- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Marie Ndiaye, Ba Thục Nữ Giàu Nghị Lực

05 Tháng Mười Một 200912:00 SA(Xem: 11833)
ndiaye-m-final_0_300x221_1

Giải Goncourt 2009:

Đúng như giới phê bình và độc giả mê văn học dự đoán, trưa ngày 2 tháng 11/2009 này viện Hàn lâm Goncourt đã chánh thức công bố giải thưởng hằng năm của mình cho nhà văn nữ Marie NDiaye, tác giả cuốn Trois Femmes Puissantes (Ba thục nữ giàu nghị lực - Nxb Gallimard). Ngay vòng đầu: năm phiếu cho Marie NDiaye, hai cho Jean-Philippe Toussaint, tác giả cuốn La Vérité sur Marie (Sự thật về cô nàng MarieNxb de Minuit) và một cho Delphine de Vigan, tác giả cuốn Les Heures Souterraines (Giờ khắc trong bóng tốiNxb Jean-Claude Lattès).

 Đây là lần thứ 10 trong số 106 lần tặng giải (nói cách khác: chưa đầy một phần mười), viện Hàn lâm Goncourt tôn vinh một nhà văn nữ. Tỉ lệ thấp kém này thật tình không phản ảnh đúng mức thực tế nhận thấy trong môi tường văn học Pháp đương đại: phái nữ chiếm đa số trong giới làm văn và người đọc. Có một sự thiên vị nào chăng về giới tánh trong các ban chấm giải từ hơn một thế kỉ nay?

Văn chương chữ nghĩa 

 Từ hai mươi lăm năm nay, Marie Ndiaye đã cống hiến cho độc giả chúng ta hơn mười cuốn truyện – không kể kịch bản và sách dành cho thanh thiếu niên. Tiều thuyết có, truyện ngắn truyện vừa (Pháp gọi là nouvelles) có, thảy đều nửa thực nửa ảo. Thuật nhiều câu chuyện đắm mình trong bầu khí kinh dị, mập mờ, huyễn hoặc, lạ kì. Bút pháp, văn phong khi thì bóng gió mỉa mai khi thì băn khoăn khắc khoải, hiện thực và huyền ảo không ngừng đan cài vào nhau. Khiến cho chúng tôi, chúng ta không khỏi nghĩ tới các truyện ngắn của Ngô Tự Lập, đặc biệt trong tập Mộng du và các truyện khác (Nxb Văn học – 1997).

 Sanh năm 1967 ở thủ phủ Pithiviers thuộc tỉnh Loiret, cách thủ đô Paris độ chừng 100 km. Cha gốc Xênêgal châu Phi - về nước bặt tin ; mẹ người Pháp - là nhà giáo, một mình gà mái nuôi con, hai đứa. Cả hai nay đều thành danh ý toại - Pap NDiaye, con cả, là nhà sử học chuyên trách vấn đề da màu, còn con em Marie NDiaye thì vào tuổi 12 đà ngọ nguậy viết lách. Năm năm sau, cô học trò vị thành niên gởi qua bưu điện bản thảo đầu tay của mình cho nhà xuất bản de Minuit, được ông giám đốc Jérôme Lindon (1926-2001) chú ý, thích thú đọc qua.

 Người ta kể rằng chính ông đã đích thân lái xe đến tận trung học Lakanal nơi cô đang mài đũng quần, kí hợp đồng với tác giả mới lên 17 này, rồi in ấn phát hành ngay liền tác phẩm đẩu tay Quant au riche avenir (Còn như tương lai xán lạn – 1985) của cô. Cuốn truyện được giới phê bình đón chào nồng nhiệt, hệt như, hơn ba mươi năm trưóc, họ đã hoan nghinh nhiệt tình cuốn truyện đầu tay Bonjour tristesse (Buồn thay thế sự - 1954) của Françoise Sagan (1935-2004) cũng mới vừa tròn 17 (1). Ngay sau đó, tác giả nhận được một bức thư khen ngợi của một độc giả chưa quen biết, nhưng sắp trở thành nhà văn là ông Jean-Yves Cendrey. Họ tâm đồng ý hợp với nhau, rồi thành vợ thành chồng. Cơ hội thúc đẩy Marie NDiaye quyết tâm dành trọn thởi gian cho nghiệp dĩ văn chương.

