- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Tình Bạn, Làm Nên Bó Hoa Giữa Đời Sống Khốn Cùng

11 Tháng Mười Một 200812:00 SA(Xem: 22573)

Món quà lớn nhất mà tôi có thể nhận được
w-final3-hopluu92-224_0_106x300_1từ người khác là được họ nhìn thấy, được hiểu,
được chạm tay vào người.

Nói đến Du Tử Lê, người ta thường nhắc đến thơ tình. Điều đó cũng đúng, nhưng không đủ. Giữa những cay đắng tình yêu và vùi dập của đời, tình bạn, nhất là thứ tình giữa những người đàn ông, nuôi dưỡng chúng ta. Con đường của mỗi người, đi ra từ cuống rốn vừa lìa, xa xôi vạn dặm. Mỗi người biết: đó là con đường khó khăn , bởi vậy, chúng ta cần những người đồng hành. Tình bạn Du Tử Lê còn là một tình bạn của chiến tranh, ly loạn:

Virginia Satir

Chúng tôi lớn: sông nghìn năm đứt khúc

Thồ nỗi buồn lên núi. Cột mây chơi

Năm mươi tuổi: hai chục năm luân lạc

Những anh hùng, tài tử hóa lem nhem

Đời dẫu nhận hay xua thì cũng vậy

Chúng tôi buồn hơn núi thọ tang sông

(Thơ Ở Một Thời Của Những Người Không Tuổi Trẻ )

 

Đọc thơ anh, những bài nổi tiếng về quê hương, bao giờ cũng có dấu vết của tình bạn đằm thắm thiết tha, trong đó có tình đồng đội. Thơ Đường Trung Hoa và thơ cổ Việt Nam có hai đề tài lớn là thiên nhiên và tình bạn. Khoảng năm mươi năm trở lại đây, các nhà thơ ngày càng ít viết về nó. Vì sao ? Nhiều lắm là nỗi buồn nhớ bạn của Huy Cận man mác, ngậm ngùi, với một chút hoang mang của thời đại lúc bấy giờ, tuy đã bắt đầu biến động nhưng chưa hẳn là nhiễu nhương.

Người ở bên trời, ta ở đây

Chờ mong phương nọ, ngóng phương này

Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm

Vạn lý sầu lên núi tiếp mây

 

Nắng đã xế về bên xứ bạn

Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy

Trông trời bốn phía không nguôi nhớ,

Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay.

(Vạn Lý Tình, Huy Cận)

 

Với Du Tử Lê tình bạn mới hơn, thô ráp và cụ thể hơn, vì thế, thật hơn. Khi chưa được gặp anh, đọc những câu thơ sau đây, tôi có cảm giác anh là người rất quý và thương bạn bè, những kẻ cùng trang lứa, cùng chia nhau những ngọt bùi lịch sử .

Ba mươi năm lẻ ai ngờ được

Tao với bay giờ gặp lại đây

Chiến tranh đã dứt nhưng thương tích

Vẫn ở cùng tao, ở với bay

 

Bay đã kinh qua địa ngục đời

từng nhìn binh biến giống trò vui

chiến xa, đại bác bay chơi nổi

bom ném ngang trời cũng được thôi

 

Trận mạc ngày xưa còn chẳng ngán

nhằm nhò chi ít vỉ bia "cua"

cười khan những buổi đi "chà láng"

mà lại buồn so diện "H.O."

 

Nốc rượu nguyên đêm chờ được xỉn

ôi mái trường rêu Chu Văn An

nhiều thằng "thăng" lúc còn hôi sữa

dăm tên đầu bạc kể hung hăng

 

Đạn bom ngốn mất thời trai trẻ

cải tạo khơi khơi năm, mười niên

ra tù mất vợ, con quay mặt

cười gượng ra điều ta vẫn …ngon

(Nhìn Nhau Chợt Thấy Ra Sông Núi)

 

Người xưa nhìn cảnh nhớ người, nhưng Du Tử Lê nhìn người nhớ cảnh. Không phải chỉ có thế, không phải là anh chỉ nhớ, mà là thấy ra. Vì sao? Vì bạn bè anh cũng chính là tâm hồn anh, cũng là hoài niệm, hay hơn thế nữa, là tấm gương thời gian của hiện tại soi vào quá khứ, là tấm gương không gian của nước Mỹ soi thấy Việt Nam.

