- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

VĂN HÀO ERNEST HEMINGWAY

24 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 90989)


 

 thuyvi_1_hl112

 Ernest Miller Hemingway


Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899- 2 tháng 7, 1961) là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Cách viết văn riêng biệt - biểu thị qua đặc điểm lối mô tả khiệm lời và khiêm nhường - cũng như những cuộc phiêu lưu và hình tượng công chúng của ông đã tạo nên nhiều ảnh hưởng cho nền văn chương hư cấu của thế kỷ thứ 20. Ông cho ra đời nhiều tác phẩm giữa thập niên 1920 và giữa thập niên 1950. Năm 1954, ông được trao giải văn chương Nobel Hòa Bình. Tác phẩm của Hemingway gặt hái thành công vì những nhân vật mà ông mô tả chứa đựng sự chân thực dễ cảm thông với độc giả. Rất nhiều tác phẩm của ông được liệt vào dòng văn chương cổ điển tiêu biểu của Mỹ. Ông đã cho xuất bản 7 tiểu thuyết, 6 tập truyện ngắn, và 2 tác phẩm phi hưu cấu trong lúc còn sống. Sau khi ông mất, thêm 3 quyển tiểu thuyết, 4 tập truyện ngắn và 3 tác phẩm thuộc loại văn miêu tả sự thật đã được xuất bản.

 

Hemingway được sinh ra và lớn lên tại Oak Park, Illinois. Sau khi rời trung học, ông làm việc vài tháng cho tờ Kansas City Star trước khi tham gia vào quân đội Ý để trở thành tài xế lái xe cứu thương trong Đệ Nhất Thế Chiến. Trải nghiệm đó trở thành nền tảng cho tiểu thuyết A Farewell to Arms của ông. Ông đã bị thương trầm trọng và trở về nhà trong cùng năm đó. Vào năm 1922 Hemingway kết hôn với Hadley Richardson, người vợ đầu tiên trong 4 người vợ, và hai người dời về Paris, nơi ông sinh sống bằng nghề đặc phái viên quốc tế. Trong thời gian ở tại đây ông gặp gỡ và chịu ảnh hưởng bởi những cây bút đương thời và giới nghệ sỹ thuộc cộng đồng tha hương của thập niên 1920 còn được gọi là “The Lost Generation.” Tiểu thuyết đầu tay của ông, The Sun Also Rises, đã được ra đời vào năm 1924.

 

Sau khi ly dị Hadley Richardson vào năm 1927, Hemingway tái hôn với Pauline Pfeiffer. Cặp đôi cũng đi đến ly hôn khi Hemingway trở về sau chuyến công tác tường thuật cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha. Ít lâu sau đã ông đã viết tác phẩm For Whom the Bell Tolls. Martha Gellhorn trở thành người vợ thứ ba của ông vào năm 1940, nhưng ông chia tay với bà khi phải lòng Mary Welsh Hemingway sau Đệ Nhị Thế Chiến, cuộc chiến mà ông đã có mặt để chứng kiến ngày D-Day và ngày giải phóng Paris.

 

Ngay sau khi xuất bản tác phẩm The Old Man and the Sea vào năm 1952, Hemingway thực hiện chuyến thám hiểm Phi Châu, nơi ông suýt tử vong trong một tai nạn máy bay. Tai nạn đó đã để lại thương tích và hao tổn sức khỏe trong những ngày còn lại của cuộc đời ông. Hemingway sống cố định tại Key West, Florida, và Cuba trong thập niên 1930 và 1940, nhưng vào năm 1959 ông dời từ Cuba về Ketchum, Idaho, nơi ông tự vẫn quyên sinh vào mùa hè năm 1961.

 

Một số tác phẩm chọn lọc của nhà văn Ernest Hemingway:

 

Indian Camp (1926)

thuyvi_3_hl112Indian Camp là một truyện ngắn viết bởi Ernerst Hemingway. Truyện này được đăng tải lần đầu tiên vào năm 1924 trên tờ báo văn chương The Transatlantic Review, và xuất bản một năm sau đó trong tập truyện ngắn của Hemingway tựa đề In Our Time.

 

Đây là truyện ngắn đầu tiên mà Hemingway trình làng nhân vật Nick Adams. Trong câu chuyện cha của Nick Adams, một bác sĩ ngoại ô, được gọi đến phụ trách ca đỡ đẻ. Nick cùng ông chú đi theo vị bác sĩ, người bị buộc phải thực hiện một cuộc giải phẫu khẩn cấp trên người đàn bà mang thai. Sau đó, chồng của bà bị khám phá ra đã chết bằng cách dùng dao cắt cổ họng mình trong quá trình cuộc giải phẫu.

