tạ / như lá chúc thư trần tình cho phiên bản cuối. Một mai là Một Việt Nam Mới? Phiên bản cuối là gì? Thể chế tự do dân chủ? Bao giờ? Làm người là sao? “thể tính Việt” phục hồi? người Việt trở về nhân tính Việt? Ở đây, tôi không nghĩ là rơi vào tâm trạng “thất phu hữu trách”, ray rứt cảm thấy bản thân một người công dân chịu trách nhiệm khi đất nước suy vong; không có kiểu biếm nhẽ tự vấn tội “tôi làm tôi mất nước” của nhà văn Lê Văn Phúc. Dù chưa nghĩ ra, còn phải đi theo hành trình của bài thơ để khám phá thêm, nhưng tôi tin rằng nhà thơ nói về một phạm trù nào đó sâu thẳm hơn. Tạm cho là như thế. Để rồi sau vài đoạn thơ, mở ra, bắt gặp:

 

Những âm hồn rỉ rén trở về – không không

đây không phải chỗ cho các ngươi khiếu oan

ôi thật kinh khiếp thế chỗ những cảm xúc chết

là kí ức của cảm xúc hoen quẹn da non.

 

Người con lịch sử khuôn mặt ngươi ở đâu

sau tấm biển quảng cáo nịt vú đàn bà

hay bên kia rừng trảng thâm u

bên dưới những nấm mồ oan khốc.

Kí ức như mộ phần người chết

hãy để nó vĩnh viễn nằm dưới đáy ngục sâu

đào lên chỉ thấy toàn hồn ma

và xương xẩu kinh người.

 

Bốn câu sau cùng ở trên để kết cho đoạn 2 bài thơ. Những âm hồn rỉ rén trở về, chúng thực sự đã là những cảm xúc chết, nhưng không kinh khiếp bằng cái cảm xúc mới tinh còn hoèn hoẹn như da non, cảm xúc đối diện với thực tại trước mắt của quê hương khi trở về nhìn thấy ư? Để rồi thảng thốt kêu lên “Người con lịch sử, ngươi ở đâu?” Ẩn dụ cho đại danh từ “người con” này là ai? Thế hệ trẻ? Hậu duệ của tiền nhân còn không? Câu hỏi vấn nạn này buộc lòng ta phải nghĩ ngợi, ai có tư duy về đất nước nên tra vấn. Thi sĩ họ Trịnh cũng tự hỏi rồi đưa ra vài ví von, có thứ đơn giản như hàng cau đánh sập sân từ đường sau một đêm mưa làm vỡ vụn những viên gạch khép nép từ nghìn thu mà sao nghe cả đất trời sụp đổ thê lương:

 

Họ là ai tôi tự hỏi

những bản văn tự không ấn dấu

xung quanh một bến nước

có tiếng hát phù trầm

quay quắt một đêm mưa

hàng cau đánh sập sân từ đường

vỡ vụn những viên gạch

khép nép nghìn thu.

Hồn ma còn sợ bóng tối không tôi tự hỏi

hiển nhiên họ không tự biện hộ được

khi lịch sử kì oan

buộc tội ngay lúc lâm minh

và sự lừa phỉnh phỉnh lừa chính nó.

 

Hồn ma là hồn tử sĩ? Hồn tử sĩ biện hộ được gì trước hồn thiêng sông núi? Oan khiên kỳ quái của một lịch sử mới lâm minh đã buộc tội kẻ chiến bại; và họ cũng là những nạn nhân của một sự lừa phỉnh từ những nhân vật nguyên thủ, tướng lãnh, đã ban phát lệnh tử thủ, quyết chiến, để rồi kẻ lừa phỉnh trốn chạy như một lũ hèn mạt. Nhà thơ sau đó bảo rằng:

không – họ chẳng nói gì

bởi tất cả những điều cần nói

đã được nói ra

từ trước đó lâu lắm rồi.

 

Lời quá rõ. Tuy nhiên, nhà thơ còn bày tỏ thêm cái cảm giác đối với một loại con người mà ông ví von gọi là “những con người khổng lồ biết bay” như sau:

 

Nhưng tôi quả run sợ bởi đó là bước khởi đầu

dù không biết gọi nó là gì lịch sử hay kì tích

của những con người khổng lồ biết bay

phủ trùm lên ý thức tội đồ tôi nhận ra

không ai chết cho kẻ khác

kể cả người bị đóng đinh trên núi Sọ.

 

Ông ngầm bảo rằng không ai làm việc gì mà không có mục đích, nếu không có mục đích tối hậu, ngay cả việc Chúa Jesus bị đóng đinh cũng không mang ý nghĩa gì, ai thản nhiên chết cho kẻ khác bao giờ? Những con người khổng lồ bay trên mây tạo nên kỳ tích lịch sử, đó là bước khởi đầu cho những thứ khiến cho nhà thơ run sợ, không phải bản thân ông, mà là ý thức rằng, cái thứ đó sẽ làm cho con người sống trong loại lịch sử như thế trở thành một đời sống kinh dị kinh hoàng… Đóng lại dòng tư tưởng của đoạn 3.

 

*

 

Những căng thẳng tư duy tạm dừng lại.

