- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

THỦ THIÊM: NHÀ HÁT NGHÌN TỶ VÀ TIẾNG OAN DẬY ĐẤT

11 Tháng Mười 20189:26 CH(Xem: 22891)

tien si NGUYEN THI HAUNguyễn Thị Hậu

Tiến sĩ Khảo cổ học

Giảng dạy và nghiên cứu về khảo cổ học, lịch sử, văn hóa.

Phó Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt nam

Tổng Thư ký Hội Sử học TP Hồ Chí Minh

Quê quán An Giang, Sinh tại Hà Nội, Sống ở Sài Gòn

 

 

 

Hội đồng nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trong phiên họp bất thường ngày 8.10.2018 đã biểu quyết 100% thông qua dự án đầu tư xây dựng Nhà hát Giao hưởng nhạc vũ kịch tại Khu đô thị Thủ Thiêm, nguồn kinh phí 1.500 tỷ từ ngân sách nhà nước.

Quyết định này đã làm dấy lên nhiều phản ứng của người dân thông qua mạng xã hội và những ý kiến trên báo chí (1) xoay quanh hai vấn đề: 1. Thủ Thiêm là khu vực đang “nóng” do những sai phạm về đất đai của chính quyền thành phố gần 20 năm qua; 2. Sự cần thiết của công trình văn hóa này so với nhu cầu bức thiết về những công trình dân sinh khác như bệnh viện, đường xá...

Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình “hiện đại hóa” rất cần xây dựng thêm những công trình dân sinh và công trình văn hóa... phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần trước mắt cũng như lâu dài cho người dân. Khu vực nào, lĩnh vực nào cũng mong được “ưu tiên” phát triển, tuy nhiên sức ép từ vị trí “trung tâm kinh tế” của cả nước khiến nhiều năm nay trong lĩnh vực an sinh xã hội và văn hóa, thành phố hầu như không được xây dựng công trình nào đáng kể. Chưa nói đến sự phá hủy, xuống cấp của hầu hết công trình xây dựng từ trước năm 1975.

Tuy nhiên quy hoạch Thủ Thiêm trở thành một đô thị hiện đại, văn minh với nhiều công trình hoành tráng gồm quảng trường, trung tâm tài chính, nhà hát, bảo tàng, sân vân động, nhiều khu cư trú cao cấp... lại được xây dựng trên những sai phạm, thậm chí là tội ác trong quản lý đất đai và hành xử với người dân Thủ Thiêm. Ở đây bao nhiêu con người, ruộng vườn, xóm làng, đình chùa, nhà thờ… hiện hữu gần hai trăm năm đã bị gần như giải tỏa “trắng”. Bao nhiêu số phận con người và một phần lịch sử thành phố bỗng nhiên như không còn hiện hữu trong những bản quy hoạch lạnh lùng vô cảm.

Nhiều năm nay những vụ việc của “dân oan Thủ Thiêm” không được các đại biểu HĐND quan tâm, từ khi “ung nhọt” quy hoạch Thủ Thiêm được công khai cũng chưa có một phiên họp “bất thường” nào của HĐND ra “nghị quyết” để chính quyền phải giải quyết nhanh chóng và triệt để, bao nhiêu bức xúc oan khuất của bà con còn đó... Cho nên việc Hội đồng nhân dân thành phố quyết định xây một công trình đồ sộ về quy mô và kinh phí quá lớn tại Thủ Thiêm trong thời điểm này trước hết là không phải đạo với bà con Thủ Thiêm nói riêng và nhân dân TP nói chung. Sau nữa, một phiên họp bất thường của HĐND nhằm quyết định “ngay và luôn” việc chi đến 1.500 tỷ cho một “dự án nhóm A”, dù có vài dự án quan trọng khác cũng cả nghìn tỷ “đi kèm”, thì vẫn thể hiện sự vô tâm, vô cảm của các “đại biểu nhân dân” đối với vấn đề đất đai đặc biệt nhức nhối của thành phố và rất nhiều vấn đề bức xúc khác hiện nay.

Sự phản ứng của dư luận là do quyết định “bất thường” kém nhạy bén về chính trị và thiếu nhân văn này!