 

Giới chuyên gia phê bình đánh giá cao truyện ngắn này vì nó biểu lộ phong cách viết văn theo lối tương phản của Hemingway, và những chủ đề đặc thù khác tỏa rộng trong nhiều tác phẩm sau này của ông.

 

The Sun Also Rises- Mặt Trời Cũng Mọc (1927)

 

thuyvi_2_hl112Đây là quyển tiểu thuyết quan trọng đầu tiên bởi Ernerst Hemingway. Xuất bản vào năm 1926, nội dung tập trung vào một nhóm kiều bào sống tha hương người Mỹ và người Anh tại lục địa Âu Châu trong thập niên 1920. Câu chuyện đi theo nhóm này từ Paris đến lễ hội đấu bò tại Pamploma. Tựa đề nguyên thủy của tác phẩm này đã là Fiesta, vốn được dùng trong ấn bản tiêu thụ tại Anh Quốc, Đức, Nga, Ý, Tiệp Khắc và Tây Ban Nha. Tác phẩm này thường được cho là tiểu thuyết hay nhất của Hemingway. Nhân vật chính trong The Sun Also RisesTime đưa tiểu thuyết này trên bảng danh sách 100 tác phẩm Hoa Kỳ hay nhất từ năm 1923 đến năm 2005. là Jake Barnes, một nhà báo tha hương ở lứa tuổi 20, đang sống tại Paris. Barne trở nên bất lực do một vết thương trong cuộc chiến, mặc dù nguyên nhân gây nên vết thương này không được mô tả đến. Anh yêu Phu Nhân Brett Ashley, một phụ nữ người Anh từng 2 lần ly dị, đang trong lứa tuổi 30, người có được danh tước từ cuộc hôn nhân trước của bà . Brett để tóc ngắn và là hiện thân của sự tự do tình dục mới bùng nổ của thập niên 1920 và đã qua nhiều mối tình trong đời. Tác phẩm này đã giúp Hemingway nổi tiếng và tạo cảm hứng cho phụ nữ trẻ trên khắp nước Mỹ để tóc ngắn và ăn mặc giống như vị nữ anh hùng trong truyện - và mang thái độ cũng tương tự - và thay đổi đường lối sáng tác vốn có thể tìm thấy trong bất cứ tờ báo Hoa Kỳ nào phát hành trong vòng 20 năm sau đó. Tờ báo

 

 



A Farewell to Arms (1929)

 

thuyvi_4_hl112A Farewell to Arms là tác phẩm thể loại tự truyện viết bởi Ernest Hemingway, xuất bản vào năm 1929. Tác phẩm được kể lại qua ánh nhìn của trung úy Frederic Henry, một người lính Hoa Kỳ giữ trách nhiệm lái xe cứu thương trong quân đội Ý vào Đệ Nhất Thế Chiến. Tựa sách được trích từ một bài thơ bởi kịch tác gia người Anh George Peele của thế kỷ thứ 16. Tiểu thuyết này kể về những kinh nghiệm trong Đệ Nhất Thế Chiến của Hemingway và mối liên hệ tình cảm với Agnes von Kurowsky ở Milan. Trên bề mặt, A Farewell to Arms là một thảm kịch tình yêu giữa một người lính Mỹ Frederic Henry, và Catherine Barkley, một y tá người Anh. Mặt dưới chiều sâu, quyển sách này nói về Đệ Nhất Thế Chiến và nghịch cảnh cá nhân bao trùm trong một khung cảnh lớn hơn của thảm kịch vĩ đại. Câu chuyện mô tả sự ích kỷ thờ ơ của người lính chiến và sự mất mát dời đổi của dân số. Vị trí của Hemingway là một nhà văn Hoa Kỳ đã được bảo toàn với sự xuất hiện của A Farewell to Arms. Tiếu thuyết này đã được chuyển thể thành phim vào năm 1932 và một lần nữa vào năm 1957.

 

The Short Happy Life of Francis Macomber

The Short Happy Life of Francis Macomber (Cuộc Đời Ngắn Ngủi Nhưng Vui Vẻ của Francis Mabomber) là một truyện ngắn của Ernerst Hemingway, lấy bối cảnh tại Phi Châu và đã được đăng tải vào tháng 9, 1936 trên ấn bản của tờ Cosmopolitan.