 

Bây giờ là tiêu biểu của thanh xuân, một chút tươi xanh bắt gặp trong chuyến đi tìm quá khứ vong thân của người đàn ông trở về xứ sở. Có lẽ, xã hội người Việt thời cổ sống theo chế độ mẫu hệ, rồi mặc dù đã chuyển đổi tập tục ấy, nhưng phụ nữ Việt được dùng tiêu biểu cho “MẸ VIỆT NAM” mãi đến ngày nay, hình ảnh “người mẹ Việt Nam” vẫn còn là một biểu tượng đậm nét để tôn vinh vai trò người phụ nữ, người vợ, người mẹ; dù thời thanh bình hay chiến tranh đều thể hiện sự tích cực yểm trợ tinh thần, cho đến đóng góp sức lao động, nuôi chồng, nuôi con, làm dâu, ngay cả làm chiến sĩ trong chiến tranh, kiệt nữ chống ngoại xâm, v.v…

 

Rồi chiến tranh tàn khốc tạo ra hình ảnh người Mẹ Việt Nam chỉ còn là những gương mặt cụ già khắc khổ chịu đựng. Điểm này, tôi đã từng có nghĩ ngộ nghĩnh, tại sao hình ảnh tiêu biểu Mẹ-Việt-Nam không là những thanh nữ xuân xinh, khỏe mạnh cả hai mặt thể xác lẫn tinh thần? Người phụ nữ như thế, thì sự truyền giống, thì sự giáo dục con cái, hay nhẫn đến góp phần tạo nên kinh tế vững vàng cho mái ấm gia đình, góp tay xây dựng một xã hội lành mạnh và phát triển, như thế, chắc chắn đất nước Việt sẽ nhanh tiến và hãnh diện về nữ giới của dân tộc mình. Con người thanh xuân là mầm xanh của đất nước, tuổi trẻ là thành trì của tổ quốc. Thiếu nữ xinh tươi khỏe mạnh là những vườn hoa trái tươi non, là suối nguồn mật ngọt; thanh niên sinh lực trí tuệ là những hạt giống của dân tộc, là đôi vai gánh vác sơn hà; măng non thay thế cho tre già cằn cỗi cần được nghỉ ngơi. Quy luật đào thải và tiến hóa nơi trái đất này đã là thế.

 

Tôi nhìn thấy gì trong đôi mắt lá răm

ở nơi có ánh chiều tháng Chạp

và những quả ổi mơn mởn xanh

            rầu rầu liếp mía

            con giẻ cùi phụ họa

            lời ru mái nhà nâu hiu hắt à ơi.

 

Miệng lúng liếng giọng luyến láy

những điều tôi không hiểu – chẳng sao cô gái ạ

            tôi vốn là kẻ lạ

            khát vọng hoài thai

            trên những rui mè

            ngôi nhà huyền sử

            thất lạc trong chuyến đi tìm

            quá khứ vong thân.

 

Bóng ma quá khứ không làm cô sợ hãi

miểng bom cắm trên hương thờ trở thành linh thiêng

Con nước chảy hoài bờ biên tái

một thoáng xanh về trong lệ xanh

tan đi giữa cõi mù sương ấy

hoa lê một nụ điểm trên cành.

 

Đoạn 4 bài thơ, toàn bộ mang một không khí, một không gian, buồn nhẹ nhàng đượm nét lâng lâng thơ mộng với phảng phất một cô gái trẻ có đôi mắt lá răm miệng cười lúng liếng, như những quả ổi mơn mỡn xanh, cô gái không biết gì về bóng ma quá khứ, hoặc quá khứ chỉ giống như hình người trên bàn thờ, cô bé thản nhiên, dù có nhìn thấy miểng bom thời chiến tranh xưa kia còn cắm trên lư hương, quá khứ ấy không làm cô sợ hãi gì hay có suy nghĩ theo kiểu nhà thơ. Sự tự nhiên của tuổi trong sáng thơ ngây mộc mạc dâng lên một sinh khí trẻ trung rạng rỡ tươi mát.

 

Từ con phố một chiều tôi đi tìm thần rùa…

Bác ơi ở đây làm gì có rùa cái nhà bác này rõ dở hơi…

thần rùa nghìn năm mất ngủ chẳng biết làm sao gặp được thế rồi có lúc tơ tưởng bộ ngực thanh tân nhuễnh nhoãng thừa cơ lúc đêm xuống bứt đại một cụm hoa tưởng rằng sẽ hiểu được cả chặng đường dằng dặc từ bóng tối nhập nhòa xác thân.

 

Bác ấy ơi bề bề trong này cực ngon bác vào ăn thử đi…

Nhưng cô ơi tôi có hẹn với thần rùa thật mà…

Không nhận ra mặt trái của thời gian tôi chỉ có thể làm một hành vi ngớ ngẩn chưa từng thấy là nhìn sững cây hoa sữa mà tưởng như đang ngồi ở ngã sáu phố hàng kèn ăn bát phở giá hai xu chỉ có bánh nước lỏm lẻm…

 

Nha nhá tối tôi vẫn ngồi đây mơ màng về thần rùa

có kẻ ra bảo tôi bác ơi tối rồi bác ngồi đây muỗi đốt chết

ngay lúc đó tôi vỡ lẽ huyền thoại là đồ ngoạn hảo của kẻ thống trị bày biện trong tòa dinh thự nguy nga của hắn từ nhiều năm để che đậy sự thật bởi đối nghịch với sự thật không phải điều trá ngụy mà chính là huyền thoại.