Thơ là chiếc cầu nối của những tâm hồn cùng thở bầu không khí một thời đại. Qua Du Tử Lê, tình bạn còn là phương tiện tự phát hiện chính mình, con đường dẫn tới nỗi ngạc nhiên của kẻ nhận ra bản thể. Người ta cần có sự dũng cảm và thành thật mới nói được những điều mà anh đã nói trong thơ. Cảm nhận từ trái tim đôi khi khó khăn và khó chịu, thậm chí đau đớn.

Hãy nghe anh kể chuyện đến thăm một người bạn, hồi ở Việt Nam.

Lâu ngày không gặp bạn

Có việc nhờ, nên đi

Nhà bạn xa hun hút

Trong con hẻm âm u

 

Lâu ngày mới gặp nhau

Ta, ngươi cười ha hả

ngươi đi pha cà phê

ta ngồi - nằm trên ghế

 

ngươi quần đùi, áo lá

mặt tối như đêm mưa

bốn mắt ngửa lên trời

lơ mơ trông phát nản

Ngươi hỏi vợ con ta

thừa cơ ta tả oán

vợ con mà nghe ra

chắc chẳng buồn sống nữa

 

lâu ngày không gặp nhau

ngồi gần hết buổi tối

ta về lòng lao xao

cả đêm không ngủ được

(Buổi Tối Ngôi Nhà Diễm Châu)

 

Chữ lao xao của anh, hay quá. Nhiều người cho rằng Du Tử Lê có khuynh hướng tượng trưng và siêu thực, nhưng thật ra giữa các nhà thơ ở miền Nam, thơ anh là một tiếng nói rất hiện thực. Đó là sự phản ảnh đời sống một cách giản dị, không bay bướm, mà vẫn hết sức tài hoa. Khác với những bài thơ của người xưa, viềt về tình bạn trong trạng thái tĩnh, người đọc có thể nhận thấy trong thơ anh một trạng thái rất động. Điều đó có được là nhờ tác giả không chỉ vẽ lại một bức tranh, chủ yếu bằng các danh từ và tĩnh từ, mà còn mô tả các động thái và các biến chuyển tâm lý, với việc sử dụng nhiều động từ trong bài thơ này: đi, cười, pha cà phê, ngồi nằm, ngửa lên trời…

 

Khác với tình yêu, có hạnh phúc cao ngất và đau thương khổ nhục, với những đầy đọa và chia ly, mà sự ra đi của nó để lại bóng tối phủ đầy cuộc đời , tình bạn trong Du Tử Lê ngọt ngào đầy đặn, không khi nào vơi. Anh chạm đến ơn phước, sự thấu hiểu, niềm thanh thản mà tình yêu, và nhục dục, không thể mang lại được. Tình bạn như một dòng sông thu hút về phía mình những dòng suối nhỏ, rồi dẫn ra đại dương không bờ bến, mãi mãi nuôi dưỡng người làm thơ để anh ta lớn lên mà vẫn cứ là mình. Mặc dù chưa từng hỏi Du Tử Lê, tôi đoán rằng anh rất được bạn bè yêu mến. Có điều chưa chắc rằng anh đã biết là bạn bè quanh anh thấy được ở anh nhiều điều rõ hơn là chính anh tự thấy ở mình.

Thấy được ở anh điều gì? Một trái tim mỏng manh yếu đuối. Một tâm hồn chân thật dại khờ? Một người rất cẩn trọng và lịch lãm trong giao tiếp xã hội nhưng thật thà giản dị trong đời sống riêng tư? Một người bạn vừa dễ tính vừa khó tính?

