- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Phía Bên Kia Cuộc Cách Mạng 1945: Đế Quốc Việt Nam (3-8/1945) [phần 1 Của 4]

04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 79899)

Phía Bên Kia
Cuộc Cách Mạng 1945:
Đế Quốc Việt Nam (3-8/1945)
[The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945)

(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử. Tác giả muốn bày tỏ sự tri ơn với Giảng sư Daniel F. Doeppers, Hội đồng học bổng Fulbright Bộ Ngoại Giao Mỹ, các nhân viên liên hệ tại Việt Nam, cùng sự trợ giúp của cơ quan đối tác Đại Học Khoa Học Nhân Văn thành phố HCM, và nhiều học giả, sử gia, nhân viên ba trung tâm lưu trữ quốc gia tại Hà Nội và Sài Gòn, cùng các thân hữu trong chuyến du khảo năm 2004-2005.

Cũng cần nhấn mạnh, là người nghiên cứu sử chuyên nghiệp, những thông tin của tôi đều dựa trên những tư liệu khả tín sau 30 năm làm việc tại các văn khố nhiều nước. Chủ đích của tôi chỉ nhằm trả lại sự thực cho lịch sử. Điều này dĩ nhiên không làm hài lòng mọi phe phái chuyên nghề cung văn và đào mộ, mà thế giới gọi là “mọi rợ văn hoá.” Những nhận xét bâng quơ như tôi “đề cao” chính phủ Trần Trọng Kim hay “hạ giá trị” Hồ Chí Minh, cần chứng minh bằng tài liệu rằng những thông tin tôi đưa ra sai lầm, không có chỗ y cứ (như Trần Trọng Kim được đặc cách vào trường Thuộc Địa trong khi Nguyễn Sinh Côn bị từ chối, do tôi công bố lần đầu tiên trong thập niên 1980). Nhận xét “không hề có cuộc cách mạng từ bên trên” tại Việt Nam từ ngày 9-10/3/1945 sai lầm, thiếu hiểu biết về lý thuyết cách mạng một cách trung dung, và có thể chỉ do ảnh hưởng của thuyết Marxist-Leninism Trung Cổ hiện đã bị đào thải ở “thành đồng Liên Sô” và Tây Âu. [Xem infra]

Những xuyên tạc lịch sử, theo tôi, là tội lỗi hàng đầu với hậu thế. Đây phải là khuôn vàng thước ngọc của người trí thức. Những sử gia chân chính ít nữa phải giữ được sự trung thực của Vũ Quỳnh khi chép việc Trường Lạc Hoàng hậu dùng thuốc độc để bôi lên vết lở của Nho vương Lê Thánh Tôn cho vua mau chết. (ĐVSKTT, BKTL, XIII:79, Hoàng Văn Lâu (2009), 2:649) [so sánh vua ngang Thiếu Khang nhà Hạ, Tuyên Vương nhà Chu, hơn Quang Vũ nhà Hán, Hiến Tông nhà Đường. Tiếc rằng vua nhiều phi tần quá, nên mắc bệng nặng. Trường Lạc hoàng hậu bị giam ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được vời đến hầu bệnh, bèn ngầm dấu thuốc độc trong tay mà sờ vào chỗ lở, bệnh vua do vậy mới thêm nặng] Hơn nữa, cũng cần nói đến khả năng đọc và hiểu–sinh ngữ tôi dùng viết luận án là Anh ngữ. Những hiểu lầm có thể xảy ra từ phía người đọc hoặc trích dẫn.

 

Nên nhớ rằng tư liệu văn khố không chỉ có những thông tin mà các học giả trích dẫn. Không được đọc nguyên bản, tốt nhất là chỉ dịch và im lặng. Đa tạ Giáo sư/Tiến sĩ Phạm Cao Dương và vợ chồng Vũ Thái Dũng đã giúp tôi tiếp cận “công trình lược dịch những nghiên cứu về chính phủ Trần Trọng Kim” qua Việt ngữ năm 2009 nói trên.