Francis Macomber và vợ Margaret đang trên một chuyến đi săn tại Phi Châu được hướng dẫn bởi chuyên gia săn bắn Robert Wilson. Vào lúc ban đầu, Francis bị hoảng hốt khi một con sư tử bị thương chuẩn bị tấn công ông. Margaret chế nhạo Macomber cho cử chỉ hèn nhát này và cùng lúc ngụ ý bà đang ngoại tình với ông Wilson.

Ngày kế tiếp cả đoàn đi săn bò rừng. Macomber tham gia cùng với Wilson giết được hai con và không còn sợ hãi nữa. Con bò rừng đầu tiên đã bị thương và chạy trốn trong bụi rậm. Wilson cùng Macomber đi theo vết tích để tìm kiếm con thú bị thương, trường hợp tương đương với tình cảnh của ngày săn sư tử trước đó. Khi họ tìm thấy con bò rừng, nó chạy tới tấn công Macomber khi ông đứng trên đất và bắn vào nó. Ông bắn quá cao, và Wilson cũng bắn vào con vật, nhưng nó vẫn chạy tới. Macomber bắn khá hơn và giết chết con bò rừng trong giây phút cuối cùng, trong khi Margaret bắn một phát súng từ chiếc xe. Phát súng của bà bắn hụt con bò rừng và giết chết Macomber. Wilson tỏ ý rằng Margaret đã cố tình giết chết ông.

 

For Whom the Bell Tolls

thuyvi_5_hl112For Whom the Bell Tolls được xuất bản vào năm 1940, kể về câu chuyện của Robert Jordan, một thanh niên Hoa Kỳ trẻ trong đội quân của những người tình nguyện chống lại chủ nghĩa Phát Xít và sự gắn bó của anh với một toán quân Cộng Hòa du kích trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Là một chuyên gia về thuốc nổ, anh được giao nhiệm vụ làm nổ một cây cầu trong một cuộc tấn công thành phố Segovia. Cuốn tiểu thuyết này được nhìn nhận là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Hemingway.

 






The Old Man and the Sea

 thuyvi_6_hl112

The Old Man and the Sea (Ông Già và Biển Cả) được viết tại Cuba vào năm 1951 và xuất bản vào năm 1952. Đây là tác phẩm quan trọng cuối cùng trong loạt truyện hư cấu được sáng tác bởi Hemingway. Câu chuyện tập trung vào nhân vật Santiago, một ngư dân lớn tuổi gốc Cuba, người phải vật lộn với một con cá dao không lồ ngoài biển khơi.

 





A Moveable Feast

thuyvi_7_hl112A Moveable Feast là bộ hồi ký viết bởi nhà văn Ernest Hemingway, kể về những năm ông sống tại Paris và thuộc trong thành phần của những người viết Hoa Kỳ sống tha hương vào thập niên 1920. Tác phẩm mô tả thời gian học nghề của một tay viết trẻ tại Âu Châu (đặc biệt tại Paris) trong thập niên 1920 với người vợ đầu tiên, Hadley. Một số người nổi tiếng sau này được giới thiệu trong quyển hồi ký của ông bao gồm Aleister Crowley, Ezra Pound, F. Scott Fitzgerald, Ford Madox Ford, Hilaire Belloc, Pascin, John Dos Passos, Wyndham Lewis, James Joyce và Gertrude Stein. Tác phẩm đã được biên tập từ những bản thảo của ông bởi người vợ thứ tư là bà Mary Hemingway - một nhà báo được kính trọng -và đã được xuất bản vào năm 1964, ba năm sau ngày ông qua đời. Một ấn bản khác cũng được viết lại bởi cháu trai ông là Sean Hemingway và xuất bản vào năm 2009. Cả hai ấn bản này đều bị chỉ trích trầm trọng.

 





True at First Light

thuyvi_8_hl112True at First Light đã được xuất bản sau khi nhà văn Ernest Hemingway qua đời vào năm 1999 trong ngày lễ kỷ niệm 100 năm của danh hào. Tác phẩm này đã không được hoàn tất trước khoảng thời gian ông Hemingway tự vẫn vào tháng 7, 1961. True at First Light kể về chuyến đi săn đến miền Đông Phi Châu vào năm 1953 của Hemingway với người vợ thứ tư, Mary. Tác phẩm đi sâu vào xung đột hôn nhân, xung đột văn hóa và nỗi lo sợ mà một nhà văn phải đối diện khi viết lách trở thành khó khăn bất khả, trong khi mặt nổi mô tả một chuyến đi săn tại Kenya.