Nhưng sao Du Tử Lê nhớ bạn bè tha thiết đến thế? Tôi để ý dưới nhan đề của các bài thơ thường có sự đề tặng một người bạn hay một người quen nào đó. Khi thì Nguyên Sa. Khi thì Diễm Châu. Khi thì Huy Tưởng. Khi thì một tên tuổi mà người đọc không nhận ra như VT. Đông, G. Hàm, Nguyễn Bá Sanh, Lộc, Thủy, Đăng Khánh, Toàn Bò, Đinh Cường, Ngô Đình Ngân và vân vân… Như một quy luật ở đời, có cho đi thì có nhận lại, mặc dù người cho không hề có dự kiến đó. Có phải vì anh thường nhớ bạn nhiều nên thường có xúc cảm mạnh, có xúc cảm mạnh nên có thơ hay.

Nhớ lại trong đêm nay

nửa đời qua thoáng chốc

bạn bè như lá cây

rụng giữa mùa rất biếc

(Nhớ lại trong đêm nay)

 

Mỗi người đàn ông đều là con của người mẹ, nghĩa là một người nữ. Nhưng tình mẫu tử vẫn không làm cho người đàn ông gần gũi hơn được với phái đẹp . Lìa khỏi bào thai, đứa bé trở thành con trai, rồi người đàn ông, vĩnh viễn cô đơn trong cuộc đời. Họ tìm đến với nhau là phải. Ngẫm nghĩ về tình bạn của nam giới, có nhiều điều thú vị.

I drink too much. My wife threatens separation.

She won’t "nurse" me. She feels "inadequate."

We don’t mix together.

(John Berryman)

 

Vào lúc yếu đuối nhất, người đàn ông thua cuộc đầu hàng. Ở nơi có sự đầu hàng, Thượng đế sẽ đến. Và ngài dắt theo một người đàn ông khác.

Trong thơ, tình bạn còn là ẩn dụ lớn. Qua một người bạn, ta có thể thấy hiện ra một người phụ nữ, hay một thế hệ, hay một quê hương. Hay chính là nhà thơ. Gọi là ẩn dụ, vì khác với nhiều bài thơ khác trong đó tác giả thường dùng chữ "tôi", và nói về mình, những bài viết về bè bạn, nhà thơ thường lùi lại, trở thành cái bóng của bạn mình. Về mặt thẩm mĩ, đây là sự khôn ngoan cần thiết. Ta đọc thấy trong những bài thơ của anh nụ cười tủm tỉm, cái nheo mắt chân tình, sự dễ dãi và phóng khoáng rất đàn ông. Người đọc không cần phải gặp Du Tử Lê ở ngoài đời cũng có thể đọc trong thơ anh, và lại có thể đọc giữa các dòng chữ (between the lines) một cõi tâm tư sâu nặng tình đời.

Tôi thích nhất là bài thơ anh viết về Phạm Nhuận (Montreal, Canada). Sau Tống Biệt Hành của Thâm Tâm và Hành Phương Nam của Nguyễn Bính, tôi chưa thấy bài hành nào có giọng điệu ngân nga, tráng lệ, bi thiết mà lại hàm chứa cảm xúc cụ thể và ngôn ngữ giản dị, trực tiếp và chân thật như vậy.

Ngươi na ký ức về ngang phố

Cất tiếng cười khua rộn núi, sông

Trĩu hai tâm thất mưa năm biển

(riêng biển sau cùng: bạn tứ phương)

 

Ta với ngươi: tiêu! biệt xứ này

Đâu cần quá chén mới nghe say

Hớp chung từng hớp đời dung, tục

Dàn dụa quê nhà: mươi ngón tay

 

Ta biết ngươi quen sống bất cần

Chẳng nghìn tân khách?- cũng vài trăm

Người xưa bại sản vì mê bạn

Ngươi gớm hơn nhiều!- đợ cả con

 

Kẻ sĩ từ lâu lặn hết rồi

Ngươi còn / trơ trọi / bóng / đêm / thôi

Ai không nín thở qua cầu chứ ?

Ngươi vác hoài cây thập giá đời

 

Chí cả nong đầy những vỏ không

Ngươi còn cật vấn chi dòng sông?