***

Đây không phải là lần đầu tiên những quyết định của chính quyền, của cơ quan dân cử như HĐND hay quốc hội không nhận được sự đồng thuận của nhân dân mà còn bị phản ứng thậm chí gay gắt. Có thể lấy vài ví dụ từ việc nhỏ đến việc lớn, quy mô từ tầm địa phương đến cả nước.

 Ở thành phố Hồ Chí Minh việc nhỏ như màu sơn của tòa nhà Bưu điện, lớn hơn chút như việc phá Dinh Thượng Thơ, lớn hơn nữa như xây Nhà hát giao hưởng tại Thủ Thiêm. Ở tầm quốc gia thì việc lớn như dự thảo Luật đặc khu, trong lĩnh vực giao thông là các BOT... đến việc “nhỏ xíu” mà ảnh hưởng không hề nhỏ là hai lần tăng giá xăng ngay trong những ngày “quốc tang” vừa qua... Bỏ qua một bên “thuyết âm mưu” về lợi ích của một, vài nhóm nào đó, phản ứng của người dân đều bắt nguồn từ thực tế: những sự việc như vậy đã làm thiệt hại đến quyền lợi của người dân về vật chất và tinh thần, ở những mức độ khác nhau, cả trước mắt và lâu dài, ảnh hưởng trực tiếp với địa phương này và gián tiếp với địa phương khác.

Vì sao những chính sách, việc làm “vì nhu cầu của người dân” như chính quyền các cấp giải thích, lại vấp phải sự phản ứng trái chiều của dư luận? Từ vài trường hợp liên quan đến di sản đô thị Sài Gòn có thể phân tích hiện tượng này.

Cách đây vài năm, khi tòa nhà Bưu điện thành phố được sơn lại chỉ mới một mảng nhỏ, lập tức có nhiều ý kiến cho rằng đó không phải là màu sơn “truyền thống”, quen thuộc của công trình này. Mặc dù kinh phí thực hiện việc sơn sửa công trình không phải từ ngân sách nhà nước mà được tài trợ, nhưng lãnh đạo Bưu điện thành phố đã kịp thời ghi nhận ý kiến của người dân và các chuyên gia kiến trúc, bảo tồn, sau đó nghiên cứu lại về màu sơn tường, cửa sổ cũng như những sửa chữa trong nội thất... Kết quả đã đảm bảo tính khoa học của việc trùng tu, tòa nhà Bưu điện không trở nên xa lạ với tâm thức của cộng đồng, do đó giá trị lịch sử - văn hóa được bảo tồn và nâng cao hơn khi người dân thành phố coi đó là “di sản của mình”.

Phản ứng của nhiều tầng lớp nhân dân với quyết định đập bỏ Thương xá Tax, chặt hàng cây trên đường Tôn Đức Thắng hay mới đây là đập bỏ công trình Dinh Thượng Thơ để “mở rộng, cải tạo, nâng cấp trụ sở UBNDTP”... và nhiều trường hợp khác cũng từ nguyên nhân tương tự: đó là hành động xâm hại, phá hủy di sản và tài sản đô thị (về mặt vật chất) và xóa bỏ lịch sử thành phố, ký ức cộng đồng (về mặt tinh thần).

Xung quanh việc bảo tồn di sản của thành phố cũng có ý kiến cho rằng, để hiện đại thì cần phải “hy sinh” di sản, rồi đánh giá hình thức kiến trúc của các công trình này không có gì đặc biệt, hay như Dinh Thượng Thơ thì ít người biết đến trước khi có quyết định đập bỏ, có nghĩa là giá trị lịch sử của nó không cao... Tuy nhiên cần đặt những kiến trúc này vào bối cảnh của lịch sử đô thị Sài Gòn chỉ hơn 100 năm, trong tương quan với cảnh quan khu trung tâm hiện nay, vì chỉ mới hơn mười năm gần đây khu vực này đã mất gần hết các công trình đặc trưng của Sài Gòn. Cần đặt bảo tồn di sản trong bối cảnh từ sau năm 1975 đến nay, những biến động và thay đổi lớn về dân cư, về cảnh quan... đã làm biến mất nhiều đặc trưng lịch sử - văn hóa đặc sắc của thành phố này! Có như vậy mới thấy hết giá trị và có cách ứng xử phù hợp đối với di sản. Mặt khác, khi cộng đồng chưa hiểu biết giá trị của những công trình lịch sử - văn hóa dù ít “nổi tiếng”, có thể chưa đồng thuận trong việc gìn giữ di sản thì không có nghĩa là chúng không có giá trị, mà đó là do các chính quyền, nhà quản lý, nhà chuyên môn chưa làm tốt chức trách của mình.

