- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Du Tử Lê,( Chim Đem Đi: Làm Lễ Tạ Ơn Người!?.)

05 Tháng Bảy 200912:00 SA(Xem: 24849)

blank"đêm bảo dưỡng nụ hôn tôi đã gửi - -
"chim đem đi: làm lễ tạ ơn người!?.)

dtl.

 

 

Không biết đã bao đêm, cứ khoảng hai giờ sáng, tôi lại bị rất nhiều cánh tay gió, mưa hối hả lay, giựt tôi ra khỏi giấc ngủ, muộn. Hai giờ sáng, tôi tỉnh dậy giữa tiếng gió khua, đập, cùng cảm giác giông, bão không nguôi nện gót giầy giận dữ, dưới thấp. Tôi sống chập chờn giữa hai khe hở đời sống. Một thứ nhị trùng hư ảnh: Hiện thực (và,) quá khứ? (Hay sự trộn chấu thất bại đời thường trong dung dịch bóng tối?) Khi tỉnh lại, bao giờ tôi cũng nằm im. Nhắm mắt. Nghe hai con sông ngược chiều, xiết, trôi đôi bờ thân thể tôi, rêm, nhức. Thường khi rất lâu, tôi mới nhận biết: Chuyến bay từ phi trường Houston, đã trả chúng tôi về lại Orange County, có dễ cũng gần một tháng.

S. đã trở lại với chiếc ghế gỗ. Hàng hiên nhỏ. Đường Bellehurst. S. trở lại với những con nắng trưa tháng Ba, lụa xanh, hớ hênh từ những mái dốc, trượt chân rớt xuống lòng đường nền nã, đen - - Cùng những trận ho khan, như những mũi khoan nhỏ xíu xoáy sâu khoảng không gian đặc, khô, tĩnh lặng. Những ngọn dừa nước già làng xù xì lớp da chì, bủng, lênh-bênh không chỉ ngoảnh mặt, khinh bạc, phủ nhận sự hiện diện của đám dừa non ba thân (và,) hàng găng thấp - - (Mà,) chúng còn từ chối ngó xuống những trượt chân tình, nghĩa của bạn tôi - - Đập, va, chới với vực không đáy.

Hy vọng đó không phải là dấu hiệu bạn tôi khởi đầu chuyến viễn du giã từ năm, tháng, khốn.

Riêng tâm hồn tôi cũng đã trở lại ẩn, trú trong ngôi nhà, dài lâu, đường Lucille, đang thay da, đổi thịt. Căn nhà phụ như cây nấm dại lì lợm mọc lên giữa khoảng sân sau, được nhiều bàn tay bằng hữu cơi rộng. Bốn vách ván trở thành chỗ treo tranh. Vung bút tích tung hoành, thơ, văn của khá nhiều tình thân, giờ không dấu vết. Dàn chanh giấy từng "long tranh hổ đấu" với những giây hoa vàng quanh năm - - Lối đi dưới... trái, dẫn vào hành lang (cũng treo rất nhiều tranh, ảnh.) Nơi tôi có nhiều năm ngồi với chiếc computer. Tiếp bạn. Nhả khói mịt mù. Giờ cũng không còn.

Tôi đem tâm hồn tôi tạm trú trên những nhánh cây treo lửng trong hai chiếc chuồng chim lớn (tác phẩm lao động chân tay của họa sĩ N.Đ.T.) Tôi nghĩ mình thật không phải khi đưa cái mặt lơ láo bậm trợn hù dọa đám chim cockatail (vốn đã nhân mãn,) bắt chúng nhường đất cho mình. Cũng có khi tâm hồn tôi mắc võng trên những chạc ổi xá lị thấp tè, hoặc lẩn dưới tán bưởi nậm rượu, sum xuê sát tường hàng xóm. Nơi những đêm mùa hè, hoa bưởi lén lút thoa lên mặt tôi, lớp phấn hương ân cần, thân thiết kỷ niệm. (Cái ân cần, thân thiết kỷ niệm, bất chợt, như những tình cờ chạm đụng một thịt da quen thuộc nào, (mà,) sao bỗng ngậm ngùi choáng váng. Cái ân cần, thân thiết kỷ niệm, bất chợt, đôi khi chỉ thoảng trong ký-ức-khứu-giác, nhưng cũng đủ cho ta ngẩn ngơ tự hỏi, phải đã nghìn năm, xa cách?!...)