 

Ai cũng biết huyền sử thần rùa, và chuyện một ông rùa già chết vài năm trước đây. Đoạn 5 ở trên với thể thơ xuôi kể chuyện hẹn hò với thần rùa rồi có lúc tơ tưởng bộ ngực thanh tân nhuễnh nhoãng… để bất ngờ vỡ lẽ, và khép lại thơ mộng liễu lài, như một số câu của đoạn thơ thứ 5. Đoạn thơ 6 ghi lại những ý nghĩ trước khi giã biệt quê hương quay về phương trời mình đang sinh sống, với một số đoạn, câu, tiêu biểu:

 

Làm sao tôi yêu được cái không phải của tôi

khi kí ức nằm chung hộp thuốc gây ảo giác

                        những cảm xúc chết

                        tôi không biết đổ đi đâu

 

Thật buồn cười ý nghĩ tôi sẽ tìm được điều gì

ngày trở về đứng trên sân gạch

ngôi nhà trăm năm ấy

hàng cây không chịu nhận lời chuộc tội

khước từ ngay cả một lời van nài làm quen

cửa mở nhưng tôi chỉ biết ngồi bệt

dưới thềm nhà

uông uông cơn ảo vọng

một trần gian hóa thạch.

 

Ký ức của tôi, những thứ tôi tin rằng có giá trị đẹp đẽ, bây giờ bị đặt nằm chung trong hộp thuốc gây ảo là một loại kỳ tích lịch sử của những con người khổng lồ bay bổng thì sao tôi có thể yêu được cái không phải của tôi? Nên sẽ rất buồn cười nếu tôi sẽ tìm được điều gì với thuốc gây ảo giác, có chăng là thứ cảm giác uông uông cơn ảo vọng, cảm thấy một trần gian hóa thạch, còn ngay cả những cảm xúc chết, những phế tích của ảo ảnh, cũng chẳng biết tôi phải đổ đi đâu. Nhà thơ chợt ước ao:

 

tìm cho tôi con đường trở lại chiếc cầu ánh bạc

nơi tôi có cuộc hò hẹn

với quá khứ vong thân

nơi người chết và người sống

cầm tay nhau hể hả.

 

*

 

Chiến tranh, cuộc chiến nồi da sáo thịt, đã tạo nên một đại bi kịch đối với những chiến sĩ tham dự còn sống sót. Cuộc sống sau đó của họ như là những con người bị bỏ quên, nhưng với họ, ký ức của một thời oanh liệt thì không bao giờ phai tàn trong tâm trí, có người vượt qua được nỗi ám ảnh, có người rơi vào một cuộc sống trầm cảm, tâm lý xáo trộn, gọi là “hội chứng chiến tranh”. Nhà thơ Trịnh Y Thư đưa ra một đơn cử, người lính già và cái chết của người cựu chiến binh này. Một tiêu biểu đầy ẩn dụ. Nếu là người yêu thích văn chương, đều có đọc qua những tác phẩm lớn viết về chiến tranh, tù đày bởi chiến tranh, để từ đó nhận thức sâu sắc về tính nhân bản. Chiến tranh về ý thức hệ giữa cộng sản chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa còn đậm nét tàn nhẫn, bi thống hơn. Quốc gia nào nhanh chóng dứt bỏ nỗi ám ảnh của chiến tranh, họ sẽ nhanh chóng bắt kịp sự tiến bộ văn minh của nhân loại tiên tiến. Việt Nam là một nước nhỏ nhưng có chiều dài lịch sử đầy rẫy chiến tranh. Bóng ma chiến tranh sau 1975 vẫn còn như quỷ ám đối với những con người dính líu hay từng sống trong thời buổi chiến tranh ấy cho đến tận mãi 50 năm sau. Nhà thơ dành cho hình ảnh chiến tranh một tư duy bức xúc, về nhân bản hơn là phê phán lịch sử.

 

Người lính già sống suốt đời với kí ức chiến tranh

chết trong căn nhà ọp ẹp thị trấn Lake Forest…

Anh đã lầm lỡ bước vào cuộc đời này

âm thanh cuồng nộ của thế kỉ

            chỉ làm anh lúng túng

...

Họ biến anh thành cỗ máy chỉ biết nghe mệnh lệnh

trong lúc rao giảng những lí tưởng cao vời

lí tưởng như thuốc phiện

nghe một lần anh như kẻ phiêu hốt say sưa

sẵn sàng chơi đùa cùng thần chết.

Cuộc chiến với kí ức

mới thực là cuộc chiến kinh hoàng

đốt cháy cả cuộc đời anh

Người lính già hôm nay đã chết

mặt trận yên tĩnh nhưng linh hồn anh không yên tĩnh

tôi nhìn anh lần cuối trong quan tài

bộ quân phục thẳng thớm như thể người ta vẫn ra lệnh

cho anh tiếp tục chiến đấu dưới đáy ngục sâu.

