- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NHỮNG VA CHẠM HAI MẶT – XÉT TỪ CẢM THỨC THƠ HẬU HIỆN ĐẠI

12 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 94689)


hoangthuy_anh-content

 Hoàng Thuỵ Anh


LTS: Lần đầu cộng tác cùng Hợp Lưu, Hoàng Thuỵ Anh hiện sống và làm việc tại thành phố Đồng Hới. Chúng tôi trân trọng giới thiệu những bài viết của tác giả Hoàng Thuỵ Anh đến với quí văn hữu và bạn đọc của Hợp Lưu.

TCHL


Con đường thơ ca nhân loại ngày một dung nạp thêm nhiều giọng mới: thơ nữ quyền luận, thơ tân hình thức, thơ trình diễn, thơ thực hiện... Tự thân, nó đã thể hiện nhu cầu thay đổi, khác trước. Các khuynh hướng ấy, dù muốn hay không đã nằm trong guồng quay của cảm quan hậu hiện đại.

Hậu hiện đại đang còn là vấn đề nóng bỏng đối với các nhà nghiên cứu - phê bình trên thế giới. Việc cổ xúy hay bài xích nó chưa có hồi kết. Theo Nguyễn Văn Dân, các nhà nghiên cứu như: F. Lyotard, R. Ruland, B. Smith, L. Fiedler, I. Hassan, R. Stern... đều có ý kiến khác nhau về thời kì hậu hiện đại (xê dịch từ khoảng 1940 đến 1980), nhưng tương đồng về cách xác định đặc điểm hậu hiện đại trong nghệ thuật. Họ đều lấy chủ nghĩa hiện đại làm yếu tố quy chiếu để xác định cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại. Xuất phát từ những kiến giải của mình, ông khẳng định: chỉ nên dùng khái niệm “hậu hiện đại” cho kiến trúc và hội họa, còn trong các lĩnh vực khác, đặc biệt là trong văn học, thì không nên dùng nó, mà chỉ nên dùng khái niệm “[chủ nghĩa] hiện đại”, hoặc cùng lắm thì dùng khái niệm “[chủ nghĩa] tối [hoặc siêu] hiện đại”[1].

Tuy không đồng nhất về khái niệm hậu hiện đại, thời kì hiện đại, chủ nghĩa hiện đại giữa các nhà nghiên cứu phương Tây lẫn ở phương Đông, song vẫn cần có những đặc trưng để xác định các yếu tố trong thơ hậu hiện đại. Paul Hoover (Hoàng Hưng dịch) nêu ra một số đặc điểm của thơ hậu hiện đại Mỹ: hướng về một thứ thơ “hữu cơ”, hữu nhân cách (đầy cá tính, personal), thơ đọc miệng; khuyến khích một quan điểm “toàn thị” (panoptic) hay cái nhìn từ nhiều phía; ưa thích “những chữ rỗng” (empty words) hơn là “cái thụ nghĩa mang tính siêu nghiệm”, cái có thực hơn cái siêu hình; cái chết của Thượng Đế và tác giả, sự vay mượn trở thành một phương sách ngự trị; không có kết thúc nào để đi đến, câu chuyện kể lặp lại chính nó với sự chồng chéo và đôi khi là những phiên bản trái ngược; đào sâu sự lạ lùng, ưa thích cái phi lý tính và bộc phát hơn là cái lịch thiệp và trau chuốt; ngẫu hứng ngôn từ và cảm thức Jazz trong nhịp điệu; mang tính công chúng, trực tiếp, trình diễn, trần tục; ưa thích đối với lối nhại; giải phóng ngôn ngữ khỏi cú pháp; văn bản ở trong tình trạng bất định; câu trở thành một sự khuyếch trương của chính cơ thể... Đó là lí do để ông cho rằng: “thơ hậu hiện đại chống lại các giá trị mang tính trung dung của sự thống nhất, ý nghĩa, tuyến tính, tính biểu đạt, và một chân dung được tâng bốc thậm chí mang tính khoa trương của cái tôi trưởng giả và những bận tâm của nó” [2]. Từ những đặc điểm này, chúng ta có thể soi chiếu sự tác động của nó đến thơ hậu hiện đại Việt Nam.