Thái độ của chính quyền, của nhà quản lý trước những phản ứng của cộng đồng là không nên coi ý kiến của người dân phản ánh bằng nhiều hình thức khác nhau (trên báo chí, mạng xã hội hay tập hợp chữ ký trong một văn bản) về các vấn đề xã hội là “hành vi mang tính cảm xúc”. Cần tôn trọng những phản ứng này vì đã thể hiện sự quan tâm, hiểu biết và ý thức trách nhiệm của người dân, nhất là giới trẻ. Cũng cần tôn trọng cảm xúc của cộng đồng, vì đó chính là tình cảm, sự gắn bó với thành phố. Nếu không có trách nhiệm và tình cảm của người dân đối với thành phố thì chính quyền không thể “quản lý” được. Ý thức của cộng đồng càng cao thì vai trò và trách nhiệm quản lý của chính quyền càng phải càng cao hơn.

Từ góc độ xã hội “phát triển bền vững”, một hành động vô cảm dù nhỏ của chính quyền cũng gây ra thiệt hại tinh thần cho người dân là không thể đong đếm và nguy hiểm gấp nhiều lần sự thiệt hại về vật chất. Đó là sự tổn hại niềm tin vào lẽ công bằng, vào sự tôn trọng con người và tính chính danh của chính quyền. Sự tồn tại của chính quyền không phải dựa trên những “công trình nghìn tỷ” mà phải được nâng đỡ bởi niềm tin của nhân dân. Một chính quyền “của dân” không phải chỉ “vì dân” bằng ngôn từ mà luôn cần thấu hiểu và hành động thực sự vì dân.

Nguyễn Thị Hậu

Sài Gòn, 9.10.2018

nguồn: https://nguoidothi.net.vn/thu-thiem-nha-hat-nghin-ty-va-tieng-oan-day-dat-15818.html

1 Vídụ: https://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/tp-hcm-xay-nha-hat-1-500-ty-tai-thu-thiem-vi-can-cho-nguoi-dan-3820751.html