 

Ngoài những người cầm súng, còn có thành phần gọi là “tù nhân chính trị”, là những đầu óc còn nguy hiểm hơn viên đạn bắn ra. Chế độ Cộng Sản dứt khoát không dung tha cho loại đầu óc có thể tạo nên cuộc cách mạng chống lại họ. Những trí óc có chất xám là kẻ thù của những kẻ cai trị, họ bằng mọi cách, tiêu diệt, nhân nhượng lắm là tống khứ ra khỏi lãnh thổ của họ, đó là giải pháp hay nhất. Thi sĩ họ Trịnh vào phân đoạn 8, đưa ra một bi kịch hiện tại của nước Việt. Không những phụ nữ bị bạc đãi ngay trong xã hội trong nước, còn bị “xuất cảng” với nhiều danh gọi, một cách chính thức hay không chính thức. Bất cứ xã hội nào, khi hạ cấp vai trò nữ phái, xem nữ giới chỉ như thứ hàng hóa có thể mua sắm, hưởng thụ vô tư, thì con cái của những con người này đầy ắp nỗi tự ti mặc cảm v.v. Quốc gia ấy sẽ tạo nên một xã hội thôi chột đạo đức con người, băng hoại phẩm chất con người; vì con quỷ lý trí làm chủ nhân ông, còn trái tim nhân hậu trở thành nạn nhân, và như thế, dân trí của quốc gia đó được xây dựng bằng tính xảo quyệt hơn là thiện lành, đưa đến tiền đồ của đất nước sẽ suy vong… Bước vào đoạn 8 của bài thơ:

 

Bây giờ thì tôi hiểu thành phố phóng thích tù nhân chính trị nhưng lại tống xuất tất cả các cô gái điếm lên tàu xuất dương du học. Về đâu thì làm sao tôi biết…

 

Ông nhạc trưởng vung tay điều khiển giàn nhạc, nhưng không ai buồn để ý đến ông bởi cô gái điếm số mười một trần truồng đứng trên boong nhoài nửa người ra ngoài thành lan can vẫy vẫy cánh tay trần chào mọi người trong lúc các cô khác cũng trần truồng nhảy cẫng xung quanh la hét.

Sân khấu Lịch sử cũng có những kẻ đứng trên ban công vẫy chào đám đầu đen đứng nghển cổ bên dưới, nhưng bọn họ làm gì có được khuôn mặt xinh đẹp và bộ dáng tươi vui như các cô gái điếm này…

Thật là phiền hà tôi vẫn không sao tìm ra cái gã Quá khứ chết tiệt trong lúc con tàu chở các cô gái điếm đã bắt đầu nhổ neo. Các cô đi rồi tôi biết bám víu vào đâu? Thời đại hoang tưởng bắt đầu khi thế gian không còn gái điếm, khi những chủ thuyết đạo đức, những triết học rối mù thay thế cửa hàng bán thuốc và vật dụng khích dâm để tôi một mình bơ vơ giữa đêm trắng.

 

Tôi thẫn thờ nhìn theo con tàu chở các cô gái điếm từ từ biến mất khỏi đường chân trời. Hình ảnh cuối cùng còn lại trong tâm trí mà tôi còn nhớ cho đến tận bây giờ là đôi vú lủng liểng nhễ nhại của cô gái điếm số hai trăm linh sáu. Bên cạnh tôi hai đứa trẻ đánh giày ngồi tranh luận sôi nổi về bản Hiến pháp mới cho một nước Cộng hòa không có thật.

 

Sang đoạn 9 bài thơ, nhân vật Tôi đặt mình vào thời đại Soylent Green. Đó là tên cuốn phim dựa theo nội dung một tiểu thuyết khoa học giả tưởng có tựa Make Room! Make Room! của tác giả Harry Harrison, xuất bản năm 1966, được dựng thành phim vào năm 1973, câu chuyện vào thời tương lai, xảy ra năm 2022 tại New York lúc đó có 40 triệu cư dân sống trong tình trạng đầy hỗn loạn, nhà cửa đổ nát; những người vô gia cư tràn đầy đường phố; nhiều người thất nghiệp. Những người không công ăn việc làm hầu như không có thực phẩm. Việc làm ở những xưởng công nghệ khan hiếm, phần lớn dân số sống sót nhờ các khẩu phần thức ăn do Tổng công ty Soylent sản xuất. Sản phẩm mới nhất của họ là Soylent Green, một loại “bánh kẹp Xanh” được quảng cáo là chứa “sinh vật năng lượng cao” từ Thế Giới Đại Dương, giàu dinh dưỡng và ngon miệng hơn so với những loại có trước đó màu “Đỏ” và “Vàng” ít tố chất dưỡng sinh. Đấy là do trái đất lâm vào tình trạng ô nhiễm cực cùng, thực phẩm từ thiên nhiên cung cấp đã cạn kiệt… Con người rơi vào hoảng loạn, xã hội đầy tội phạm… Tất cả như là sự báo động lâm chung thời hoàng kim của địa cầu.