Thơ hậu hiện đại bùng lên ở các nước phương Tây và ảnh hưởng kéo dài đến các nước phương Đông. Ở Việt Nam, những sáng tác của nhóm trường thơ Loạn, Xuân Thu Nhã Tập, Dạ Đài lúc bấy giờ ít nhiều đã có sắc thái hậu hiện đại. Nhưng phải từ khoảng những năm 1980 đến nay, sáng tác theo tâm thức thơ hậu hiện đại mới thực sự nở rộ: Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo, Nguyễn Đình Chính, Lê Vĩnh Tài, Mai Văn Phấn, Inrasara, Trần Quang Quý, Hoàng Vũ Thuật, Lê Xuân Đố, Trần Quang Đạo, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Đinh Thị Như Thúy, Ly Hoàng Ly, Trần Tuấn,... nhóm Mở Miệng, nhóm Ngựa Trời,... Sự góp mặt đông đảo của đội ngũ này đã mở rộng lãnh thổ thơ ca và đưa đến những cách nhìn mới, suy nghĩ mới, đánh giá mới trong tiến trình phát triển.

Va chạm thơ hậu hiện đại phương Tây, Nguyễn Quang Thiều đưa vào thơ muôn mặt rệu rã của cuộc sống qua tâm trạng vừa bất lực vừa khát khao của “gã” - một cái “tôi” khác của nhà thơ vào khoảnh khắc “Những chữ buổi trưa ngày 29/08”:

Gã chống lại những con chó đái ở góc phố

Gã chống lại những đồng tiền

Gã chống lại những chính trị gia

Gã chống lại một văn bản khác văn bản gã viết

Gã chống lại khu phố gã ở và uống bia suốt trưa

 ... 

Gã chống lại những cô gái bán dâm mà gã viết thơ tặng

Gã chống lại những người nhiều tiền mà gã bắt tay

Gã chống lại một chiếc xe hơi đi qua mà gã không sở hữu được

 

Nhưng gã lại không bao giờ chống được

Cái lưỡi thô tục và tham lam của gã

Đang cuống cuồng bò trong vòm miệng nhớp nháp của gã

 Nghệ sĩ, cái thiết yếu là phải sống với ngôn từ của mình. Ngôn từ biểu hiện cá tính sáng tạo của mỗi người. Nếu chống được sự “thô tục”, “tham lam”, chống lại được những rào cản thì lúc đó nhà thơ mới nói đúng giọng mình, đúng ngôn từ của mình. Khoảnh khắc ấy là bản lĩnh của nhà thơ. Nhưng cũng mở ra một con người khác của nhà thơ trước ngày 29/08: cạn kiệt, trống rỗng.

 Thanh Thảo là nhà thơ liên tục đổi mới bút lực của mình. Với quan niệm, làm thơ phải tìm kiếm trong cái đơn giản để hướng thơ mình đi vào cội rễ của bản chất đời sống: tôi tiêu những ngày của mình như mưa xuống cát...// bây giờ tôi dè sẻn từng chiếc lá/ trên cành/ cái hộp diêm nhốt dế than tôi nhốt chút hơi ấm/ mùa đông chút gió mát mùa hè/ cái hộp diêm sờn mờ nhãn hiệu/ qua mặt tôi một đứa bé chống nạng tập đi lúc/ năm giờ sáng/ một chiếc xe tải xả khói đen vào thiên niên kỉ mới/ một người đàn bà mất trí nhớ chạy về ánh đèn đường/ phía sau lưng rạng đông/ những con thiêu thân tạm dừng cuộc kiếm tìm” (Khúc chậm 2000). Trước giờ khắc chuyển giao, nhà thơ nhận ra được những mặt trái của cái thế giới đang mở hoang hoác. Thế giới cũ đang qua đi và thế giới mới lại đến, ngỡ là đổi thay, nhưng cũng chỉ là hình thức chuyển giao từ chiếc lồng này sang chiếc lồng khác mà thôi:

bây giờ tôi biết
những thế giới khác
cũng thế thôi

 

như con chim tập yêu chiếc lồng của mình
nhưng không cần tập hót

 Cách nhìn về thế giới, về cuộc sống của Thanh Thảo đã thay đổi tâm thế thơ và hình thức thơ ông. Chính Mai Bá Ấn đã rất tinh tế nhận xét: Tư duy thơ Thanh Thảo “đã nghiêng hẳn về lối sáng tác của chủ nghĩa hậu hiện đại. Chính lối tư duy thơ này đã khiến Thanh Thảo cấu trúc tác phẩm thơ hoàn toàn mở, nhằm “rủ rê” sự tham gia của người tiếp nhận theo quan niệm "cái chết của tác giả" của chủ nghĩa hậu hiện đại” [3].