Nhưng, cách gì, dù cho những con sông có chảy ngược / xuôi đôi miền lưu vực rêm, nhức thân thể tôi, (thì,) cuối cùng, tôi cũng hiểu ra, những ngày ngắn ngủi, ở Texas, gần nhất, chính là những bàn tay hối hả lay, giựt tôi ra khỏi giấc ngủ, muộn.

Đó là buổi sáng, với Tr3. Tr3. đã đem những cây sồi nứt xương thung lũng Camp Pendleton, tháng mười 75; trồng lại trong cánh rừng quá khứ tôi, tiêu trầm, gió, bão. Tr3. cũng đã cấy lại trên những bờ, luống tôi nhem nhuốc đìu hiu, hình ảnh bằng hữu. Hiểu một nghĩa nào, họ đã đi xa. Quá xa! Họ đã tới những chân trời định mệnh dành riêng. (Những chân trời, đôi khi tôi có thầm mơ ước.) Đó là những Trần Tam Tiệp. Nguyên Sa. Ngọc Dũng. Nguyễn Thừa Dzu... Đó là Thục, của tình cờ, di tản, bật gốc, gặp lại. Là Thảo, chưa qua tuổi hai mươi, trên chuyến xe bus nối Processing Center và trại Một, đọc tôi nghe bài thơ, tôi muốn quên: sinh nhật, 12.

Nhưng, cách gì, dù cho gió khuya hiện thực hay, mưa, bão ẩn ức, tưởng tượng có làm thành nhị trùng cảm, nghiệm rối ren, (thì,) cuối cùng, tôi cũng hiểu ra, những ngày ngắn ngủi, ở Texas, mới đây, chính là những cánh tay lay, giựt tôi ra khỏi giấc ngủ, muộn. Là buổi trưa, với V.N (hay H.) đã ném những đêm mưa, những ngày gió Houston, 1993, vào lại tâm hồn tôi không phên / vách. Những ngày Cao Đông Khánh hiên ngang như một Từ Hải lấn cấn giữa biểu hiện cao bồi miền viễn tây và, người hùng phương đông huỡn huỡn (không... gươm giáo.) Những ngày N. đem cơn điên phơi giữa đường Bell; trước khi mang chăn, gối ngủ trong chiếc xe Toyota cũ (của L.C.) tôi vứt lại nơi parking dài hạn, phi trường. Những tối C. tìm tôi nhầu, nát (như những ngọn cây sung nhầu, nát) đường Milam / Travis...

Hiểu một nghĩa nào, họ cũng đã đi xa. Quá xa. Họ cũng đã tới những chân trời định mệnh dành riêng. (Những chân trời, đôi khi, tôi cũng thầm mơ ước tạt ngang, dừng chân, thăm hỏi.)

Cũng có thể, tôi nghĩ, chính những buổi tối, với Đ.K., P.H., với L.V., N.B, V.K. những thâm giao đã xô, đẩy tôi ngã giập mặt vào những bài thơ cũ / mới. Những bài thơ cũ / mới đi ra từ tôi. Xong. Mất hút. (Như sự mất hút nhiều buổi tối, T. lúp xúp mang về lênh láng những trận mưa dai dẳng cay nghiệt; cùng những con gió thủ trong tay áo, hàng chục lưỡi dao bén, rét, cắt ngọt, thịt, da. Nơi chúng tôi ăn những bữa cơm tối, với giấy báo, trên mặt bàn dã chiến cùng, ngọn đèn treo lửng bấp bênh (và,) tiếng hú quẫn bách của con Cocaine; kéo theo tiếng thở dài ngao ngán (rụt rè) của Tề Thiên, Chí Phèo.

Tôi đứng ngoài những bài thơ cũ / mới của mình. (Như kẻ lạ mặt đứng trước ngôi nhà có quá nhiều cửa sổ.) Thản hoặc, tôi cũng nghiêng tai, kiễng chân nghe ngóng tiếng động, hình ảnh quen thuộc (hay lạ lẫm,) di chuyển chập chờn trong ngôi nhà.

Không phải tôi không muốn nghe. Trái lại. Nhưng đó là lúc tâm hồn tôi còn ngầy ngật ngổn ngang những hình ảnh ngược / xuôi của xa lộ 290 đông / tây; và 45 nam / bắc.