Trái tim Quảng Đức xưa không nát

Ngươi nát từ lâu: một tấm lòng

 

Thì ngươi Tạ Tốn khi danh, lợi

Xõa tóc khuya / rừng / gió / hú / khan

Quạnh hiu: vết chém sâu ngang, dọc

Ngựa hất bờm: chê hẹp cánh đồng

 

Áo cơm chuyện nhỏ giờ sao nặng

Đất nước đôi lần cũng nhẹ, tưng

Ồ! Ta hiểu chứ đời co, cụm

Mọi điều hóa giá chỉ ngươi không

 

Hảo hớn ư?- ngươi. Được mấy người

Lỡ niềng quanh cổ nghiệp tay chơi

Đến như giọt rượu không lưu vết

Sống hết ga. Rồi: đi thảnh thơi

 

Mai này thế kỷ sang trang khác

Chẳng có ai thừa hơi hát ngao

Bài ca người vác vây thập giá

Dù, đất còn cho trái ngọt, mù.

(Bài ca người vác thập giá, khai sinh ghi tên, họ: Phạm Nhuận)

Anh Du Tử Lê, có phải là: giữa những tấm gương của bè bạn, anh soi mặt mỗi đêm, giữa những cánh tay thân hữu, anh tự làm mới mình mỗi ngày? Lạ một điều là Du Tử Lê thường chạm đến sự tuyệt vọng khi anh nói về cuộc đời, nhưng tôi lại thấy ở đó, giữa hai dòng chữ của anh, tiếng vang của một niềm hy vọng mơ hồ, hồi hộp, thì thầm bất tận, như tiếng chuông ngân nga giữa những luống hoa. Có phải vì người đàn ông càng tội nghiệp, thì càng đáng yêu, anh ta càng chối bỏ, lại càng thiết tha quay lại. Hay là vì cả một thế hệ của chúng ta đều hoài bão một điều gì mịt mù mà rất thật.

Năm mươi tuổi: chúng tôi không tuổi trẻ

Thiếu quê hương: phế bỏ võ công mình.

 

Tôi nhớ đến cuốn tùy bút Thiếu Quê Hương của Nguyễn Tuân. Nhưng ở Nguyễn Tuân chỉ là nỗi cô đơn của kẻ xa nhà tạm bợ, giang hồ ngắn ngày. Du Tử Lê và bạn bè của anh không được may mắn như thế: họ là những đứa con đẻ rơi của một người mẹ mang thai trong binh lửa. Nhưng tôi vẫn không tin rằng thế hệ của họ không có tương lai, mặc dù có thể không gần, nhưng chưa chắc đã xa. Một tương lai văn hoá và tâm thức.

Tình bạn là một tâm hồn đơn nhất cư ngụ trong hai cơ thể (Aristotle). Nghệ thuật tình bạn vốn là một trong những khía cạnh chủ đạo trong đời sống các nhà thơ xưa, như được thể hiện trong thơ Đường và thơ haiku, ngày nay đã hoàn toàn phai nhạt ở nhiều người. Trong những thời kì đen tối về chính trị, đầy những đàn áp và nghi kỵ, thật dễ hiểu là con người trở nên ít dũng cảm hơn. Nhưng ở nơi nào thiếu sự quả cảm, tình bạn chân thật thường không ghé qua.