 

Giai đoạn ngắn ngủi từ ngày 9-10/3/1945, khi Nhật chấm dứt chính quyền Bảo hộ Pháp tại Đông Dương bằng chiến dịch Meigo, tới ngày 21/8/1945, khi guồng máy quân sự Nhật bị sụp đổ là một trong những thời kỳ quan trọng trong lịch sử cận đại. Trong giai đoạn này, hai chính phủ “độc lập” ra đời, chấm dứt hơn tám mươi năm Pháp đô hộ, và kích động một cuộc cách mạng xã hội mà đặc điểm là hiện tượng Việt-Nam-Hóa tất cả các cấu trúc xã hội. (1)

Trong khối văn chương cổ điển về thời kỳ này–đặc biệt những tác phẩm xuất hiện trước 1991–các tác giả chỉ chú trọng đến biến cố gọi là “cuộc đảo chánh Nhật ngày 9/3/1945,” hay việc đoạt chính quyền của Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh [Việt Minh], do Cộng sản lãnh đạo, được xưng tụng như “cách mạng Tháng Tám 1945,” với sự yểm trợ của Sở Hành Động Chiến Lược (OSS) Mỹ. Không được tiếp cận các tư liệu gốc, chỉ sao chép lại cả những lỗi lầm của người đi trước trong “nghiên cứu” của mình, và đôi khi không có một kiến thức cơ bản về xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, một số tác giả tảng lờ hay tìm cách hạ giá chế độ được phe thua trận Nhật bảo trợ, tức “tân” Đế quốc Việt Nam (11/3-25/8/1945). Đó là chưa kể quan điểm khẳng quyết [determinist] giáo điều, giành độc quyền cách mạng hay yêu nước một cách Trung Cổ cho một giai tầng nào đó, và qui luật cung văn-đào mộ của các cán bộ agitprop phụ trách tuyên truyền. Vài trường hợp ngoại lệ là bài viết của Ralph B. Smith (1978), Masaya Shiraishi (1982), và Kiyoko Kurusu Nitz (1983, 1984). (2) Sử dụng tài liệu văn khố Nhật liên quan đến việc Nhật tước vũ khí quân Pháp trong tháng 3/1945 và tờ báo Pháp ngữ L'Opinion-Impartial [Trung Lập] xuất bản tại Sài Gòn, Smith thuật lại tỉ mỉ cuộc tấn kích quân sự (với danh hiệu Chiến dịch MEIGO) để lật đổ chính quyền Pháp và sự thành lập chính phủ Trần Trọng Kim (17/4-25/8/1945) tại Thuận Hóa tức Huế. Được tham khảo các tài liệu tương tự, cộng thêm một số tài liệu Nhật và Việt ngữ, cùng những cuộc phỏng vấn một số tác nhân Nhật, Shiraishi ghi lại chi tiết cuộc thanh trừng của Nhật ngày 9/3/1945 và bí ẩn quanh việc Nhật lựa chọn các cộng sự viên Việt. Nitz cũng sử dụng nhiều tài liệu Nhật hiếm, quí. Tuy nhiên, số lượng tư liệu văn khố Pháp dồi dào cùng những ấn phẩm định kỳ Nhật và Việt ngữ đương thời chưa được khai thác kỹ lưỡng, bởi thế các tác giả chưa tái tạo được đầy đủ giai đoạn chuyển tiếp trên, một khúc quanh quan trọng của lịch sử Việt Nam.

Năm 1995, David G. Marr cũng công bố một nghiên cứu xuất sắc về cuộc cách mạng 1945, dưới tựa Vietnam 1945: The Quest for Power [Việt Nam 1945: Đi Tìm Quyền Lực]. Tổng hợp nhiều nghiên cứu cổ điển với những thông tin mới từ các văn khố nhiều nước, phỏng vấn nhiều tác nhân lịch sử Mỹ, Nhật, Việt và Pháp, nhưng Marr chưa sử dụng các thông tin hậu chiến tranh lạnh từ các văn khố Nga, Trung Hoa, Pháp và Việt Nam.( 3)