 

Ô hay! 3 “màu” thực phẩm Xanh, Đỏ, Vàng chợt ngẫu nhiên khiến lóe lên ý nghĩ về màu cờ “Đỏ” của Bắc Việt Nam Cộng Sản, màu cờ “Vàng” của Nam Việt Nam Tự Do, hai thứ “thực phẩm” này đều làm cho con người bị “hoại sinh” chứ không cung cấp chất “dưỡng sinh” cho dân tộc. Sau bao nỗi ê chề của một “quá trình” chấm dứt chiến tranh, “thụ hưởng” hòa bình chưa được bao ngày tháng, người Việt Nam tràn ra biển XANH, dân Việt lại dâng lên một màu “Xanh” hy vọng, một “ý thức Xanh”, một loại thực phẩm mới Soylent Green, một “màu cờ Xanh mới” chăng? Còn có người rục rịch muốn thay luôn cả bài quốc ca! Hỡi ơi, người Việt lưu vong tị nạn lại bị phỉnh lừa thêm lần nữa! Cái “khăn rằn” màu “Xanh”  “kháng chiến” cũng chỉ là cái bánh vẽ!!! Mà, trong một đoạn thơ phần kết, một cách trùng lặp, Trịnh thi sĩ than rằng:

 

ý thức xanh của tôi chỉ là món hàng giả mạo

          chỉ đánh lừa được

          những bản ngã yếu đuối

          chỉ là chuyện thần tiên

          cho những kẻ dại khờ

 

Đi vào đoạn thơ 9:

 

Khi tôi trở lại quả núi đã biến mất. Thật quá đỗi

lạ lùng, không thể tin có chuyện như thế trên đời,

một quả núi cao ba nghìn một trăm bốn mươi ba

mét mà có thể biến mất khỏi quả đất này…

Tôi quay sang hỏi cô gái đứng bên cạnh đường nào

lên đỉnh ngọn núi cao ba nghìn một trăm bốn mươi

ba mét, cô trố mắt nhìn tôi như thể tôi là kẻ đến từ

một hành tinh lạ. Cô bảo tôi đã từ lâu chữ núi không

có trong diễn ngôn của thành phố. Thời đại Soylent

Green đã đến mà tôi nào hay biết. Bất giác tôi cắm

đầu chạy thục mạng, chạy bất kì đi đâu miễn ra khỏi

chốn này, trên đầu tôi trung hòa tử Big Bang lả tả rơi

như tuyết đen làm mờ mịt cả bầu trời phế tích.

 

Đoạn 9 như là một ẩn dụ cảnh báo. Nhân vật tôi không còn chỗ dung thân, hai chữ lưu vong quá nhỏ bé, con người đang rơi vào tình trạng đánh mất Planet Earth trái đất mẹ. Tưởng tượng kinh hoàng hơn, trên đầu tôi trung hòa tử Big Bang lả tả rơi như tuyết đen làm mờ mịt cả bầu trời phế tích. Hắc động black hole ngoài vũ trụ trương lên nổ tung, bụi đen của nó rơi lả tả xuống tầng khí quyển địa cầu trông như một trời phế tích…

 

Những nhà khoa học vũ trụ đã nhiều phen lên tiếng thống thiết kêu gọi con người nên cùng nhau góp tay phục hồi lại màu XANH cho địa đàng trái đất. Đó là một “ý thức xanh”, xanh như loại thực phẩm xanh trong phim Soylent Green, thứ thực phẩm tạo cho con người ý thức về một thứ tội lỗi do con người gây ra đã không còn có thể cứu chuộc. Ý Thức Xanh còn mang ẩn dụ cho những sinh thái có mầm mống bị tận diệt, thí dụ như sinh thái của nước Việt, sinh thái của con người Việt, sinh thái của tâm thức Việt, chẳng hạn.

 

Chữ VIỆT trong ý nghĩa Việt Nam còn ẩn nghĩa VƯỢT: Vượt về phương Nam, mang trọn vẹn ý nghĩa đàn chim Lạc Hồng tộc Việt từ phương Bắc vượt về phương Nam khắc trên trống đồng, rồi trải qua 4000 năm tạo dựng nên một tổ quốc mà người Việt thừa hưởng ngày nay. Để rồi chỉ nửa thế kỷ sau khi thổ ngơi này khép lại cuộc nội chiến vào năm 1975, những người khổng lồ bay bổng bởi kỳ tích lịch sử này, và cũng chính bởi sự bay bổng của họ bằng đôi cánh Cộng Sản, họ lại biến thổ ngơi gọi là tổ quốc rơi vào một tình trạng mọi sinh thái đều đến mức báo động đỏ. Bầu trời ô nhiễm, biển ô nhiễm, sông ngòi ô nhiễm, rừng đẵn trống hoang, vườn cây ô nhiễm, ruộng đồng ô nhiễm, loài sống dưới nước nhiễm độc, thú rừng bị săn diệt, rau quả bị ướp độc, khô mắm bị ướp độc, thịt gia cầm bị ướp độc… và nguy hiểm nhất, con người bị ướp độc. (Xin mở ngoặc, xã hội dù như thế nào nhưng vẫn có những con người có trái tim thiện lành và có tâm thức trí tuệ, nên sẽ không bị ô nhiễm, và những con người ấy luôn có một vị trí được kính trọng). Nhiều tầng lớp con người giàu tiền, giàu thông minh, trí tuệ, đầy sinh lực, và cả phái nữ để truyền giống ˗ nếu phải nói như thế, lũ lượt và âm thầm bằng mọi phương cách, lìa bỏ thổ ngơi nước Việt đi ra ngoài thế giới tự do. Thử hỏi, cái đất nước đó rồi sẽ còn lại những gì ngoài số con người phải chịu trận ở lại sống còn trong niềm hy vọng gần như vô vọng???