Giống thú lớn hiếm hoi dần, tuyệt chủng

Đời sống lưu vong cũng là một nhân tố khác, làm bật gốc rễ của các cộng đồng như phố phường, làng xóm, thôn xã, bà con thân thuộc. Cây tình bạn cần cắm rễ sâu vào đất, và cần thời gian để ra hoa kết trái. Trong vài chục năm qua đời sống đầy thay đổi của người Việt Nam làm cho đất không đủ sâu, tháng năm không đủ chín, lấy đâu ra tình bạn của người xưa? Tôi đã gặp rất nhiều người không có bạn thân, không có nhiều bạn, hay không có bạn nào cả, bất kể họ giàu hay nghèo, sung sướng hay đau khổ, có gia đình hay ở một mình, ở mọi giai tầng của xã hội.Vậy mà đôi khi, một cách lẻ loi, một số người vẫn còn được may mắn ấy. Trong đó có Du Tử Lê. Nhưng thật ra nói cho cùng đó không phải là sự may mắn: một người biết quy tụ xung quanh mình nhiều người bạn là nhờ người đó có một lực quyến rũ đặc biệt. Điều này khác với việc anh ta có một tri kỉ: đôi khi chỉ cần một thôi là đủ, và ở đây sự quyến rũ không có vai trò gì nhiều. Hai kẻ này cần một điều gì đó mà bạn không gọi tên ra được, gần như là một sự tự mình làm trống trải căn nhà của mình, các cánh cửa đều mở hết ra vì nắng gió. Đọc Du Tử Lê, tôi có ấn tượng anh sống rất vui với bạn bè, chia sẻ với họ nhiều điều, nhưng trong thẳm sâu bao giờ cũng cần mẫn chăm chú lắng nghe tiếng bước chân của một người nào đó, một kẻ tri kỉ mà anh đang chờ đợi ở cuối chân tường đời sống, hay bên kia chân trời, và tiếng bước chân nhiều khi chỉ là tiếng lá rơi.

Tôi máng hồn trên lối bạn đi

Ngày sau chưa chắc có ai về

Sáng ra hành lý vào phương khác

Nhớ bạn. Bàn tay thẹo ngón khô

 

Chúng ta không sinh ra giữa bạn bè như sinh ra giữa bà con cha mẹ anh em, chúng ta tạo dựng nên họ, bồi đắp cho họ, nuôi dưỡng họ. Chúng ta mang lại cho bạn bè của mình quà tặng của chúng ta, tấm lòng chân thực đầy tin yêu của chúng ta, kí ức và di sản tinh thần của chúng ta. Du Tử Lê là người biết sống lăn lộn trong bụi bặm của đời người, trong chiến tranh, trong công việc. Chúng ta nhận thức nhau trước hết là qua công việc, điều này đến lượt nó lại biến đổi chúng ta mỗi ngày. Tình bạn không đến từ những bó hoa, chúng đến nhiều hơn từ mồ hôi, từ lao động, từ gian nan suy nghĩ cùng nhau, từ những hy sinh cùng nhau cho mục đích chung. Các nhà phân tâm học tin rằng tình yêu và công việc vốn dĩ có cùng một bản chất. Nếu đúng như thế, tình bạn hay tình huynh đệ cũng phải đến từ công việc hay những thử thách của đời thường. Chiến tranh là một thứ công việc đặc biệt, vì vậy không có gì ngạc nhiên là những người lính xông pha trận mạc thường giàu có tình bạn hơn ai hết.

Gió mưa tôi vẫn về hiên bạn

Chiều hôm ai gọi miết ven sông

Những cây lau dập-bầm-ta-thán

Trông lại, chàm xanh đã nở bông

 

Chúng ta hãy nghe Du Tử Lê nói về một đoạn đời của anh những ngày đầu định cư ở Hoa Kỳ, trong bài viết "Đi với về: cũng một nghĩa như nhau", từ tập "Giờ điểm danh cuối cùng của những cậu học trò trên sáu mươi tuổi", cùng in chung với Hoàng Sỹ, 2006:

"Tôi cũng không cho là "tình cờ", khi Võ Thạnh Đông chia tay tôi, đi "tỵ nạn tình cảm" ở New Orleans…Đặng Thanh Phong "ra riêng", sau vài tháng được hãng Continental Airline, tuyển làm chuyên viên cơ khí, phi trường Los Angeles, Lê Giang Trần cũng tìm đến những khoảng trời cao, rộng để thỏa khí "bình sinh".

Người còn lại, ở với nghiệp báo, ở với tôi lâu nhất, lại chính là chàng "lính thú" thư sinh ngày nào. Trần Duy Đức không chỉ ở với thăng, trầm của tờ Tay Phải, rồi tuần báo Nàng, (mà,) Trần Duy Đức còn ở với những sấp, ngửa, dập, vùi đời riêng, tôi nữa.