Bài viết này trình bày đầy đủ hơn về chính phủ Trần Trọng Kim. Trước hết, bài viết sẽ giới thiệu một cách tổng quát Việt Nam trong giai đoạn kể trên làm nền tảng cho những điều thảo luận, rồi đi sâu vào nội tình Việt Nam, đặc biệt là những việc làm và tầm quan trọng của chính phủ Kim. Tôi tin rằng chính phủ Kim—trong thời khoảng vỏn vẹn bốn [4] tháng và dưới những điều kiện cực kỳ khó khăn—đã khởi xuất những bước quan trọng về hướng nền độc lập của Việt Nam, kể cả việc Việt-Nam-hóa phần nào guồng máy hành chính bảo hộ Pháp, và đã thương thảo việc thống nhất lãnh thổ trước khi “Việt Minh đoạt chính quyền” vào tháng 8/1945—theo kết luận của Trường Chinh, trong xã luận “Cách Mạng hay đảo chính,” trên báo Cờ Giải Phóng, “Cơ quan tuyên truyền, cổ động trung ương của Đảng Cộng Sản Đông Dương” (số 16, 12/9/1945). Chính phủ Kim đã kích động sự tham gia chính trị của đám đông, cổ súy việc tách rời khỏi ảnh hưởng Pháp, rồi trao cho chế độ thù nghịch và kế vị, tức chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) của Hồ Chí Minh (1890-1969), bí danh của Nguyễn Sinh Côn (1892-1969), một thế hệ tuổi trẻ có tổ chức và chính-trị-hóa—một nguồn tài nguyên quí báu cho cuộc cách mạng tháng 8/1945 và cuộc kháng chiến chống Pháp kế tiếp. Chính phủ Kim phát động cuộc cải cách giáo dục, kể cả việc chọn Việt ngữ dựa trên mẫu tự Latin làm quốc ngữ tại các công sở và trường học, củng cố sự độc lập văn hóa với cường quốc thực dân phía bắc. Nếu không khảo sát kỹ những việc làm của chính phủ bị lãng quên này, tôi tin rằng người ta sẽ chỉ trình diện cuộc cách mạng 1945 một cách sai lạc, phiến diện, và đồng thời đơn giản hóa những biến cố kế tiếp đã dẫn đến cuộc chiến tranh 30 năm (1945-1975).

Nguồn tư liệu của chúng tôi gồm hồ sơ Tòa Quân Sự Quốc Tế tại Viễn Đông (Pritchard và Zaide 1981), những tập biên khảo do cựu sĩ quan Nhật thực hiện về hoạt động của Lộ quân Miền Nam (Detwiler và Burdick 1980), tài liệu văn khố Pháp, Mỹ, cùng các báo chí, ấn phẩm định kỳ xuất bản tại Đông Dương và Nhật. (4)

Một số học giả Nhật cho rằng những chứng từ tại Toà án quốc tế Tokyo thiếu vô tư—một việc khó tránh, như trường hợp cuộc thảm sát Nanking vào tháng 12/1937—nhưng chúng là những tư liệu đương thời quí báu, có thể sử dụng một cách hữu ích nếu tỉ đối với các chứng từ khác. Những tài liệu mới sử dụng thêm cho bản hiệu đính này gồm Kho Quốc Hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] (TTLTQG 3, Hà Nội) và Kho Phủ Tổng thống cùng Kho Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa [VNCH] (TTLTQG 2, TP/HCM), hồi ký hay nhật ký của một số Bộ trưởng đầu tiên của chính phủ [VNDCCH], đặc biệt là Vũ Đình Hoè, cùng những tư liệu khác thu thập được tại Việt Nam trong chuyến du khảo năm 2004-2005.( 5)

 

Tân Đông Dương Của Nhật

Sau gần 54 tháng sử dụng chính quyền Pháp thân Vichy ở Đông Dương như một công cụ hành chính—hoặc cổ đông viên thứ hạng [junior partner], nếu muốn—để khai thác tối đa phần đóng góp của Đông Dương vào cuộc chiến Đại Dông Á, ngày 9-10/3/1945, người Nhật chấm dứt cuộc hợp tác lưỡng lợi này. (Vũ Ngự Chiêu,1984:chương 2, 5) Tối đó, Đại sứ Matsumoto Shunichi trao cho Toàn quyền Jean Decoux (1940-1945) của chế độ Vichy một tối hậu thư, đòi kiểm soát trực tiếp Đông Dương, tước bỏ vũ khí của quân đội và cảnh sát Pháp, với thời hạn hai [2] giờ phải trả lời. Ngay sau khi tối-hậu-thư vừa hết hạn, khước từ lời xin tiếp tục thương thuyết, các tư lệnh Nhật tấn công mọi công sở và doanh trại Pháp từ nam chí bắc. Chưa đầy 48 tiếng đồng hồ, người Nhật hoàn toàn làm chủ tình hình; Decoux, những cộng sự viên, và hầu hết các tướng Pháp—kể cả Eugène Mordant (bí danh Narcisse), Tổng đại biểu của chính phủ lâm thời Charles de Gaulle—bị bắt giữ. Một số nhỏ sĩ quan ở Vùng Quản đạo thứ 2 (Lạng Sơn-Cao Bằng) và ít tàu thủy cùng thuyền buồm của Lực lượng Hải quân Bắc Kỳ thoát được qua Hoa Nam. Quan trọng nhất là khoảng 5000 quân thuộc Sư đoàn Bắc Kỳ của Tướng Gabriel Sabattier và Lê-dương ở Sơn Tây của Marcel Alessandri, thoát khỏi cuộc tổng tấn công chớp nhoáng này, rút lên rừng núi Lai Châu và Phong Saly gần biên giới Việt-Hoa. Ngày 2/5/1945, toàn bộ quân Pháp rút chạy qua Vân Nam, và ngày này, Đông Dương bước vào một kỷ nguyên mới do Nhật trù liệu. (6)