Tôi vẫn chưa ra khỏi cái ám ảnh của những đám mây đen, nhiều nơi bị xé rách bởi những bệt màu đỏ, máu, cuồn cuộn hung khí; lao về phiá chúng tôi - - Khi chiếc xe của Phương tăng tốc, cố ngốn, nuốt nốt đoạn đường còn lại. Giữa cảnh trời chiều (mà,) chân trời là cả một đường vòng cung không điểm chuẩn, tôi có lại cái cảm nhận lơ lửng, bơ vơ, bất lực của một sinh vật mang tên con người. Tôi muốn nói với Phương, dù con người đã cắm cờ trên mặt trăng; tìm thấy chứng tích có nước trên hoả tinh... Nhưng, rốt ráo, nhân loại cũng chỉ là một chấm đen, hay miếng puzzo trong hàng triệu miếng puzzo dưới bàn tay nghịch ngợm, tinh quái của Đấng Một. Nhưng tôi giữ lại riêng mình. Tựa tôi đã giữ lại cho riêng tôi, hình ảnh những gốc rạ khô, cháy lam nham, nhấp nhổm như những chân nhang cắm vụng trong biển cát. Và, những bụi smoking- tree chỉ như những cụm khói èo uột, tét đầu bị gió lùa chạy thục mạng về nơi vô tận. Tôi cũng giữ lại cho mình, hình ảnh những mảnh gương vỡ khổng lồ, hờ hững cẩn bẹt trong những thửa ruộng sát lề đường - - Chứng tích những trận mưa lộn nhào trời / đất. Những tấm gương vỡ, phản chiếu từng khối mây đen (pha máu) tượng hình cổ quái.

Lũ hình tượng cổ quái chụp lên những ngày thơ ấu, tôi, xưa. Những ngày thơ ấu, tôi từng run rẩy, chôn chân trên bậc tam cấp ngôi nhà tôi được sinh ra. Ngôi nhà dẫn xuống bến sông Đáy, Phủ Lý, những năm trước tản cư. Những năm các anh tôi lần lượt bỏ nhà ra chiến khu. Gia đình tôi chỉ còn lại đám phụ nữ, goá buạ (như mẹ tôi,) không chồng, con (như U Già, chị Vú.) Tôi thờ thẫn vào / ra giữa những dẫy nhà (mà,) bất cứ một xó xỉnh nào cũng tồn đọng những bí ẩn hàm hồ, chấp chới rình rập.

Những buổi chiều chuyển mưa, khi những người đàn bà (gồm luôn cả chị T., sinh trước tôi vài năm,) lo thu gom quần áo trên những sợi giây thép, hoặc cuống cuồng xúc những trái mơ vào bao tải, tôi lẻn ra cổng chính, hướng về ngọn núi Vôi, bên kia sông. Ngọn núi vốn mầu xanh tím, đã chuyển thành đen thẫm như một khối than hầm vĩ đại. Nơi từ đó, cuồn cuộn lao tới tôi, những đám mây hung, hiểm. Lần nào tôi cũng cảm tưởng đám mây đang chuẩn bị vươn ngàn cánh tay bạch tuộc, bủa vây lưới, chụp tôi. Rồi, cuốn tôi đi. (Như chúng đang cuốn những chiếc lá, những mảnh giấy về các hố, hầm bí mật.) Lần nào tôi cũng sợ điếng, điếc. Toàn thân tôi tê liệt. Tôi há miệng kêu cứu. Không một tiếng nào thoát đi. Ngặt nỗi, dù sợ vã mồ hôi, tôi vẫn không thể rời mắt khỏi đám mây ma, quỷ biến hóa. Mắt tôi dán chặt vào chúng, như những con gà con lạc mẹ, quíu chân chờ móng, vuốt diều hâu... Tôi chỉ may mắn hơn gà con ở chỗ: Tôi luôn được mẹ tôi tìm thấy, trước khi những hạt mưa khủng bố đầu tiên, rớt xuống.

Tôi nghĩ, cũng chẳng nên nói với Phương (hay S.,) về những hãi hùng ấu thơ, tôi vừa sống lại. Để làm chi, khi mẹ tôi không còn. Chị T. tôi, ở xa. Khi cuối cùng, tôi cũng đã kịp vào nhà Phương.

Cánh cửa đã biệt, ly tôi và, gió, bão.