 

Nhà thơ đúc kết bài thơ bằng sự trở về lại nơi chốn lưu vong nhưng có tự do thật sự dành cho con người. Ông diễn tả, qua một số câu thơ tiêu biểu trong đoạn 10, nói về một thứ ý thức xanh mang ý nghĩa khác:

Tôi là người về từ đại dương trầm tích

món vật tùy thân là tấm ảnh cũ nát nhàu

Ý thức xanh là chiến lược phòng thủ của tôi

để chống lại kẻ thù địch ngoa hiểm trong

           thời đại lãng quên này

           khi xung quanh tôi

           người người nắm tay nhau

           nhảy múa theo nhịp tiết bập bùng

           của lửa thiêu.

 

Ý thức xanh là lời mời gọi các linh hồn oan ương

nhưng không hề hối tiếc một thời đã sống

           họ về đây bảo tôi

           đã qua rồi

           tất cả đã qua rồi

           nước phù sa vẫn nhóc nhách

           chảy ngang con trổ

           luồn lách giữa những

           chân lúa đang hăm hở đơm bông.

Dẫu nuối tiếc giấc mơ tiền kiếp thì đấy cũng chỉ

là bào ảnh tường xanh trong ngoài màn sương trắng.

Năm tháng rồi sẽ trôi vào quá khứ đáng thương

ý thức xanh của tôi chỉ là món hàng giả mạo

          chỉ đánh lừa được

          những bản ngã yếu đuối

          chỉ là chuyện thần tiên

          cho những kẻ dại khờ

          cả tin vào quy luật

Chiều nay một mình tôi đứng trên sân ga

chờ con tàu đem tôi ra khỏi bầu trời phế tích

          không một kẻ tiễn đưa

          cho tôi nói lời từ biệt

          …

          rồi con tàu trôi nhanh trong đêm

          chẳng để lại dấu vết gì

          dù chỉ là một làn khói mỏng.

 

Ngày giã từ quê hương của nhân vật tôi là một buổi chiều nơi sân ga, cô độc, độc hành lên đường. Con tàu đêm mang người rời xa cố quận cũng là đưa người ra khỏi bầu trời phế tích. Ở lại là phế tích, ra đi là ký ức. Con tàu cũng như đời người, chuyến tàu đó rồi cũng chẳng để lại dấu vết chi. Dòng sống vẫn tiếp tục luân chuyển luân hồi. Đời sống dù nơi núi cao, dù nơi rừng sâu, dù nơi vùng biển bao la, dù nơi sa mạc mịt mùng gió cát, dù nơi xứ nhiệt đới hay thổ ngơi tuyết băng, đã thành nếp sống, và con người sống nơi đó cũng đã sống thành nếp. Chỉ còn một thiểu số sắc dân du mục di chuyển theo mùa màng. Những con người sống quen độ cao ngút ngàn cây số nơi vùng Hy Mã Lạp sơn, hầu như không thể di cư xuống vùng đất thấp đồng bằng hay ngang với mực nước biển, họ bảo rằng cơ thể họ sẽ không chịu nổi nơi một áp lực nặng nề của sức hút trái đất. Đó là về mặt sinh thái địa dư.

 

Cũng thế, mặc dù chế độ Cộng Sản cho thấy nơi đất nước ấy không có nhân quyền thực sự, nhưng con người đã sống quen. Giống như loài thú hoang dã trước kia tự do nơi rừng núi ngút ngàn nhưng nay đã sống quen và được cung cấp thực phẩm không cần phải đi tìm, nơi cái gọi là thảo cầm viên ấy, chúng có thể còn cảm thấy an toàn hơn chốn rừng sâu núi cao. Ngay đến loài chim loài cá, nếu sinh ra trong lồng trong chậu thì đó là quê hương, là khung trời của chúng. Con người khi rơi vào tình cảnh bị giam hãm mới bức xúc ta thán cho cái cảnh “cá chậu chim lồng”. Khi con người bị cầm tù mới thèm thuồng bầu trời tự do ngoài song sắt.

 

Con người là loài sinh vật quyết định được một thổ ngơi định cư. Trí óc con người biết so sánh để chọn lựa cái gì an toàn và cái gì bất toàn, mặc dù mơ ước và hy vọng của con người không đơn giản như ý nghĩ về mục tiêu ấy, nhưng con người dám trả giá bằng sinh lực, bằng mạng sống, và còn bằng một niềm tin huyền bí thiêng liêng. Sự vượt thoát ồ ạt của một giai đoạn người Việt VƯỢT trùng dương đào thoát khỏi địa ngục kinh hoàng của những con người Cộng Sản lên ngôi cai trị một miền Nam tự do, đã chứng minh trong một ý nghĩa nào đó về quyết định một cuộc đời cho bản thân và gia đình để có một tương lai và một cuộc đời đáng sống.

 

Hiện tượng đang xảy ra hiện thời, tuy không ồ ạt, nhưng người Việt sống trong nước Việt, những ai có suy nghĩ lợi lạc xa, hầu như đều tìm cách rời khỏi nước Việt. Như là những cánh chim thiên di, trong âm thầm lặng lẽ, những người khi tạo được phương tiện, đều cho con cái họ, rồi đến họ, rời xa tổ quốc. Đừng vội bảo họ là những con người không yêu quê hương, họ chỉ muốn thoát khỏi ách cai trị, mà, họ cho là khiến cho con người không có một tương lai trí tuệ, một tương lai thật sự được sống tự do và được làm người.