 

Nước Nhật nhắm hai [2] mục tiêu khi quyết định thanh trừng chính quyền Decoux: Thứ nhất, để trung lập hóa quân đội Pháp, cảnh sát võ trang, và các cán bộ theo phe de Gaulle mà sự hiện diện tại Đông Dương sẽ tạo cho Nhật nhiều trở ngại nếu Đồng Minh đổ bộ lục địa Đông Á, một điều được tiên đoán rộng rãi sau khi Bộ Tư lệnh Lộ quân miền Nam di tản từ Manila về Đà Lạt. Thứ hai, và quan trọng hơn, là tăng cường phòng thủ Đông Dương (và Thái Lan) bằng cách trực tiếp kiểm soát toàn bán đảo, đồng thời kêu gọi sự yểm trợ của các sắc dân Đông Dương qua kế hoạch cho họ một nền độc lập có điều kiện. (SHAT (Vincennes), 10H xxx ; IMTFE, Exhibit 661 (3:7,168).

 

Sự thay đổi quan trọng nhất là việc thay các viên chức cao cấp trong chính phủ liên bang tại Hà Nội và năm [5] chính quyền bản xứ tại Căm Bốt [Kampuchea], Lào, Bắc, Trung và Nam Kỳ. Ngày 16/3/1945, Tướng Tsuchihashi Yuitsui, Tư lệnh Quân đoàn 38, tức Quân đoàn đồn trú ở Đông Dương, trở thành Toàn quyền Nhật thứ nhất, và duy nhất. Ít lâu sau, qua tháng 5/1945, Tsuchihashi dời Tổng hành dinh từ Sài Gòn ra Hà Nội. Đại sứ Matsumoto trở thành Cố vấn chính trị của Toàn quyền; và sau đó Tsukamoto Takeshi lên thay, nhưng chỉ mang tước hiệu Tổng thư ký (thường được người Việt gọi tôn lên là Phó Toàn quyền). Các viên chức Nhật trực tiếp điều khiển mọi nha sở của chính phủ liên bang, đặc biệt là cảnh sát, tư pháp, tài chính, kinh tế, thanh niên và thể thao, và thông tin. Trong khi đó, Nam Kỳ có một Thống Đốc, Minoda Fujio, cựu Tổng lãnh sự Sài Gòn. Bắc Kỳ được một Quyền Thống Sứ, Nishimura Kumao, cho tới thượng tuần tháng 5/1945, khi Bắc Kỳ được sát nhập vào “tân” Đế quốc Việt Nam của Hoàng đế Bảo Đại. Những xứ mới độc lập như An-Nam, Căm Bốt và Lào đều có một Cố vấn Tối cao hay Đại sứ. (L'Action, 19/3 & 20/4/1945).

Ngoại trừ những cuộc hành quân tảo thanh—để truy lùng cảnh sát thân chế độ Vichy và gián điệp thuộc phe de Gaulle đã xâm nhập vùng duyên hải Bắc Bộ dưới sự bảo trợ của cơ quan tình báo chiến lược Mỹ [OSS]—cộng đồng Pháp kiều được đối đãi khá tử tế. Các viên chức Pháp hạng thấp và chuyên viên được phép tiếp tục làm việc. Thường dân Pháp mất ưu quyền của giai tầng thống trị, chịu một số biện pháp chế tài trong thời chiến như tịch thu vũ khí, máy thu thanh, máy chụp hình và máy đánh chữ, kiểm soát việc di chuyển và hội họp, và chỉ định cư trú. Với phần đông Pháp kiều, đời sống trở lại bình thường. Ngày 15/3, Ngân Hàng Đông Dương mở cửa trở lại. Báo tiếng Pháp tục bản ở Sài Gòn và Hà Nội, tức hai tờ L'Opinion-Impartial [Trung Lập] và L'Action [Hành Động]. Dù luận điệu của hai nhật báo trên thân Nhật, sự có mặt của chúng giúp minh bạch hóa chính sách của Nhật trước hệ thống tuyên truyền của Đồng Minh hay những lời đồn đãi vô căn—một đặc tính khó trộn lẫn của người Pháp cũng như Việt. Trường hợp bị dời chỗ ở, mỗi gia đình (hộ) được phép mang theo một người làm. Chính quyền Nhật cũng bảo đảm sự an toàn của thường dân Pháp.