 Chỉ trong vòng hai mươi lăm năm, rìêng về số lượng, bà đã cho ra mắt độc giả và khán giả đếm có 12 cuốn truyện, 6 kịch bản, 3 tác phảm dành cho thanh thiếu niên. Còn về chất lượng, thì bà đã nhanh chóng trở thành một trong số rất ít nhà văn tầm cỡ, độc đáo, khác thường cùng thế hệ với mình. Độc giả đã ngưỡng mộ, ham chuộng kiệt tác Rosie Carpe (Rosie Carpe – Nxb de Minuit), giải Fémina 2001. Năm 2003, với vở Papa doit manger (Ba cần phải ăn uống), bà là kịch tác gia còn sống duy nhứt được Nhà hát quốc gia (Comédie Française) ghi vào tiết mục trình diễn của mình. Riêng cuốn La Diablesse et son Enfant (Con quỉ cái với đứa con mình) xuất bản năm 2000, thì được độc giả trẻ đọc ngốn nghiến, thích thú vô ngần.

Tác phẩm trúng giải

 Ba thục nữ giàu nghị lực, Trois Femmes Puissantes. Một nhan đề thoạt nhìn tưởng chừng là câu chuyện ba người đàn bà mạnh dạn, khỏe khoắn, xương cốt cứng cỏi. Nhưng không, ba nhơn vật Norah, Fanta, Khady thảy đều diễn hành trong những tình thế chẳng hay ho gì. Nhục nhã, sượng sùng, hổ thẹn, đắng cay, thù hận, giận dữ, đau xót… Cả ba thảy đều trải qua trạng huống đọa đày, tội tổ tông như đã nhúng chàm khó bề xóa sạch vượt khỏi.

 * Norah, một luật sư vào độ tứ tuần, rời Paris, bỏ lại gia đình, đồng nghiệp và công ăn việc làm, sang châu Phi thăm cha. Cuộc tái ngộ sau bao nhiêu năm trời xa cách giữa người cha và đứa con lần hồi diễn ra trong cảnh đau lòng, khi đứa con nhận thấy tánh tình bẩm sanh gian dối, vị kỉ, trí trá và cả tội tình của người cha. Thử thách đả phá lứa đôi, quan hệ con cái, kí ức, lí trí – tóm lại là cả cuộc đời của mình. Còn * Fanta thì, ngược lại, rời xứ sở Xênêgal theo chồng qua Pháp. Thế là nàng ủ rũ buồn rượi và lụi tàn, heo hắt ở tỉnh lẻ và trong cuộc sống tầm thường, eo hẹp, tẻ nhạt. Cô đâu có biết chánh xác nguyên cớ bắt Rudy, chồng mình, phải rời khỏi Xênêgal và buộc phải trở về Pháp. Rudy đâu có nói cho cô hay rằng hắn « đã đánh mất hết trơn danh dự Xênêgal từ lâu rồi. » * Và Khady, người gốc da màu, còn trẻ nhưng đã góa chồng. Bị gia đình nhà chồng ruồng rẫy, xua đuổi, buộc phải xa xứ vì nghèo đói, cô độc, tuyệt vọng. Quá giang với một nhóm người khác trong cuộc hành trình trốn chạy vô cùng tận, để rồi biệt vô âm tín. Lòng tham, bạo lực, phản bội là những thực thể mà kẻ lén lút băng qua biên giới đương nhiên phải gánh chịu.