Bằng cách thể hiện khát vọng của kiểu “sống lùi”, Inrasara nhại chính cái thế giới mà mình đang sống: “Tôi sống trong cộng đồng mà mọi thứ/ đều lùi. Những đám cây mọc lùi nhỏ/ dần vào hạt mầm, tận kiếp trước hạt/ mầm.../ Những ý tưởng nghĩ lùi về// thời tiền sử, bản chép tay mọc thêm/ trang lật lùi như thể hết làm thất/ lạc. Ngôi nhà cô hàng xóm thuở bé/ thơ đổ nát được dựng trở lại...” (Sống lùi). Thế giới đã “băng hoại”, không còn giữ những giá trị xưa. Câu thơ vắt từ dòng này sang dòng khác, khổ này sang khổ khác, nhân lên khao khát sống lùi: sống lùi để những cái “đổ nát được dựng trở lại” và gieo mầm cho sự hồi sinh.

Xoáy vào tâm thức thơ hậu hiện đại, Nguyễn Đình Chính cũng hết sức táo bạo trong cách phát ngôn. Mi (zê) xuất hiện rất nhiều lần trong tập thơ Chẹc chẹc (Tân hình thức publishing club ấn hành, Hà Nội, 2010) của ông. Đó là sự phân thân của nhà thơ. Nhà thơ phân thân cái “mi” (zê) của mình để chất vấn, để bày tỏ một cách trung thực những phức tạp của cuộc sống. Nhờ vậy, cuộc sống hiện thực được phơi bày trần trụi, con người được tự do tuyên bố chính kiến của mình. Trước cái ngột ngạt, bất mãn của cuộc sống, mi (zê) bật lên tiếng chửi. Chửi một cách không thương tiếc khi tất cả mọi thứ trong thế giới đều bị cào bằng: “trí thức cụp tai uống trà chửi đổng/ trí thức cụp tai ngồi bàn nhân sự/ trí thức cụp tai xin phiếu bé ngoan// cục cứt mày cứ ngủ ngon/ sớm mai mới bị khai trừ (tống cổ) khỏi thơ// chẹc chẹc// trong cái thế giới bị là phẳng này hóa ra lại dễ chơi quá” (Giã biệt cứt). Lối viết táo bạo, pha sự giễu nhại, không che giấu, người đọc có thể có cảm giác khó chịu, nhưng cái khó chịu ấy sớm nhường chỗ cho sự bằng lòng với tư duy của nhà thơ. Nhà thơ “trực ngôn” mới nói hết cái oái oăm nhân thế (trí thức cụp tai) đang nhan nhãn trong xã hội.

Nếu Nguyễn Đình Chính “đùa giỡn” với tầng lớp trí thức thì Lê Xuân Đố lại chú tâm đến trò chơi ngôn từ và ngữ nghĩa. Với phong thái “giọng muối”, Lê Xuân Đố tháo rời các con chữ: phố Phái đội giấc mơ rêu tỉnh lại/ râu các bậc thức giả mọc rễ cổ thụ/ các khe hở quá khứ được ánh sáng tòa kính cao ốc mời gọi/ cắt giữa đường biên dự án lửng lơ// các tiến sĩ Quốc Tử Giám ở lại một mình ngẫm lại bia đá/ khoảng lặng cần thiết của lịch sử/ những con rùa đá vuột khỏi chân bia đi làm dịch vụ/ biểu diễn sương khói Tây Hồ. Gặp lại nhé. Những con chữ mở ra các mảnh ghép khác nhau nhờ sự nới lỏng, bỏ ngỏ bằng khoảng lặng ngoài văn bản:

đường lượn quanh Bờ Hồ là giải lụa mềm thiết tha buộc mở

vũ điệu ánh sáng đa sắc màu tiếng nói

đô thị màu nhiều ẩn ý

(Đô thị màu)

Xiếc chữ, tung hứng chữ bằng những câu thơ không vần điệu để nổi bật những gam màu khác nhau của Hà Nội: mơ-tỉnh; quá khứ-hiện tại... Do đó, thơ Lê Xuân Đố luôn có sự đối nghịch giữa hai bè giọng: bè trầm-quá khứ và bè cao-hiện tại. Chúng tạo nên tính đa thanh, tự giễu trong ngôn từ của nhà thơ.