 

Với dân Đông Dương, Tsuchihashi quyết định cải hóa càng nhiều cựu cộng sự viên với Pháp càng tốt. Vua Bảo Đại của An-Nam, Norodom Sihanouk của Căm Bốt, và Srisavang-vong của Lào đều được khuyến khích tuyên bố độc lập với Pháp, và nhìn nhận Tuyên Cáo Chung của các nước Đại Đông Á. (L'Action, 19/3 & 15/4/1945). Thuộc hạ của họ, ngoại trừ những người mất lòng dân chúng và có lập trường thân Pháp, đều được giữ nguyên vị. Một số người được đưa lên những chức vụ cao hơn trước kia dành riêng cho Pháp kiều. (L’Action, 31/3/1945)

Tại Huế, theo người viết hồi ký cho Bảo Đại, sau khi đã yêu cầu vợ chồng Bảo Đại bỏ dở chuyến đi săn ở phía bắc Quảng Trị đêm 8/3 và hộ tống phái đoàn nhà vua trở lại Hoàng thành vì lý do an ninh, sáng 11/3 Cố Vấn Tối Cao Yokoyama Masayuki—cựu Giám đốc Văn Hóa, nói thạo tiếng Pháp—đến thăm Bảo Đại và, trái với nỗi lo ngại của Nhật, thuyết phục được vua hợp tác. (7) Mối lo sợ trên chẳng phải thiếu căn cứ. Sau này, Khâm sứ Vatican ở Huế là Giám mục Antonin Drapier tiết lộ với Linh mục/Cao Ủy Georges Thierry d’Argenlieu rằng thượng tuần tháng 3/1945 Bảo Đại đã nhờ ông ta liên lạc với phe “Pháp tự do” [France Libre]. Drapier cũng tin rằng vợ chồng Bảo Đại là gia đình thân Pháp bậc nhất ở Việt Nam. (CAOM (Aix), HCFI, Conseiller Politique [CP], Carton 125). Chiều Chủ Nhật, 11/3/1945, Bảo Đại họp nội các, và ai nấy đều ủng hộ tuyên cáo độc lập với Pháp.

 

Nhưng cựu Ngự tiền đổng lý văn phòng Phạm Khắc Hoè nhớ lại rằng Yokoyama cùng Phạm Quỳnh (1892-1945), Cơ Mật Viện trưởng kiêm giữ bộ Lại, đã gặp Bảo Đại trước đó một ngày, tức khoảng 10 giờ sáng ngày 10/3. Buổi chiều, Quỳnh gọi điện thoại triệu tập họp Cơ Mật vào sáng hôm sau, nhưng không thông báo với Hoè. 8 giờ sáng Chủ Nhật, 11/3 (tức 27 tháng Giêng Ất Dậu), Bảo Đại họp với sáu [6] thượng thư tại điện Kiến Trung. Quỳnh được lệnh thông báo về chuyến viếng thăm chiều Thứ Bảy của Cố vấn Tối cao Nhật, rồi tuyên bố mục đích của phiên họp Cơ Mật Viện nhằm tuyên bố độc lập với Pháp. Cả nội các đều tán thành. Bùi Bằng Đoàn (bộ Hình) đề nghị phải tuyên bố hủy bỏ các hiệp ước với Pháp. Quỳnh cho biết đã soạn sẵn dự thảo, và chuyển cho mọi người đọc. Vừa đọc dự thảo này, Hồ Đắc Khải (Hộ) và Trương Như Đính (Công) vừa tấm tắc khen hay. Ưng Úy (Lễ), Trần Thanh Đạt (Học) không có ý kiến gì thêm. Bảo Đại sai Hoè mang bản thảo Tuyên Ngôn Độc Lập ra ngoài hoàn tất thủ tục. Sau khi Bảo Đại và các thượng thư ký xong, Ưng Úy (Lễ) đề nghị ngày 14/3 [1/2 Ất Dậu] tiến hành lễ báo cáo độc lập với Liệt Thánh. (Phạm Khắc Hoè, 1987:14, 17-8)

 