 Cuốn truyện mang tựa đề là Ba thục nữ giàu nghị lực, nhưng trong câu chuyện, cả ba nhơn vật đều ngụp mình trong tình cảnh sa cơ lỡ vận, yếu đuối, mỏng manh, bị đè nén, áp bức hơn là tự lập, tự chủ, tự do vùng vẫy. Vậy thì đâu là nghị lực còn lại cho họ? Câu hỏi được chính tác giả giải đáp trong cuộc họp báo sau buổi lễ trao giải như sau: « Trong thâm tâm, tôi cho rằng, bất chấp đủ thứ trở ngại gặp phải trên trường đời, họ thảy đều có một nghị lực vững chắc và bền bỉ trong mình. Ngay cả con người xem chừng yếu ớt nhứt, bị bủa vây bởi vô vàn trở ngại khủng khiếp và tủi nhục, cũng không phẩn chí nản lòng, chỉ vì y thị là con người. Họ thảy đều có một cốt lõi kiên cố, bất diệt, biến họ thành kẻ có nghị lực, dẫu rằng, về mặt xã hội hay nghề nghiệp, họ chẳng có trong tay chút quyền lực nào. » Nói cách khác, những thua thiệt, thất bại, mất mát… mà các nhơn vật Norah, Fanta và Khady trải nghiệm phản ảnh bề trái và, đồng thời, chiếu rọi cho chúng ta trông thấy bề mặt của cuộc đời ẩn núp đằng sau tấm màn dầy đặc trường cửu. Hệt như nhà văn Pháp giải Nobel 1957 Albert Camus (1913-1960) đã giãi bày trong tác phẩm đầu tay L’Envers et l’Endroit (Bề trái và bề mặt – 1937). (2)

Phối hợp

 Ba thục nữ, ba câu chuyện riêng tư lồng vào nhau, hợp thành một cuốn tiểu thuyết. Cũng trong buổi họp báo nói trên, Marie NDiaye giải thích thêm: « Tôi tạo dựng tác phẩm này như một phối hợp nhạc điệu, nối kết qua một chủ đề chung. Chủ đề này là nội lực của ba nhơn vật. Norah, Fanta, Khady gắn liền với nhau nhờ ở khả năng của họ cùng chung một lòng kháng cự để sống còn. » Và phối hợp này được chuyên chở bằng một bút pháp trong như lọc và với một văn phong thanh tao trang nhã.

 Ít có giải thưởng nào xứng đáng hơn.

 

TRẦN THIỆN - ĐẠO

(Paris, 02/11/2009)

--------------------------

(1) Xem cùng tác giả: Phỏng vấn: Françoise Sagan dưới mắt chính mình (Trần Thiện-Đạo, Cửa sổ văn chương thế giới – Nxb Văn hóa Thông tin, 2003, tr 195-213) và Vĩnh biệt Françoise Sagan (E-van, ngày 28/9/2004).

(2) Xem: Albert Camus, Bề trái và bề mặt (Trần Thiện-Đạo phiên dịch, giới thiệu và chú giải – Nxb Giao Điểm, Sài gòn 1967), hoặc Albert Camus, Tiểu luận – Giao cảm - Bề trái và bề mặt Nxb Văn hóa Thông tin, Hà nội 2004).