Hoàng Vũ Thuật cũng đưa sự hỗn loạn, vô trật tự vào trong thơ bằng cái nhìn “lập thể”: “sương cài lên ngực màu thiên thanh/ vội vã không từ biệt/ cây cứ xanh ngoài lời/ trinh bạch vạn năm trước/ ngày cứ dài như cây// những buổi chiều lặng lẽ lên men/ bức tranh ảm đạm/ ai hát se se trong gió/ khúc du ca/ thăm thẳm tiếng người như tiếng ve// trong trái ổi thơm tho ửng đỏ/ cánh chim mơ hồ bay ra/ và/ cuốn sách bỏ quên/ đã tan thành tro bụi”. Bài thơ như một bức tranh lập thể. Nhà thơ ráp các chữ, các khổ với nhau một cách ngẫu nhiên. Cái nhìn đa điểm đưa đến sự bất định trong tâm trạng của nhà thơ khi “ngày cứ dài như cây”.

Trước luồng gió thơ hậu hiện đại, Đinh Thị Như Thúy phá ranh giới đường biên giữa các thể loại, nhờ vậy, thơ chị giàu chất văn xuôi: Giấc mơ nối tiếp giấc mơ rồi lại nối tiếp giấc mơ trong ngôi nhà màu bóng tối. Nơi ta buộc phải diễn vai và không thể tự kết thúc vai diễn của mình. Ta chờ đợi hay bị buộc phải chờ đợi phép màu giải thoát lóe lên không từ chiếc đũa thủy tinh mà từ tiếng chuông điện thoại hẹn giờ báo thức. Sự mệt mỏi ngấm ngầm vào từng rẻ xương vốn đã rã rời từ ngày rạng. Quẫy đạp trong thế giới này thật khó khăn xiết bao!...// Mơ và mơ, bóng tối và bóng tối hơn, đêm và hết đêm, ngày và ngày tàn chỉ là những mắc xích ta nắm rồi thả trong thời khắc diễn vai.// Kìa chuông reng!// ... Cám ơn bạn đã sử dụng dịch vụ này (Thời khắc diễn vai). Chỉ một thời khắc đời thường mà “ta” hội tụ bao dằn vặt, trở trăn. Những cảm giác “thèm nỗi đau rách toác thịt da, sợ trạng thái không nhức không tê không buồn không vui của một ngày đã quen như muôn ngày đã quen của cuộc sống mà như không sống” này đã xáo trộn thời gian, khiến “ta” vùi dập trong sự đứt đoạn của kí ức.

Các nhà thơ kể trên đều có ảnh hưởng cảm thức thơ hậu hiện đại phương Tây. Không phải tất cả sáng tác của họ đều là hậu hiện đại. Mỗi bài, mỗi tập thơ có những tiếp thu riêng. Yếu tố hậu hiện đại có khi rõ đường nét, có khi mờ ảo. Nhưng tựu trung, thơ của họ khác những mạch thơ mà nhiều người đã sa vào quá lâu, trở nên không thích ứng. Bên cạnh đó, việc tự do “đi về” giữa Tây và Đông, đoạn tuyệt với tư duy truyền thống, các nhà thơ tha hồ cày xới thoải mái trên các thửa ruộng mà không cần phải xuất trình giấy tờ để kiểm duyệt. Cuộc sống có thứ gì, trong thơ chưng lên thứ đó. Quan niệm “phi tâm hóa” cũng lẩy ra những giọng điệu mới lạ, sốc với người tiếp nhận: vấn đề sex nhất, tục nhất cũng “tuồn” vào thơ. Đọc thơ hôm nay, người đọc phải tỉnh táo, tỉnh táo để biết phân loại thơ, nhận định thơ, nếu không sẽ bị “lọt thỏm” vào những vòng xoáy trống mà cứ ngỡ kiến thức của mình quá “ít ỏi” nên không nhập vào được. Một số nhà thơ chú trọng đắp đổi con chữ, gián đoạn các con chữ để dấu đi sự rỗng triết lý cần và nên có trong thơ. Ma trận nhưng ngõ vào tuốt luột. Phương Lan (nhóm Ngựa trời) mang tâm thế nổi loạn để viết “Mùa căng”, thặng dư thơ ngầm, “căng” rồi “viên mãn” bằng sex:

Như con ngựa bất kham bị giam giữ suốt mùa đông

Tôi băng mình ra mông mênh thảo nguyên ngợp ngời cỏ non và ánh sáng

Mùa xuân nheo mắt vẫy gọi tôi

Hoang dại cuồng loạn réo gọi tôi

Như mũi tên đã bật cong trên dây cung

Tôi vút đi hân hoan đầy phấn khích…

Trong số các nhà thơ trẻ Việt, thơ Vi Thùy Linh thể hiện khá rõ sự bạo liệt với những vần thơ thấm chất sex. Sex đan cài trong trò chơi lắp ghép ngôn ngữ: “Thời gian ngưng lại/ Bỏ quên mọi u phiền đớn đau ngoài vũ trụ/ Buổi chiều sữa trào qua rèm cửa/ Trên ngực Anh, em thở/ Thu đầy thu nghìn trùng rút gọn/ Ngực áp ngực trái tim lên xuống/ Mũi tên thiêng ký tên giá thú/ Hơi thở dồn như muôn cơn gió/ Anh thấy như Anh nắng oi gọi bão/ Anh thấy như Anh chưa yêu lần nao/ Như đã yêu em suốt đêm ngọt ngào/ Suốt trong mảnh đời chạy theo tình yêu/ Yêu thật liều yêu hiểm nghèo yêu không tỉnh dậy/ Tai em áp chặt tim Anh, ngàn nhịp ân hoan từ thế giới tượng thanh Anh khởi tạo” (Trên ngực anh). Vi Thùy Linh cũng không ít lần chịu những đòn roi của dư luận về vấn đề sex. Thơ Linh sống động. Tuy nhiên, sex của Linh thuần bản năng, thiếu sự tiết chế của ý thức, cái đòi hỏi sống còn của nghệ thuật. Chính vì thế, nó thiếu đi tính triết lý.

Ở góc nhìn hậu hiện đại, các nhà thơ từ bỏ cái thế giới đóng khung, hướng đến cái thế giới rã rệu, lắp ghép, phân mảnh, đứt đoạn... bằng kĩ thuật xốc ngửa, lắp ráp từ, sử dụng chất humour, pha tạp thể loại... để chạm vào những vấn đề tinh tế và nhạy cảm mà hầu như thơ ca trước đây còn ngại ngùng. Họ đưa vào thơ những ngôn từ tục tĩu để giễu nhại chính vấn đề mà mình đề cập đến. Tuy nhiên, cái gì thái quá cũng có mặt hạn chế của nó. Ngôn ngữ gần với đời sống dễ làm cho thơ mất đi chất thơ của nó. Quá nhấn mạnh tính suồng sã, thơ sẽ đông cứng ngay khi mới chào đời. Đọc một số bài thơ của nhóm Mở Miệng như: Cái l... què, Vẫn làm chồng tốt, Vô địch... tôi tự hỏi liệu đây có phải là thơ thời thị trường? Viết như thế, chất thơ của thơ sẽ đi về đâu? Nếu câu chữ xoàng, tối, hỗn độn thì thơ, dưới hình thức nào, không thể sinh sản để duy trì nòi giống. Hậu hiện đại chấp nhận sự phỏng nhại, cắt dán nên một số người tuyên ngôn “đạo thơ” công khai để sinh hạ những nàng thơ “quảng cáo”: “Lactacyd FH, với công thức đặc biệt gồm hai thành phần tự nhiên là Acid lactic và Lactoserum (chiết suất từ sữa), không chỉ giúp rửa sạch, giảm ngứa, loại trừ vì khuẩn gây viêm nhiễm và mùi hôi, mà còn củng cố cơ chế bảo vệ tự nhiên của âm [dương] đạo [tặc]” (Lý do thích hạp cho mọi người trong việc tiêu [chảy] tiền [bạc] hay còn gọi là bài thơ có tên: "CHĂM SÓC BẠN GÁI HÀNG NGÀY" – Bùi Chát). Đọc những bài kiểu này, người đọc khó có thể chấp thuận.