Tuy nhiên, cách gì, đó cũng là thời gian hạnh phúc nhất của chúng tôi: Khi Đức còn quá trẻ; và, tôi, tuổi bốn mươi bước tới.

Tôi cũng không cho là "tình cờ", khi có một thời gian khá dài, căn nhà đường Ranchero Way, chỉ còn tôi Đức. Rất nhiều ngày tôi đứng bếp, làm cơm với hai món thịt kho và, trứng tráng…Buổi tối, ngồi dưới chùm đèn nơi chiếc bàn ăn thênh thang, chúng tôi vừa ăn, vừa cố mang lại cho nhau, những câu chuyện, như những lời an ủi (hay tự dỗ dành, phủ dụ,) cảnh đời đìu hiu, chiếc bóng, của nhau. Nhưng, càng cố bao nhiêu, chúng tôi càng thấy rõ hơn chiếc bóng mình, rớt, ngã trên mênh mông vắng, lặng; trên hoang phế, ê chề ghế trống. Những giây, phút không biết nói gì, chúng tôi đối mặt với trái núi im lặng. Cái im lặng trì chiết, đá tảng. Cái im lặng nổi rợn niềm quạnh vắng, heo hút thân phận, cảnh đời…Đôi lúc, tôi tưởng nghe được, hơi thở của nhau. Đôi lúc, tôi tưởng nghe được, cả sự nuốt xuống, nghẹn lại, của những hạt cơm gạch, ngói !?!"

 

Đây cũng là giai đoạn mà Du Tử Lê làm được nhiều bài thơ hay, giàu chất hiện thực. Bên cạnh cuộc sống mất thăng bằng, ngổn ngang trăm mối ở vùng đất lạ, cuộc chiến tranh chấm dứt đã lâu vẫn còn tiếp tục ngân nga tiếng nói của nó giữa những người Việt Nam, vẫn còn là ác mộng của những người ở bên này hay bên kia chiến tuyến. Kẻ trở về từ trò chơi của nó không bao giờ tìm lại được căn nhà xưa của mình, bạn bè cũ, giếng nước đầu hè, con ve nhỏ hót vang trong đám cỏ khâu chân mộ, tự mình là người làm chứng duy nhất cho mình ngày trở lại. Người đàn ông biết rõ hơn ai hết cuộc đời là buồn, sự mất mát là lớn lao, nhưng điều này không hề ngăn họ tiếp tục thực hiện những bổn phận của đời sống, không ngừng tìm đến nhau, tập hợp lại, làm việc cho một tương lai mà họ tin là có thể tốt đẹp hơn.

Hãy ngắt một lá sông
Mọc giữa lòng lũ xiết
Tặng cho núi điềm nhiên
Giữa thác, ghềnh sống, chết 

Hãy ngắt một giọt vui
Đẫm mồ hôi thế sự
Năm chín năm ui ui
Mình ên như lịch sử

(Bài Thân, Tâm: Học Từ Bạn Tôi và Bùi Vĩnh Hưng) 