 

Tôi không biết có phải những ngày ngắn ngủi ở Texas, gần nhất, ở nhà Phương, những gặp lại Bình, Yến, Tâm, Tín, Oanh, Trọng, Hiến, Lài, Trung, Yên, Quỳnh, Nghiệp... nhắc nhở tôi: Phải chăng, đời sống chỉ là tổng số của những điều không thể hiểu? Như, những sống / chết? Những gặp gỡ / chia lìa? Những thành / bại? Còn / mất?

Tôi không biết. Chẳng ai nói với tôi một điều gì dù gần / xa về những những cặp nhị nguyên, vừa kể. Ngay tiếng hát nhỏ nhẹ (như chỉ muốn dành cho một người,) của Hiến. Tiếng hát khuếch đại (tựa không đành bỏ sót một ai, luôn ngọn nến, ly, tách, đĩa, bát trên bàn,) của Quỳnh - - Tiếng guitar biển rộng, mang tham vọng bôi, xóa khoảng cách gia đình / bằng hữu của Phương - - Tiếng cười loảng xoảng những rơi, vỡ, trong hơi men hạnh ngộ của Yên, Bình, Trung, Trọng, Oanh, Tâm, Tín...

Tuy nhiên, điều tôi biết, rất rõ (là,) tôi có thể hình dung Trọng đã trở về với gạch, đá trường thành Alamo của Trọng, ở San Antonio. Bình, Yến trở về ngôi nhà có tầu ngựa, ốm. Hiến, Lài đã ngồi xuống chiếc deck (đang thúc thắc làm dở) cùng ngọn lửa (cũng thúc thắc) dưới thùng bún bò Huế. Phương, Vương đã trở lại vị trí trong ca đoàn, nhà thờ, sáng Chúa Nhật...

Nhưng tôi không thể (dù rất muốn,) hình dung Oanh, Tâm về đâu? Những mái hiên, những ngôi nhà, những ánh mắt nào ngóng, đợi họ? Tôi cũng không thể (dù rất muốn,) hình dung Trung, với hai đứa con nhỏ, ra sao, thế nào, trên dậm trường về lại Dallas? Những gì sẽ ngóng, đợi ba cha con, cuối chân trời, đã lâu, đổ vỡ?

(Và,) cho phép tôi, không hình dung (dù rất muốn,) cảnh đời những người vắng mặt. Những người, theo một nghĩa nào, cũng đã đi xa. (Như tôi,) xa ngái!

 

Bạn tôi, bây giờ tôi hiểu, rất rõ, điều gì đã thức tôi dậy lúc hai giờ sáng, nhiều ngày qua. Tôi hiểu cửa khép. Tôi hiểu, mưa ngoài hiên. Gió cuồng nộ. Chân trời không điểm chuẩn. Tôi hiểu, dù rất xa (hay, quá đỗi gần gũi,) tặng phẩm lớn lao, duy nhất, cuối cùng, thượng đế đã chọn tôi để trao. Gửi.

Bạn tôi, bây giờ, tôi hiểu, dù rất xa (hay, quá đỗi gần gũi,) mùi tóc. Môi hôn. Và, tin cậy thăm thẳm. Lặng thinh. Tất cả (luôn ngày, tháng ngắn ngủi tôi, còn lại,) cũng sẽ được những cánh chim từ tâm đem vào đời, khác.

 