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
03 Tháng Mười Một 20142:39 SA(Xem: 29818)
“Đọc thơ Du Nguyên có cảm giác cô ấy góa chồng ngay giữa tuổi trẻ của mình” - đó là nhận định của nhà thơ Bình Nguyên Trang, khi đọcKhúc lêu hêu mùa Hè…
18 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 32649)
Mở đầu cuốn Những cuộc đời song hành , Plutarque viết: “Sossius Sénécion ạ, khi miêu tả Trái đất, các sử gia đẩy ra sát mép bản đồ của họ những vùng đất mà họ không biết và chú ở bên cạnh: “vượt qua ranh giới này chỉ còn là sa mạc hoang vu và thú hoang nguy hiểm” hay “đầm lầy u tối” [1,75]. Hẳn rằng, nếu như không có sự ảnh hưởng trực tiếp, thì Trần Đức Tĩnh đã viết Đối cực (Nxb Trẻ, 2014) cũng với một cảm hứng gần như tương đồng với Plutarque trên góc độ quan niệm có những thế giới song hành, khác biệt nhưng lại tương tác nhân quả lẫn nhau.
17 Tháng Bảy 201412:00 SA(Xem: 33006)
T rong một cuộc hành quân dài ngày cuối năm 1970 thế kỷ trước, chúng tôi những người lính tác chiến của Quân đội Miền Nam Việt Nam, được lệnh trang bị khá chu tất, từ súng đạn tới quân trang quân dụng. Tuy cồng kềnh, nặng trĩu, tôi vẫn cố sắp xếp để ba lô có được một khoảng nhỏ, đủ chứa vài ba cuốn sách, do vợ tôi, bấy giờ còn là “người yêu” gửi ra hậu cứ. Đó là bốn tác phẩm của Y Uyên, Dương Nghiễm Mậu, Hoàng Ngọc Tuấn, và Ngô Thế Vinh. Ba tác giả đầu tôi đọc say mê, đến Vòng Đai Xanh thì khựng lại...
05 Tháng Sáu 201412:00 SA(Xem: 36745)
D ohamide là một tên tuổi quen thuộc trên báo Bách Khoa trước 1975, chuyên khảo về lịch sử và văn minh Chàm. Đã xuất bản năm 2000: “Dân Tộc Champa: Hành trình Tìm về Cội Nguồn”. Xuất thân Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và tốt nghiệp M.A. Đại Học Kansas, Hoa Kỳ. Lớn lên ở miệt Hậu Giang Châu Đốc nên rất am tường về hệ sinh thái Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đây là bài điểm sách thứ hai của anh Dohamide nhân dịp CLCD BĐDS tái bản lần thứ 3.
20 Tháng Ba 201412:00 SA(Xem: 31218)
J . Maulpoix. nhận xét: Thơ là thứ đối tượng của ngôn ngữ khó khăn, một sự dũng cảm, một công việc vĩ đại và biến hóa, đề xuất hay bắt buộc, là sự cô đọng tối đa của sự kiện ngôn ngữ tập trung trong một không gian thu hẹp.
05 Tháng Hai 201412:00 SA(Xem: 34523)
V à chúng ta dễ dàng nhận ra màu đỏ của “Đàn sẻ ri bay ngang rừng” thường xuyên nhất được dùng để tả máu. Máu khi người vợ sinh con, và máu khi những con chim sẻ bị bắn chết: sự đối lập của màu đỏ của bắt đầu sự sống và màu đỏ của bắt đầu sự chết.
19 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 35032)
M ột hiện tượng, tưởng rằng đã chết khi ông Osho tức Bhagwan Shree Rajneesh bị chính quyền Liên Bang Hoa Kỳ trục xuất về Ấn Độ vào năm 1987, nay đang có những chỉ dấu sống dậy, không phải chỉ trong cộng đồng Oregon, Hoa Kỳ như trước đây mà là trong cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại và có thể ở cả trong nước qua một số sách do Osho giảng được Sư cô Thích nữ Minh Tâm và hội Osho International Foundation dịch ra Việt ngữ.
14 Tháng Sáu 201312:00 SA(Xem: 51943)
T ừ trước tới giờ tôi vẫn tuân thủ theo Wallace Stevens “ Người đọc thơ là người hành hương, xuất phát lên đường, giãi bày” (The reader of poetry is a kind of pelgrim setting out, setting forth). Thế nhưng đối với tập thơ “Có Thể” chỉ có 31 bài với số lượng mỏng manh 40 trang khổ 13 x 20, mà tôi phải nghiền ngẫm khá lâu khổ sở hơn cả người hành hương.
10 Tháng Mười Hai 201212:00 SA(Xem: 90753)
S au hơn ba mươi năm kết thúc chiến tranh, những đề tài về chiến tranh dường như cũng biến mất trên văn đàn chính thống Việt Nam. Chúng đã đầu thai kiếp khác hoặc tìm cách trốn ra nước ngoài. Ngồi hong váy ướt, tập truyện mới nhất của Võ Thị Hảo hội đủ hai yếu tố: đầu thai kiếp khác mà vẫn phải chạy ra nước ngoài, tháng 7 năm 2012, tủ sách Thi Văn Hồng Lĩnh của Bùi Xuân Quang ở Paris, xuất bản.
22 Tháng Chín 201212:00 SA(Xem: 88018)
C ách đây hơn 20 năm, Bảo Ninh mô tả chiến tranh như một bộ máy nghiền nát tất cả, trừ tình yêu. Nguyễn Bình Phương tiến thêm một bậc: chiến tranh nghiền nát cả tình yêu chỉ để lại tội ác, không cho con người một hy vọng nào...