Khi chuyến đi săn kết thúc, vào tháng 1, 1954, Hemingway cùng vợ bị thương tích liên tiếp trong hai tai nạn rớt máy bay vào thời gian cách biệt chỉ hai ngày. Mặc dù giới báo chí quốc tế đưa tin ông đã chết, ông cuối cùng đến được Entebbe để trực tiếp trả lời các câu hỏi của phóng viên. Chỉ nhiều tháng sau đó, khi ông trở về lại Âu Châu, thương tích trầm trọng đó mới được biết đến.

Phần nhiều trong hai năm sau đó ông hồi phục sức khỏe tại Cuba và làm việc với bản thảo mà ông xem như cuốn sách cuối cùng về Phi Châu mà ông không thể hoàn tất. Vào thập niên 1970, sau cái chết của ông, Mary đã biếu tặng bản thảo chưa hoàn tất này cho thư viện John F. Kennedy; và vào cuối thập niên 1990 bản thảo này được trao trả cho con trai ông – Patrick - người đã biên tập lại hơn phân nửa tác phẩm trước khi xuất bản. Qua hành động đó, Patrick khẳng định anh củng cố lại câu chuyện và nhấn mạnh thêm những khía cạnh hư cấu, kết quả là sự kết hợp của hồi ký và tiểu thuyết hư cấu.

True at First Light nhận được phê bình khen chê lẫn lộn, khi được đồng xuất bản với Hemingway Ltd. Line, thương hiệu giới thiệu những di vật của nhà văn Earnest Hemingway.