Bản tuyên cáo độc lập ngày 11/3 có những điểm đáng chú ý đặc biệt. Trước hết, dù vô tình hay cố ý, nó chỉ nói đến An-Nam—một thuật ngữ có thể diễn dịch như An-Nam (Trung Kỳ, từ Thanh Hóa vào Bình Thuận), hay vương quốc Đại Nam (gồm cả ba kỳ). Thứ hai, bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước 6/6/1884 về việc “bảo hộ” Trung và Bắc Kỳ, mà không đả động gì đến các hòa ước 5/6/1862 và 15/3/1874 xác định nhượng đứt Nam Kỳ, hay các qui ước 1887 và 1896 liên quan đến các thị xã nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng (Tourane). Thêm nữa, bản tuyên cáo độc lập với Pháp của Bảo Đại đi kèm với lời tuyên bố phụ thuộc vào Nhật, hứa hẹn “Hợp tác toàn diện với Đế quốc Nhật trong niềm tin thành khẩn vào thiện ý của Nhật.” (8)

 

Như thế vai trò Bảo Đại, trong kế hoạch sơ khởi của Nhật, cũng tương tự vai trò dưới thời Pháp thuộc—vua chỉ là vòng hoa vương giả mà không chút thực quyền ngoài “văn phòng phụ thuộc nhỏ” của Dinh Cố vấn Tối Cao. (9) Mãi tới giữa tháng 5/1945, sau khi cho tái lập chức Khâm sai Bắc Kỳ theo ý muốn của phe đảng Khôi-Diệm, Tsuchihashi mới có thì giờ ghé Huế thăm Bảo Đại, mang theo tân Khâm sai Phan Kế Toại. (L’Action, 18/5/1945. Shiraishi ghi ngày 11/6/1945)

Hôm sau, ngày 12/3, Bảo Đại sai Hoè thảo Dụ cử Quỳnh làm đại diện liên lạc với Nhật. Hoè tìm cách dèm xiểm Quỳnh là “người xấu, bị mọi tầng lớp nhân dân oán ghét và giới nhân sĩ, trí thức khinh bỉ,” nhưng Bảo Đại vẫn cho lệnh thi hành. Hoè bèn thảo một “Chỉ” [lệnh ở hàng thấp nhất, dưới Dụ và Sắc], rồi âm mưu cùng nhóm “Nghệ An đồng châu phổ” làm một cuộc đảo chính cung đình, loại bỏ Quỳnh. (Bao Dai, Le Dragon, 1980:101; Phạm Khắc Hoè, 1987:14-9).

 

Để tạo một kích xúc tâm lý, ngày 17/3 Bảo Đại được phép ra tuyên cáo (Dụ số 1) là từ nay sẽ trực tiếp tham chính, trên nguyên tắc “Dân vi quí” —một lời dạy của Mạnh Kha. (10) Theo Hoè, có thể Phụ Đạo Lê Nhữ Lâm hay Yokoyama đã mớm ý cho Bảo Đại học thuyết “Dân Vi Quí, Xã tắc thứ chi, quân vi khinh” mà nhiều nho gia “tiến bộ” như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường yêu thích.

Hoè còn tự nhận công lao trong việc từ chức tập thể của nội các Phạm Quỳnh: Từ ngày 14/3, Hoè đã bàn việc loại Quỳnh với Tôn Quang Phiệt (1900-1973), người cùng “Nghệ Tĩnh đồng châu phổ.” Phiệt là hiệu trưởng tư thục Thuận Hóa, từng thành lập tổ chức Phục Việt khi còn là sinh viên trường Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, rồi năm 1928 trở thành Bí thư Tân Việt Cách Mệnh Đảng [TVCMĐ] ở miền bắc (Trí kỳ), và bí mật gia nhập Đảng CSĐD từ trước ngày TVCMĐ đổi tên thành Việt Nam Cộng Sản Liên Đoàn hay Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn [CSLĐ] vào đầu năm 1930. Trong số các đảng viên Trung Kỳ [Nhân Kỳ], ngoài Tổng Thư Ký Đào Duy Anh, và Trần Mộng Bạch, có Nguyễn Thị Vịnh tức Minh Khai, Ngô Đức Trì, Hà Huy Tập, Đặng Thái Mai, Nguyễn Quốc Túy, Trần Vĩ, Võ Liêm Sơn, Nguyễn Hữu Diếu, Trần Hữu Duẩn, Nguyễn Khoa Văn, Võ Giáp, v.. v... (Phạm Khắc Hoè, 1987:20; Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký, 1996:142; CAOM (Aix), SLOTFOM, III, Carton 48; TTLTQG 3 (Hà Nội), Kho Quốc Hội [QH], Hồ sơ [HS] 5865).( 11)

 