Đổi mới thơ theo xu hướng phát triển của văn học là tất yếu, là cần thiết. Dù tiếp nhận muộn mằn nhưng tính lan tỏa của thơ hậu hiện đại đưa đến cho nền thơ ca Việt Nam những năm gần đây đầy sự táo bạo, tươi rói, khuấy đảo âm hưởng trầm lắng của thơ hiện đại. Nếu xem con đường sáng tác của thơ hậu hiện đại thể hiện sự bế tắc của thơ ca là không hoàn toàn đúng. Chúng ta có một Chẹc chẹc (Nguyễn Đình Chính) vứt bỏ vần điệu, nhạc tính để những sinh lực của thơ tự trào dâng; một Cây ánh sáng (Nguyễn Quang Thiều) “đứng riêng một cõi” (theo cách nói của Trần Sáng) bởi tính “ma quái” trên mọi phương diện: từ ngữ, cấu trúc, hình ảnh...; một Màu Ngôi nhà cỏ (Hoàng Vũ Thuật) “trở thành thông điệp da diết về cõi người, kiếp đời vẫy gọi liên chủ thể tiếp nhận” [4]; một Và đột nhiên gió thổi (Mai Văn Phấn) đan xen giữa tính triết lí và tính trụi trần của cuộc sống; một Liên tưởng (Lê Vĩnh Tài) giản dị chất sống như phố núi Buôn Ma Thuột... Những tác phẩm ấy phần nào đã đánh dấu hướng đi cần thiết cho thơ Việt hôm nay. Tuy nhiên, bên cạnh những bài thơ, tập thơ gây ấn tượng, thể hiện những phong thái mới và mạnh, vẫn còn có một số tác phẩm thơ có phần quá đà, khiến thơ của họ chưa được đón nhận như một sản phẩm quý và lạ, làm nên sự đột biến. Tập thơ Dự báo phi thời tiết của nhóm Ngựa Trời là một ví dụ. Những tập thơ khác của nhóm Mở Miệng cũng đang xôn xao hai mặt trên thi đàn.

Thơ khuân vác mọi vấn đề của đời sống nên các nhà thơ mang cảm quan hậu hiện đại luôn rủng rẻng với các đề tài thơ của mình. Chính họ làm cho thơ ca phát triển, sinh nở. Nhưng nếu phóng ngôn từ một cách bừa bãi, không tự kiềm chế, không chọn lọc thơ sẽ đường cùng, tắc tị. Cần có cách tiếp nhận phù hợp xu thế thơ hậu hiện đại phương Tây. Tiếp nhận nhưng vẫn giữ được cốt lõi của thơ: tính thơ và chất triết lí. Và quan trọng, làm thơ chính là cách thể hiện tính văn hóa của mình. Vì thế, văn hóa sáng tạo trước hành trình thơ là thước đo tất yếu mọi giá trị.

Hậu hiện đại đang trên đà đi của nó. Dù manh nha rất sớm, nhưng hậu hiện đại đến nay vẫn còn mới mẻ và lạ lẫm, chưa được trình bày dưới một hệ thống lý thuyết đầy đủ và tin cậy. Tuy vậy, những rào cản nào trước sự phát triển của thơ hậu hiện đại đều có thể dẫn đến sai lầm. Thiết nghĩ, hãy để nó phát triển như bản chất tự nhiên chính nó. Bởi lẽ, chưa bao giờ cái thế giới thực tại bị dày xéo, lật tẩy đúng thực trạng như trong thơ hôm nay. Mặt khác, một tinh thần mới, ý nghĩ mới bao giờ cũng có không ít hạn chế. Chỉ cần ở mỗi nhà thơ sự tự ý thức không bị mất đi thì cánh cửa thơ Việt ngày một mở rộng, đa trị đa chiều.

 

Đồng Hới, ngày 19/12/2010

H.T.A


------------------------

[1]. Lại Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến (biên soạn), Văn học hậu hiện đại thế giới - Những vấn đề lí thuyết, NXB Hội nhà văn & Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2003, tr 146.

[2]. Lại Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến (biên soạn), Sđd, tr 378.

[3]. Mai Bá Ấn, 1 2 3 của Thanh Thảo và ba bậc tư duy thơ trong quá trình hiện đại hóa thơ ca”, http://thinhanquangngai.wordpress.com.