quy_hoach_thu_thiem_1

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 33436)
Khiếm khuyết lớn của dân tộc Việt là đã say mê khía cạnh chính trị của chiến tranh mà lãng quên khía cạnh thuần học thuật, quân sự của chiến tranh. Clausewitz nổi tiếng với mệnh đề thường xuyên được trích dẫn: "Chiến tranh là cánh tay nối dài của chính trị." Nhưng Clausewitz không viết duy nhất một mệnh đề này, mà soạn thảo tám tổng tập Cẩm nang Chiến tranh mà cho đến phút này vẫn chưa được dịch sang tiếng Việt, ngay cả tóm lược .
27 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 36682)
Tôi ít thấy ai yêu thơ như Mai Thảo. Thuộc rất nhiều thơ, đặc biệt thơ tiền chiến và thơ những năm đầu kháng chiến, Mai Thảo có thể nói chuyện về thơ miên man từ giờ này sang giờ khác, từ ngày này sang ngày khác. Dường như chỉ khi nói chuyện về thơ, Mai Thảo mới hoạt bát, sôi nổi, say sưa, gửi hết hồn mình trong từng tiếng trầm tiếng bổng. Ly rượu trên tay, đầu lắc lư, mắt lim dim, Mai Thảo nói về thơ với giọng vừa xúc động như khi người ta kể lại một mối tình đầu, vừa thành kính như một con chiên kể về cuộc đời của Người Cứu Thế. Với Mai Thảo, thơ là cái gì thiêng liêng, rất đỗi thiêng liêng, như một tôn giáo. Với Mai Thảo, thơ, "chỉ thơ, mới là ngôn ngữ, là tiếng nói tận cùng và chung quyết của văn chương"
18 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 32238)
...toàn cảnh các quốc gia trong lưu vực Sông Mekong từ Trung Quốc xuống tới Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam cho dù mang những tên gọi khác nhau nhưng đó vẫn là những đất nước chưa có dân chủ, vẫn là những “xã hội hình tháp – social pyramid” nói theo ngôn từ của nhà xã hội học Miến Kyaw Nyein, với đỉnh tháp là thiểu số thống trị và dưới đáy vẫn là đa số những người dân nghèo khổ bị khai thác và bóc lột.
14 Tháng Sáu 201412:00 SA(Xem: 37404)
K hác với quân đội của các đế quốc, quân đội Việt Nam đã luôn phải xây dựng sức mạnh trên chính lòng ái quốc của dân tộc mình. Ngay cả khi Đại Nam đạt đến sức mạnh của một đế quốc Đông Dương, quân đội Đại Nam chưa biết vận dụng sức lực của các sắc tộc Chàm, Ai Lao hay Thủy Chân Lạp. Sức mạnh của quân đội Việt Nam là sức mạnh của sự đoàn kết, chết để giữ đất và chết để mở đất, của sắc tộc Kinh. Mạc Cửu ở Hà Tiên là một biệt lệ.
31 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 40031)
T ruyện của Cung Tích Biền là vậy, rất kén người đọc, nhiều khi sẽ rất khó hiểu và không hợp “gout” với loại bạn đọc chỉ muốn tìm những truyện tình lãng mạn để tiêu khiển thời gian. Truyện của ông luôn làm người đọc hoang mang, dằn vặt, thao thức và sốt.
19 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 39707)
Chưa khi nào, từ lúc vung khẩu hiệu Hữu nghị Việt-Trung, Đảng cầm quyền ngậm đắng nuốt cay 16 chữ vàng như lúc này. Bao nhiêu khiếp nhược quỵ lụy dâng đất dâng thác với ôm hôn thắm thiết, vô ích. Đàn áp dân biểu tình chống Tàu để chứng tỏ hòa hiếu, vô ích. Gửi sĩ quan Việt sang cho Bắc Kinh tập huấn, ưu tiên các dự án thầu cho công ty Trung quốc, ngay cả chấp nhận điều kiện mai hậu nguy hiểm: cho phép Hoa kiều sinh sống đông đúc không cần chiếu khán trong các đặc khu, vẫn vô ích .
18 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 37598)
T hế kỷ chúng tôi trót buồn trong mắt Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư. {Bây giờ} Qua hai câu thơ đó Nguyên Sa đã diễn tả tâm trạng của thế hệ ông, thế hệ của những người trai trẻ ở miền Nam thời 1954-75, đã nuôi nhiều kỳ vọng cho tương lai đất nước, nhưng chẳng bao lâu đầy tuyệt vọng trong một quê hương khói lửa.
12 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 31301)
« C hiến tranh là sự tiếp nối chính trị bằng những phương tiện khác» . Câu văn trứ danh này của Clausewitz, có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe qua. Nó xác lập sự phụ thuộc của quân sự vào chính trị. Từ khi có những tập hợp người gọi là thành quốc hay quốc gia, người ta không làm chiến tranh đơn thuần nhằm chém giết lẫn nhau, mà để giành lấy quyền định đoạt số phận của một cộng đồng. Và kẻ tham chiến có thể thua hàng trăm trận đánh, miễn là thắng trận cuối cùng, nếu sau đó nó mang lại quyền quyết định về việc tổ chức chính quyền trên một lãnh thổ.
24 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 34689)
L ê Văn Tài đến với thơ tiếng Việt bằng một con đường vòng. Anh vốn là một hoạ sĩ. Ở trong nước, từ đầu thập niên 1960, anh vẽ tranh với một phong cách riêng và có một số khám phá về kỹ thuật được nhiều người khen ngợi. Định cư tại Úc từ đầu thập niên 1980, anh tiếp tục vẽ tranh, tham gia cả hàng chục cuộc triển lãm cá nhân cũng như tập thể tại Úc và một số nơi trên thế giới. Lại được nhiều nhà phê bình và nghiên cứu mỹ thuật, như Tiến sĩ Annette Van den Bosch và Merrill Findlay, khen là độc đáo. Tuy nhiên, bên cạnh đó, anh còn làm thơ.
20 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 35423)
Ngô Tất Tố là một trong những tác gia nổi tiếng nhất của trào lưu hiện thực phê phán trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam. Những năm 30, 40 thế kỷ XX ông đã cho ra đời một loạt tác phẩm như tiểu thuyết Tắt đèn, Lều chõng , phóng sự Việc làng, Tập án cái đình , truyện ký lịch sử Trong rừng Nho, Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ, Lịch sử Đề Thám …