Được Phiệt cổ võ, tối 17/3, Hoè thành công trong việc thuyết phục các Thượng thư đồng loạt từ chức, để Bảo Đại được tự do, với sự trơ giúp của Phiệt và Hoè, tìm “người tài đức” mới. 2 giờ chiều Thứ Hai, 19/3, trong khí thế cách mạng thay đổi nội các, Hoè nộp lên Bảo Đại danh sách 14 “nhân sĩ” đã có sự bàn bạc của Bùi Bằng Đoàn, Ưng Úy, Tạ Quang Bửu và Tôn Quang Phiệt. Bảo Đại chọn tám [8] người mời về Huế tham khảo: Trần Đình Nam (Đà Nẵng), Hồ Tá Khanh (Sài Gòn/Phan Thiết?), Lưu Văn Lang (Sài Gòn), Hoàng Trọng Phu (Hà Đông), Trần Văn Thông (Hà Nội), Hoàng Xuân Hãn (Hà Nội), Vũ Văn Hiền (Hà Nội), hoặc Phan Anh (Hà Nội), tùy Hãn chọn. Trong số sáu [6] người không được mời có Huỳnh Thúc Kháng (Huế), Tôn Quang Phiệt (Huế), Lê Ấm (Qui Nhơn), Vương Quang Nhường (Sài Gòn), Ngô Đình Diệm (Sài Gòn/Vĩnh Long), Trịnh Văn Bính (Hà Nội/Hải Phòng), (Phạm Khắc Hoè, 1987:25-6). Trước đó, Bảo Đại từng sai Hoè mời Huỳnh Thúc Kháng—cựu Chủ tịch Viện Dân Biểu An Nam—vào bái kiến, nhưng Kháng từ chối. (Phạm Khắc Hoè, 1987:21) Hoè có vẻ hàm ý rằng có thể Kháng chịu ảnh hưởng Ngô Đình Khôi, thuộc phe Cường Để.

 

Riêng nhóm ba trí thức trẻ Hãn, Hiền, Anh có thể do Nhật đề nghị, hoặc do liên hệ gia đình với Hoè (Hãn), hay/và hảo ý trọng những tài năng trẻ của Bảo Đại—đã từng du học Pháp 10 năm và quen dùng tiếng Pháp hơn tiếng Việt. Bảo Đại thông minh hơn nhiều người cả đoan, và dưới sự giáo huấn nghiêm khắc của Jean Charles, trở thành một hình nhân giát vàng khuôn mẫu. Thuật ngữ “bù nhìn” [puppet] sính dùng thường khiến người ngoài, xa lạ với sân khấu quyền lực, khó tri nghiệm được khả năng của các vua chúa “bù nhìn.”

Tuyên cáo độc lập ngày 11/3 của Bảo Đại, tưởng cần nhấn mạnh, chỉ liên quan đến An Nam (Trung) và Bắc Kỳ. Mặc dù nó mang lại cảm hứng và hy vọng được độc lập và thống nhất lãnh thổ, ở thời điểm này nó chẳng có hiệu lực gì với tình trạng chính trị tại Nam Kỳ. Thống đốc Minoda nhiều hơn một lần nhắc nhở những chính khách Việt quá xúc động là định nghĩa “độc lập” của Nhật rất giới hạn, nhất là không nên gợi lại thù oán cũ. Ngày 29/3/1945—trước ngày Trần Trọng Kim được hồi hương để tham khảo về lịch sử—Minoda nhấn mạnh rằng không ai có thể hiểu lầm sự kiện rằng Nam Kỳ thuộc quyền “chỉ huy quân sự” của Nhật, hay nền độc lập của Việt Nam tùy thuộc vào kết quả của cuộc chiến Đại Đông Á. (L'Action, 31/3/1945; Kim, 1969, tr. 44).

 

 

I. TÌNH TRẠNG VIỆT NAM, 3-4/1945:

 

Việc Nhật thanh trừng người Pháp và ban cho Bảo Đại “độc lập có điều kiện” xảy ra trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn, khiến sự ủng hộ của quốc dân bị giảm sút.