Du Tử Lê,
(Calf. 08.)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Ba 20153:05 CH(Xem: 34739)
LTS: Trong những ngày đầu năm Ất Mùi 2015 Tạp Chí Hợp Lưu nhận được bài viết của tác giả Kim Long viết về nhà thơ Thanh Tâm Tuyền. Kim Long là bút hiệu của một nhà nghiên cứu khoa học. Vì sự tế nhị cùng nhậy cảm, và để tránh những hiểu lầm không cần thiết, chúng tôi sẽ sẵn sàng đăng trên Hợp Lưu những phát biểu (nếu có) của những vị đã viết về Thanh Tâm Tuyền mà tác giả Kim Long có đề cập trong bài. Hợp Lưu trân trọng gởi đến quí bạn đọc và quí văn hữu bài “Viết nhân ngày giỗ thứ chin của nhà văn nhà thơ Thanh Tâm Tuyền”. TẠP CHÍ HỢP LƯU
26 Tháng Hai 20154:33 SA(Xem: 31265)
Nah có nghĩa là Không, và em bảo em đã đi hết vòng tròn của chữ không trong đạo phật rồi. Đối với tôi, em là một loài chim lạ, con chim tuyết trong bài hát Snowbird của ca nhạc sĩ xứ Quebec, Gene MacLellan.
26 Tháng Hai 20154:17 SA(Xem: 32400)
Hôm nay, chúng tôi trở về thăm lại nền nhà xưa của nội. Ngày ba sống đã từng ao ước sẽ dẫn đàn con trở về thăm quê cũ. Bây giờ nếu ba còn sống, chắc ông sẽ hạnh phúc lắm. Khu vườn của nội cây chằng chịt, nền đất cũ hoang tàn, ngôi nhà tranh vách đất của nữa thế kỷ trước vẫn đứng im lìm trong nắng sớm. Cây cổ thụ có một tổ ong to đang làm mật. Chu vi khuôn viên đã bị lấn chiếm nhiều.
18 Tháng Hai 20156:51 SA(Xem: 28740)
Tết thường được nhắc đến với những món ăn đặc trưng “thịt mỡ dưa hành,” và những mùi hương gây nhớ “thoảng mùi khói pháo thoảng mùi nhang.” Nhưng mỗi đứa trẻ mang theo nó một món ăn một hình ảnh một mùi hương riêng, không hẳn giống như những gì chúng ta thường gợi nhắc.
17 Tháng Hai 20153:10 SA(Xem: 29566)
Năm Mùi lại sắp đến và ta thường hỏi là tại sao tên gọi là Mùi, không là dê, dương hay vị ...? Phần này đưa ra vài cách nhìn hầu giải thích phần nào các lý do dẫn đến hiện tượng trên.
28 Tháng Giêng 20151:28 SA(Xem: 32052)
Anh G thân mến, Gửi bài cho anh về hội họa để cho vào Văn Học số sau, chẳng nhớ tôi có nói gì về hai cái truyện ngắn của Mai Kim Ngọc và Vũ Quỳnh Hương không? Hai truyện của Thế Giang quả là đặc biệt. Nhưng tôi nghĩ “khám phá” lớn kỳ này của Văn Học là MKN và VQH. Rất khó tin rằng đó là hai cây bút mới. “Mới” từ lúc nào?
13 Tháng Giêng 201512:08 SA(Xem: 31892)
Sài Gòn tháng Mười Hai, tôi về trời nóng dịu và nắng êm. Nơi phi trường, anh Hải quan trẻ tuổi hỏi nơi sinh của chúng tôi và lập lại _ Sài Gòn, Hà Nội _ với một nụ cười. Ra khỏi phi trường em gái tôi nói cho tôi hiểu, anh ta nháy mắt với bạn đồng nghiệp đứng kề là không có tiền kẹp vào passport đó.
09 Tháng Giêng 201512:49 SA(Xem: 32474)
Cách đây ít lâu tôi đọc một bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai với tựa đề “Hầu chuyện với anh Trương Tấn Sang” bài viết của ông xoay quanh hiện trạng của đất nước. Như một lời nói thẳng, nói thật, một lời tâm tình dựa trên câu nói mớm của ông Trương Tấn Sang khi tiếp xúc cử tri tại Sài Gòn. Ông Sang nói: “Chúng tôi sẵn sàng nghe những ý kiến cay đắng”.
21 Tháng Mười Hai 201412:28 SA(Xem: 30456)
Rỗng, vì điểm lại, từ hồi tôi biết đến giờ, từ hồi cụ ngoại tôi còn sống đến giờ, cả họ nhà tôi, chưa ai có được một mối tình đầu bạc răng long, chung thủy một lòng, nồng nàn như nhất để tôi có dịp nắc nở ghen thầm và mơ thầm.
13 Tháng Mười Hai 20142:47 CH(Xem: 32756)
Bài viết chỉ là hồi tưởng với những kỷ niệm rất riêng tư về một người bạn tấm cám Nghiêu Đề, với mối giao tình hơn nửa thế kỷ; người viết không ở trong giới hội hoạ nên cũng không dễ dàng để viết một hoạ sĩ tài hoa, sáng tác tuy ít nhưng đã để lại dấu ấn lâu dài trong lãnh vực nghệ thuật tạo hình của Việt Nam, qua một giai đoạn đầy sáng tạo trong những năm 1960-1970 với Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam mà Nghiêu Đề là một trong những thành viên sáng lập với cá tính nổi bật. (Ngô Thế Vinh)