[4]. Hồ Thế Hà, “Thế giới tương hợp trong thơ Hoàng Vũ Thuật”, Thơ Hoàng Vũ Thuật-nhìn từ thi pháp học của Roman Jakobson, Hoàng Thụy Anh, NXB Thuận Hóa, 2010, tr 327.


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Giêng 20224:09 CH(Xem: 11619)
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới. Thế nhưng, ở một nơi xa kia, có một ông già gầy gò, ốm yếu, tóc bạc hàng ngày đến thư viện các trường đại học ở Mỹ để photo các tài liệu về văn chương Miền Nam Việt Nam, hàng ngày ông “ngồi khâu lại di sản”, vá lại một nền văn học đã bị đốt cháy trên chính quê hương mình, tự mình thành lập tủ sách di sản văn chương Miền Nam nhằm lưu giữ, chia xẻ lại cho đời sau, đó là nhà văn Trần Hoài Thư.
28 Tháng Mười Hai 202110:43 CH(Xem: 10130)
Cuộc triển lãm này nêu ra luận điểm rằng bản chất nội tại của sự sống và của tất cả các sinh vật là không đồng nhất, mà đúng hơn là được kết cấu bằng nhiều mối tương quan dị biệt để tạo ra Cái Khác. Luận điểm này, vì thế, đã phá vỡ mọi tôn ti dựa vào những khái niệm áp đặt về bản sắc và tính đồng nhất.
15 Tháng Mười Hai 20219:00 CH(Xem: 10129)
Dohamide, người gốc Chăm, sinh năm 1934 tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang), có thêm ba bút hiệu nhưng ít được biết đến: Linh Phương, Châu Giang Tử, Châu Lang. Khi Dohamide có bài viết đầu tiên “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1962, Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã giới thiệu anh với độc giả như sau: “Bạn Dohamide, tác giả loạt bài sau đây, là người gốc Chàm, sanh tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang). Bạn đã có can đảm thoát ly những ràng buộc khắt khe của tập tục địa phương để lên thủ đô Sài Gòn vừa đi làm nuôi gia đình vừa đi học, và hiện nay bạn đã tốt nghiệp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Ngoài tiếng Chàm là tiếng mẹ đẻ, bạn Dohamide biết nói và viết các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Á Rập, Mã Lai, Cam Bốt, những thứ tiếng này đã giúp bạn Dohamide rất nhiều trong những thiên khảo cứu như trình bày với bạn đọc.” [Bách Khoa, số 135, 15/8/1962]
08 Tháng Mười Hai 202110:17 CH(Xem: 9801)
Chúng tôi xin được lấy tên thiên tiểu luận đặc sắc Một cuốn kinh về tình thương [12, tr.139] của nhà văn Lưu Trọng Lư làm nhân lõi cho nội dung bài viết này. Người viết vốn được mệnh danh là “nhà văn của tình thương” từ đầu những năm 30 của thế kỷ trước đã “chiêu tuyết” cho nhân vật từng bị phán xét là “đĩ đứng đầu” bằng những lời nồng nhiệt, đặc biệt nhận định Thúy Kiều là “kẻ có một mối từ tâm lớn” [13, tr.1690]. Và suốt từ khi Truyện Kiều ra đời đến nay, tình thương hay “mối từ tâm lớn” toát ra từ kiệt tác này cùng những giá trị nội dung tư tưởng nhiều mặt của nó đã/ đang được bàn luận sôi nổi, với nhiều lý thuyết cũ - mới chắc không bao giờ chấm dứt…
28 Tháng Mười Một 20219:39 CH(Xem: 9734)
Xem xong phim “LEVIATHAN”, tôi nhớ tới bộ phim màu Liên-xô “ILIA MUROMET” từ hơn nửa thế kỷ trước và chợt nghĩ: nhiều người có tuổi thơ đã từng say mê dán mắt trên màn ảnh bộ phim quay về một câu chuyện cổ tích Nga nọ, nếu hôm nay được xem bộ phim Nga hiện đại “LEVIATHAN” dựa theo câu chuyện về một quái vật thần thoại trong Kinh Thánh, chắc sẽ bàng hoàng, ngỡ ngàng đến đau đớn… Cái vẻ đẹp phi thường của dũng sĩ huyền thoại Nga chiến thắng rồng lửa nhiều đầu để bảo vệ hạnh phúc dân lành giờ đã biến mất tăm, chỉ còn lại trên đất nước hùng vĩ ấy sự thống trị & lộng hành của cái ác, sự giả dối đáng kinh tởm, trở thành lãnh địa của những kẻ ngang nhiên chà đạp lên quyền sống người lương thiện, bên đống xương mục của Cá Ông voi,Vua Biển cả - vết tích sót lại của một thời cổ tích tựa ánh tàn của mơ ước Con người từ ngàn xưa đang hấp hối…