Vũ Thuý Vi lược dịch

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Tư 20241:51 SA(Xem: 7747)
Vô cùng thương tiếc khi được tin: Nhà văn, Sử gia NGUYÊN VŨ - VŨ NGỰ CHIÊU Sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942, tại Phụng-Viện-Thượng, Bình-Giang, Hải-Dương, VN. Mệnh chung ngày 19 tháng 4 năm 2024 tại Houston, TX Hoa-Kỳ. Hưởng Thọ 82 tuổi
31 Tháng Tám 202311:33 CH(Xem: 13091)
Sunday afternoon, September 2, 1945. High on a stage at Cot Co [Flag Pole] park—which was surrounded by a jungle of people, banners, and red flags—a thin, old man with a goatee was introduced. Ho Chi Minh—Ho the Enlightened—Ho the Brightest—a mysterious man who had set off waves of emotion among Ha Noi's inhabitants and inspired countless off-the-record tales ever since the National Salvation [Cuu Quoc], the Viet Minh organ, had announced the first tentative list of the "Viet Minh" government on August 24. It was to take the Vietnamese months, if not years, to find out who exactly Ho Chi Minh was. However, this did not matter, at least not on that afternoon of September 2. The unfamiliar old man — who remarkably did not wear a western suit but only a Chinese type "revolutionary" uniform — immediately caught the people's attention with his historic Declaration of Independence. To begin his declaration, which allegedly bore 15 signatures of his Provisional Government of the Democ
10 Tháng Mười 20244:15 SA(Xem: 625)
Tôi trở về Half Moon Bay / Đếm từng con sóng biển / Đếm từng nỗi ưu phiền / Lòng buồn như sương mù / Từ độ ánh trăng tan...
05 Tháng Mười 20244:58 CH(Xem: 1498)
NCT sinh năm 1948 tại Vũng Tàu, cha mẹ là người Hà Nội. Từ đầu những năm 1950er NCT lớn lên ở thành phố Sài Gòn, học tiểu học ở trường Bàn Cờ, trung học ở trường Chu Văn An. Năm 1967 ông từ chối những học bổng của những quốc gia khác, chọn học bổng quốc gia (VNCH) để sang CHLB Đức du học. Tại Viện Đại Học Stuttgart NCT học Triết học và Toán Học & Cơ Học Áp Dụng. Vào thời điểm đó những triết gia Đức có tiếng như Martin Heidegger, Karl Jaspers, hay Ernst Bloch đã hưu trí, ông đã làm luận án tiến sĩ ở Viện Cơ Học & Toán Học Áp Dụng. Ông là sinh viên trẻ nhất xưa nay có bằng Tiến Sĩ Kỹ Sư (Doktor-Ingenieur), vào năm 1977.
02 Tháng Mười 20246:16 CH(Xem: 900)
Chủ nghĩa phê bình văn học thời cổ điển ở phương Đông thường diễn ra trong các hình thức: Bình văn, bình thơ và ca xướng hay ngâm vịnh; trong lúc ở phương Tây thì hình thức khá phổ biến là diễn thuyết và tranh luận. Cái hay của văn chương chỉ trụ vào hình thức diễn đạt một phần; nhưng sự tinh túy lại là cái “thần” nằm trong góc khuất của cảm xúc và tư tưởng. Bởi vậy, khi nói đến những trường hợp xướng văn, bình thơ hay phê bình văn học đã có rất nhiều văn nghệ sĩ Đông Tây như Jacques Prévert, Francoise Sagan, Mark Twain… ở trời Tây hay Tô Đông Pha, Bùi Giáng…
02 Tháng Mười 20245:30 CH(Xem: 1076)
Những bài thơ dưới đây được tuyển dịch từ cuốn ”Một Trăm Bài Thơ Nhật” rất nổi tiếng của thi sĩ-dịch giả Mỹ Kenneth Rexroth với thơ của các thi sĩ Nhật qua nhiều thế kỷ. Trong cuốn này, dịch giả Rexroth đã nắm bắt được rất nhiều tích cách tinh tế của thi ca cổ điển Nhật Bản: chiều sâu của niềm đam mê chừng mực, văn phong sang trọng khắc khổ, và hình tượng phong phú nhưng cô đọng. (- Bạt Xứ)
02 Tháng Mười 20245:12 CH(Xem: 649)
Cách nay hơn chục năm, tôi đã viết: Luân Hoán, người kể chuyện bằng thơ. Tuy nhiên, ngay sau đó tôi đã nhận ra, bài viết chưa thực sự mở ra được hồn cốt, kiến thức và khối lượng sáng tác đồ sộ của ông. Vì vậy, hôm rồi, nhận được tập bản thảo: Nỗi Nhớ Quê Nhà Từ Montreal, do Luân Hoán gửi tặng, dù đang rất bận, tôi cũng dành thời gian đọc ngay. Một cảm xúc khác, Luân Hoán đã để lại trong tôi, khi đọc xong tập thơ dày đến 300 trang này. Thật vậy, Nỗi Nhớ Quê Nhà Từ Montreal như một cuốn hồi ký về tình yêu, cuộc sống chìm vào nỗi nhớ quê nhà được Luân Hoán viết bằng thơ: “càng già càng bớt nhớ nhà?/ quẩn quanh nhớ mỗi cái ta thật nhiều/ nhớ từ thời bé hạt tiêu/ phơi nắng giang gió thả diều, đi rông“ (Trí nhớ về chiều)
02 Tháng Mười 20245:02 CH(Xem: 936)
Chồng tôi bị bạo bệnh qua đời được vài năm thì tôi quyết định bán căn nhà cũ và văn phòng địa ốc của anh ấy để dời đi nơi khác, cố quên đi môt dĩ vãng đau thương. Tôi đã quá mệt mỏi với công việc làm ăn mà xưa kia anh ấy luôn gánh vác những phần nặng nhọc nhất. Chồng tôi là một người hiền hòa, hoạt bát rất lo cho vợ con, cho nên sự ra đi của anh ấy đã mang theo không những một chỗ dựa vững chắc cho mẹ con tôi mà cả linh hồn và thể xác của tôi.
02 Tháng Mười 20244:46 CH(Xem: 1085)
Đối với người xa quê, cứ đồng hương là thân nhau rồi, hà huống lại là nhà văn. Thường các nhà văn rất thích gặp nhau, có thể bàn với nhau những dự định sáng tác, động viên nhau khám phá thi pháp mới. Thân hơn nữa, đọc bản thảo của nhau, góp ý để sửa chữa tác phẩm tốt hơn, hay hơn... Tôi viết rất chậm, ba bốn tháng mới viết được một truyện ngắn. Còn Nguyễn Anh thì ngược lại, chỉ vài tháng đã có tiểu thuyết gáy dày như hòn gạch. Bao giờ viết xong anh cũng in ra, đóng thành tập, có bìa giả như một luận văn tiến sĩ, đưa tôi đọc, nhờ góp ý. Tiểu thuyết của anh là loại tình cảm xã hội nên hấp dẫn, tôi đọc một hai bữa là xong mà không thấy quá vất vả. Mới có mấy năm anh đã có hơn năm mươi đầu sách. Tác phẩm ra ào ạt nhưng anh vẫn chưa nổi tiếng trên văn đàn. Trong giới viết lách chẳng mấy người biết đến Nguyễn Anh.
02 Tháng Mười 20244:38 CH(Xem: 1303)
Như tuổi trẻ của chúng ta, hôm nay / Thứ hoàng hôn oằn mình rực rỡ / Đang chìm dần / Khuất vào nơi biển lạnh. / Bình minh rồi sẽ mọc / Nhưng không thuộc về chúng ta.