Nguyễn Đức Tùng
Canada

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
31 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 39375)
T ruyện của Cung Tích Biền là vậy, rất kén người đọc, nhiều khi sẽ rất khó hiểu và không hợp “gout” với loại bạn đọc chỉ muốn tìm những truyện tình lãng mạn để tiêu khiển thời gian. Truyện của ông luôn làm người đọc hoang mang, dằn vặt, thao thức và sốt.
19 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 39073)
Chưa khi nào, từ lúc vung khẩu hiệu Hữu nghị Việt-Trung, Đảng cầm quyền ngậm đắng nuốt cay 16 chữ vàng như lúc này. Bao nhiêu khiếp nhược quỵ lụy dâng đất dâng thác với ôm hôn thắm thiết, vô ích. Đàn áp dân biểu tình chống Tàu để chứng tỏ hòa hiếu, vô ích. Gửi sĩ quan Việt sang cho Bắc Kinh tập huấn, ưu tiên các dự án thầu cho công ty Trung quốc, ngay cả chấp nhận điều kiện mai hậu nguy hiểm: cho phép Hoa kiều sinh sống đông đúc không cần chiếu khán trong các đặc khu, vẫn vô ích .
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37067)
T hế kỷ chúng tôi trót buồn trong mắt Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư. {Bây giờ} Qua hai câu thơ đó Nguyên Sa đã diễn tả tâm trạng của thế hệ ông, thế hệ của những người trai trẻ ở miền Nam thời 1954-75, đã nuôi nhiều kỳ vọng cho tương lai đất nước, nhưng chẳng bao lâu đầy tuyệt vọng trong một quê hương khói lửa.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 30723)
« C hiến tranh là sự tiếp nối chính trị bằng những phương tiện khác» . Câu văn trứ danh này của Clausewitz, có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe qua. Nó xác lập sự phụ thuộc của quân sự vào chính trị. Từ khi có những tập hợp người gọi là thành quốc hay quốc gia, người ta không làm chiến tranh đơn thuần nhằm chém giết lẫn nhau, mà để giành lấy quyền định đoạt số phận của một cộng đồng. Và kẻ tham chiến có thể thua hàng trăm trận đánh, miễn là thắng trận cuối cùng, nếu sau đó nó mang lại quyền quyết định về việc tổ chức chính quyền trên một lãnh thổ.
24 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 34068)
L ê Văn Tài đến với thơ tiếng Việt bằng một con đường vòng. Anh vốn là một hoạ sĩ. Ở trong nước, từ đầu thập niên 1960, anh vẽ tranh với một phong cách riêng và có một số khám phá về kỹ thuật được nhiều người khen ngợi. Định cư tại Úc từ đầu thập niên 1980, anh tiếp tục vẽ tranh, tham gia cả hàng chục cuộc triển lãm cá nhân cũng như tập thể tại Úc và một số nơi trên thế giới. Lại được nhiều nhà phê bình và nghiên cứu mỹ thuật, như Tiến sĩ Annette Van den Bosch và Merrill Findlay, khen là độc đáo. Tuy nhiên, bên cạnh đó, anh còn làm thơ.
20 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 34794)
Ngô Tất Tố là một trong những tác gia nổi tiếng nhất của trào lưu hiện thực phê phán trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam. Những năm 30, 40 thế kỷ XX ông đã cho ra đời một loạt tác phẩm như tiểu thuyết Tắt đèn, Lều chõng , phóng sự Việc làng, Tập án cái đình , truyện ký lịch sử Trong rừng Nho, Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ, Lịch sử Đề Thám …
20 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 34566)
...biểu hiện của chứng vĩ cuồng, một chứng bệnh tâm thần có vẻ vô hại vì quá lắm cũng chỉ góp phần làm phong phú thêm vốn chuyện tiếu lâm, nhưng lại có thể trở thành rất nguy hiểm trong những điều kiện nhất định, khi nó nhiễm vào những người làm nghề viết lách...
15 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 36477)
N hìn vào một tập san quân đội, trông thấy sức mạnh của quân đội ấy...
13 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 34448)
Truyện của Phạm Ngọc Lương tỏa ra một không khí, thoáng tưởng dịu dàng, nhưng đọc kỹ thì thật sự kinh hoàng: pha trộn giữa điên và thực về cái chết. Ba cái chết: chữ chết, môi trường chết và đạo đức chết ...
29 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 69081)
LTS: Giáo sư/Tiến sĩ Sokolov là một nhân vật quen thuộc với giới nghiên cứu và văn gia Việt Nam. Ông từng nghiên cứu ở Việt Nam từ đầu thập niên 1970, và sau đó trông coi phần Việt ngữ của nhà xuất bản Sự Thật [Pravda]. Trong số những tác phẩm được biết nhiều nhất của ông có tập Quốc Tế Cộng Sản và Việt Nam, được dịch in tại Hà Nội–công bố nhiều tài liệu quí về Đại Học Phương Đông, nơi hơn 50 học viên Việt đã được huấn luyện trong hai thập niên 1920-1930.