 

Phế tích của ảo ảnh, theo tôi, chuyển tải một ẩn dụ khao khát về nhân bản, những ai muốn đi tới tương lai, con đường đó phải dứt bặt những hồn ma bóng quế của quá khứ. Chúng chỉ là những phế tích và sẽ tạo nên ngằn ngại nếu kí ức là cái bóng dính theo bước chân bước lên đường về tương lai. Lịch sử là thứ được tạo nên bởi “bên thắng trận”, kẻ chiến thắng trở thành những con người khổng lồ biết bay, họ cất cánh bay trong khung trời ảo tưởng; còn kẻ thua cuộc, nếu dại dột chết dần mòn một đời trong phế tích của ảo ảnh, thì cũng là nô lệ của trí óc cố chấp.

 

Muốn thay đổi một xã hội thối nát, cần có thành phần trí thức và trí tuệ đứng lên hợp sức làm cuộc cách mạng. Giống như đối với một người ăn mặc lố bịch, làm sao thay đổi con người đó? Thay đổi là thay đổi tư duy của tâm trí đó, chứ không phải dùng ngón tay chỉ vào trang phục của người đó rồi tuyên bố đây là những thứ không hợp thời hay không đúng cách, thì đó chỉ là cách cho mọi người nhìn vào cái khoác bên ngoài của họ, thỏa mãn sự khinh ghét của quần chúng nhìn vào lớp son phấn bôi trét trên mặt mày hay lớp áo quần dị hợm che trùm thân thể. Thế rồi kẻ kia sẽ thay bằng những trang sức trang phục lừa bịp tinh vi hơn, đánh lừa được những ánh nhìn thù ghét, trong khi con người bên trong lớp áo quần đó vẫn nguyên trạng. Giống vậy, cuộc cách mạng nếu có, là làm thay đổi tâm thức của con người cộng sản; còn cứ chỉ ra những việc làm ác độc hay nhũng lạm, chi chi của họ đi nữa, chẳng khác nào tố cáo cái lớp áo bên ngoài, hay lột y áo đó ra rồi chà đạp chửi rủa lên thứ áo quần tội lỗi; chứ nào diệt bỏ được cái con người mặc y áo ấy. Họ vẫn bình chân như vại! Dù vạch áo xem lưng thì cũng chả thay đổi gì cả.

 

Tôi không cố ý hay có dụng ý khoác cho bài thơ “phế tích của ảo ảnh” chuyển tải ngầm một ý hướng chính trị nào. Theo tôi, bài thơ mang tính trăn trở tâm thức, xuyên qua những thực trạng mà tác giả trải nghiệm cũng như nhận thức về mặt xã hội và con người, những cảm nhận hiện tại và ký ức quá khứ, cả hai đều khiến cho tâm hồn thi sĩ dâng lên một điệu buồn vô ngôn khó tả. Bài thơ không những bộc lộ những cảm nhận khi về thăm lại quê nhà còn đồng thời hiện lên những ký ức quá khứ chỉ còn là phế tích. Sau đó là những tư duy dành cho chính nơi ông đang sống như một quê hương thứ hai, nơi này, “con người” cũng tàn tạ theo một kiểu cách của thời đại tân tiến văn minh, trong khi trái đất càng ngày càng lâm vào tình trạng báo động do con người đang tâm hủy hoại địa đàng của sinh loại. Tư duy mang tính trăn trở triết lý và ẩn hiện lấp ló tính vô thường của đạo học phương đông, những phạm trù sâu sắc và vi tế.

 

Dĩ nhiên, tất cả sự tưởng tượng và lạm bàn bằng mượn bài thơ của thi sĩ Trịnh Y Thư chỉ là sự phóng tưởng của người viết. Có thể nhà thơ sau khi đọc bài tản mạn phiếm bàn này, sẽ mỉm cười một cách hiền hòa rằng tôi không có bất kỳ ý tưởng nào như bài viết nói lung tung lang tang này, đây chỉ là một bài thơ thơ mộng, một câu chuyện tưởng tượng bằng ngôn ngữ thi ca, như một vở kịch câm hay như một phim câm của Charlot, sự diễn tả bằng hành động và nét mặt tùy cảm nhận của khán giả mà quy cho là hài kịch hay bi kịch. Thơ mang tính cảm xúc chứ không mang tính lý luận.

 

Dù nói thế nào, thì thi ngữ và ý ngữ của bài thơ Phế tích của ảo ảnh đã tác động đến cảm xúc của tôi, làm dâng tràn tuôn ra những tưởng tượng khi thả hồn bồng bềnh trôi theo hơi thở của bài thơ mà tưởng nhớ đến một quê hương chỉ còn nằm trong trí tưởng, trong giấc mơ, trong ký ức. Quê hương trong ký ức của tôi chỉ còn như một phế tích. Quê hương hiện tại tôi trở về đối diện dường như cũng là ảo ảnh. Quê hương trong tương lai ư? Ngay cả bằng ảo giác phong phú như xảo thuật điện ảnh Hollywood, tôi vẫn không tưởng tượng nổi một quê hương trong tương lai của tôi sẽ như thế nào. Made in USA? Made in China? Hay đã hóa thành một sa mạc hoang vu không có sinh vật vì mỗi hạt cát sa mạc này đều có chất độc chết người? Buồn thay! ...