18 Tháng Mười Một 20213:43 CH(Xem: 11600)
Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà… Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình. Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Tạ Tỵ [thư gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 29.2 & 27.7.2000]
01 Tháng Mười Một 202111:05 CH(Xem: 10476)
Tôi xin tạm mượn nhận định của một nhà văn học sử Nga viết về văn hào F. Dostoyevsky để nghĩ về phim AIKA (sản xuất năm 2017) - bộ phim đã đoạt một số giải thưởng Quốc tế mà tôi vừa được xem, vì thấy rõ một điều: truyền thống hiện thực chói sáng của văn học Nga cổ điển - tiêu biểu là F. Dostoyevsky hóa ra vẫn được tiếp tục một cách xứng đáng trong văn học nghệ thuật Nga hiện đại (ở đây tôi chỉ xin nói tới một dòng của điện ảnh Nga tạm gọi là “Hiện thực tàn nhẫn không thương xót”) - có nghĩa là đã vượt qua vòng “Kim cô” Hiện thực xã hội chủ nghĩa từng thống trị tinh thần xã hội Xô Viết một thời gian dài dẫn đến những tác phẩm nghệ thuật nặng tuyên truyền phục vụ kịp thời và đã rơi vào lãng quên…
26 Tháng Mười 202112:17 SA(Xem: 10539)
“… những cố gắng suy nghĩ của một người vẫn ước muốn tự đặt cho mình một kỷ luật đồng thời cũng là một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua và cứ như thế mãi mãi…” [Cùng bạn độc giả, Lược Khảo Văn Học I] [1] Nguyễn Văn Trung
10 Tháng Mười 202111:31 CH(Xem: 10513)
Sau khi đưa một cảm ngôn về bức tranh của họa sĩ Lê Sa Long & ý kiến của nhà văn Trần Thùy Linh như một lời kêu gọi các nhà điêu khắc, họa sĩ, nhà văn, nhạc sĩ hôm nay: “DỰNG TƯỢNG ĐÀI NÀY ĐI: CUỘC “THIÊN DI” CỦA NHỮNG ĐỨA TRẺ VÀ BÀ MẸ CHƯA TỪNG CÓ TRONG LỊCH SỬ…”, nhằm góp phần miêu tả “nhân vật chính của Thời Đại, biểu tượng cho cả một dân tộc vượt lên cảnh ngộ bi kịch tìm lối thoát cho quyền sống của mình”, rất nhiều người đã ủng hộ. Nhưng cũng có không ít người lồng lên phản đối như bị “chạm nọc”, thậm chí chửi bới rất tục tĩu (xin lỗi không viết ra vì xấu hổ thay cho họ). Để trả lời họ, với tư cách là một người làm phim, tôi xin có vài suy ngẫm về NHÂN VẬT THỜI ĐẠI giúp họ tham khảo.
08 Tháng Mười 20219:37 CH(Xem: 9858)
Trong toàn bộ thơ văn chữ Hán, chữ Nôm của Đại thi hào Nguyễn Du, có một kiểu/ loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt được ông thể hiện với cảm hứng thi ca và nghiệm sinh sâu sắc - đó là những người phụ nữ Tài - Sắc mà số phận bất hạnh, những “má hồng phận mỏng”, những giai nhân bạc mệnh, “hồng nhan đa truân”, phải chịu số phận “Tài Mệnh tương đố” với lời nguyền ác nghiệt: “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”… Cần khẳng định ngay một điều là, cái vẻ đẹp bí ẩn, quyến rũ, cuốn hút, thấm đẫm hồn cốt phương Đông kèm theo tài hoa hiếm có của họ, với Nguyễn Du là “chất ngọc quý” của đời, như một giá trị mang tính nhân bản - dù họ ở tầng lớp con hầu, kỹ nữ dưới đáy xã hội, hay ở bậc nữ hoàng, phi tử cao vời…