 

Lê giang trần

11/13/2017, Mùa lễ Thanksgiving.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Ba 202411:17 SA(Xem: 1717)
The fact that Ho Chi Minh proclaimed Vietnamese independence and the formation of the Democratic Republic of Viet Nam [DRVN] on September 2, 1945 did not assure its international recognition. The French—reactionaries and progressive alike— adamantly insisted on the reintegration of Indochina into the French Empire, by force if necessary. Other great powers, for various reasons, independently supported the French reconquest.
07 Tháng Hai 20242:19 SA(Xem: 2769)
Bài này, “Cái Tôi kỳ việt và Âm bản Thành phố/Tình yêu trong thơ tự do Thanh Tâm Tuyền”, được phát triển, bổ sung và mở rộng từ bài viết gốc năm 1986, với tựa “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”, theo tinh thần tựa đề “L’Homme, cet Inconnu” (1935) (Con Người, kẻ Xa Lạ ấy) của Alexis Carrel (Nobel 1912). Một vài chủ đề đã được đưa vào, hay tô đậm, qua một cái nhìn hồi cố và tái thẩm, để làm đầy đặn và làm rõ hơn các đường nét về thơ Thanh Tâm Tuyền, vốn, trong bản gốc nguyên thuỷ, đã được vạch ra nhưng chưa được khai thác kỹ.
07 Tháng Hai 20241:35 SA(Xem: 2681)
Người ta thường chỉ nói về thơ Thanh Tâm Tuyền ở cái thời tuổi trẻ của ông, và gần như không có ai nói kỹ (hoặc tương đối kỹ) về tập “Thơ Ở Đâu Xa”, kết tinh bởi những bài thơ thời sau này của Thanh Tâm Tuyền, đặc biệt là thời ông đã đi qua những hào quang của tuổi trẻ mình, và cũng là thời mà ông đang đi vào, đang đi qua những hiện thực sống động nhất, theo một nghĩa nào đó, của thân phận con người, nói chung, và thân phận thi sĩ, nói riêng, của chính ông. Cũng có ý kiến cho rằng thơ Thanh Tâm Tuyền, trong giai đoạn này, chỉ là thơ thời khổ nạn, tù đầy, không có mấy điều đáng bàn. Ý kiến đó có lẽ nên được xét lại. Con người thi sĩ, đặc biệt những con người thi sĩ với chiều sâu và kích thước như của Thanh Tâm Tuyền, có thể tự thể hiện phong cách độc đáo của mình, tự khám phá hoặc đổi mới mình, trong tứ, trong từ, trong hình ảnh, suy tư mình, trên các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, tiết nhịp, điệu thức, thể loại… trong bất kỳ hoàn cảnh hiện sinh nào của họ.
23 Tháng Mười 20237:38 CH(Xem: 5120)
Even prior to the termination of the war in Europe in the summer of 1945, the United States and the Soviet Union stood out as the leading Great Powers. The United States emerged as the most powerful and richest nation, envied by the rest of the world due to its economic strength, technological and military power. Meanwhile, the Soviet Union surprised all world strategists with its military might. Despite its heavy losses incurred during the German invasion—1,700 towns and 70,000 villages reportedly destroyed, twenty million lives lost, including 600,000 who starved to death in Leningrad alone, and twenty-five million homeless families—after 1942 the Red Army convincingly destroyed German forces and steadily moved toward Berlin.
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 5928)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
05 Tháng Ba 20248:43 CH(Xem: 1601)
Em là sen Hồng thắm / Ngát hồn anh chiêm bao / Đêm dịu dàng xanh thẫm / Sen cười rất ngọt ngào
24 Tháng Hai 20242:39 CH(Xem: 2888)
Mà thơ. chấm. tới phẩy, nào / Dụi mắt. cắm một ngọn sào du dương / Không dưng / nghe một nạm buồn / Hai tay bụm lại / đầu nguồn thiết tha / Suối rất mệt giữa khe già / Tinh anh của đá / ném / xa / đường gần
14 Tháng Hai 20241:28 SA(Xem: 2218)
Tôi đưa tay gõ vào hư ảo / Chân lý mày đang trốn chỗ nào / Hóa ra đen đỏ hai màu áo / Chỉ để làm trò chơi khó nhau
14 Tháng Hai 20241:15 SA(Xem: 1705)
Này anh bạn – anh thấy không / Sự lộng lẫy không nhường chỗ cho điều gì hài hước / Chỉ tiếng nấc thanh xuân mềm yếu / Trên quảng trường nơi vũ hội đàn ông / Vỡ thành cơn địa chấn.
13 Tháng Hai 202411:57 CH(Xem: 1980)
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. Một trùng hợp thật ngẫu nhiên khi tạp chí văn học nghệ thuật Ngôn Ngữ phát hành vào tháng 2-2024 cũng vào dịp Tết Giáp Thìn 2024 ra số đặc biệt giới thiệu Bác sĩ / Nhà văn / Nhà hoạt động môi sinh Ngô Thế Vinh. Năm Rồng, giới thiệu người kết nghĩa với Cửu Long, tưởng không còn gì thích hợp hơn.