Thứ nhất, thật rõ ràng là Nhật đang thua trận. Sau này Hoàng Xuân Hãn nhớ lại rằng ngày ấy Hãn và thân hữu nghĩ Nhật ít nữa cầm cự được khoảng một năm. Đề đốc Louis Mountbatten, Tư lệnh Mặt Trận Đông Nam Á [SEAC] của Bri-tên, dự trù đổ bộ lên Malaya vào tháng 9, và chiếm Singapore vào cuối năm 1945. Chính Josef Stalin cũng không ngờ tại Hội nghị Potsdam Tổng thống Harry S. Truman và Thủ tướng Winston S. Churchill đã quyết định rút ngắn cuộc chiến bằng hai trái bom bom nguyên tử. Tuy vậy viễn ảnh bại trận của Nhật—nhất là sau cái chết của Adolf Hitler ngày 1/5/1945 và sự đầu hàng của Germany [Đức] hôm sau—tạo nên thái độ bất hợp tác trong giai tầng có học, giai tầng cung cấp phần lớn những cộng sự viên của Nhật. Trong khi đó, chính phủ Charles de Gaulle tại Paris dồn mọi nỗ lực tái chiếm Đông Dương. Song song với nỗ lực trên bình diện quốc tế để giành “quyền sở hữu tối thượng” Đông Dương, Pháp gửi đặc công và gián điệp vào Việt Nam để thu lượm tin tức hay phá hoại. (Sainteny 1953; SHAT [Vincenes], Indochine, 10 H xxx). Cán bộ tuyên truyền Pháp rao giảng tuyên cáo ngày 24/3/1945, trong đó Pháp hứa hẹn sẽ cho năm [5] xứ Đông Dương nhiều tự trị hơn và sẽ thực hiện một số cải cách để nâng cao mức sống dân chúng, như thánh kinh Gaullist. (Journal Officiel de l’Indochine Francaise [JOFI], 15/11/1945: 2-3).

 

Độc hiểm hơn, sau tuyên ngôn độc lập ngày 11/3 của Bảo Đại phe Gaullist mở một loạt chiến dịch tuyên truyền gây nghi ngờ và chia rẽ giữa các tổ chức chính trị và giai tầng xã hội Việt. Một trong những chiến dịch này là đánh bóng tên tuổi cựu hoàng “làm loạn” Duy Tân (1907-1916), người đã bị truất phế và lưu đầy tới Réunion sau khi tham dự cuộc nổi dạy ngắn ngủi tháng 5/1916 mà theo cựu hoàng Thành Thái có lẽ là âm mưu của nhóm Nguyễn Hữu Bài nhằm đưa Bửu Đảo, tức Khải Định (1916-1925) lên ngôi. Chiến dịch tuyên truyền này gia tăng cường độ trong mùa Hè 1945, khi Hoàng tử Vĩnh San được đưa từ Réunion qua Paris trong “kế hoạch bí mật” về Đông Dương của de Gaulle. (12)

Trong khi đó, Việt Nam tiến gần hơn tình trạng vô chính phủ, nổi bật với ba hiện tượng là cơn sốt độc lập, nạn đói 1944-1945, và sự vượt thắng của Mặt trận Việt Minh dưới sự che chở của OSS Mỹ.

 

A. CƠN SỐT ĐỘC LẬP:

 

Một trong những biến chuyển quan trọng sau chiến dịch Meigo của Nhật ngày 9-10/3/1945 là sự bộc phát cơn sốt độc lập tại Việt Nam. Tiếng “độc lập” có một sức quyến rũ ảo thuật làm thay đổi nhiều người—dù ít người hiểu rõ ý nghĩa, hay những đặc tính của thuật ngữ này.

Tại Hà Nội, một ký giả ghi nhận,

 

Tiếng súng của quân đội Nhật Bản nổ đêm hôm 9/3/1945 ở dải đất này đã phá tan được đời nô lệ non một thế kỷ của chúng ta dưới cuộc đô hộ tàn bạo của Pháp. Từ đây, chúng ta mới thật được sống.” (13)

 

Ngay cả những người trước kia tự nhận chế độ Pháp liên hệ chặt chẽ đến “bát cơm” của họ cũng thay đổi thái độ. Việc Nhật tiếp tục sử dụng Bảo Đại giúp lôi kéo được sự ủng hộ của giới thượng lưu và các gia đình giàu có, thế lực. Hoàng Trọng Phu, nhân vật thân Pháp uy quyền nhất miền Bắc, tới Huế ngày 27-28/3 để cố vấn Bảo Đại về chính phủ độc lập tương lai của “An Nam.” Vi Văn Định, lãnh đạo hàng đầu của dân Nùng tại vùng Lạng Sơn, đến Hà Nội để cố vấn Nishimura Kumao. (L'Action, 7/4/1945) Hồ Đắc Điềm, người được phe De Gaulle coi như một trong 17 đề cử viên có thể đưa ra khỏi nước để trở thành đại diện của Đông Dương tại Quốc Hội Lập Hiến Pháp, được tiếp tục giữ chức Tổng đốc Hà Đông, phía nam Hà Nội. (14)

 

Ngay đến Phạm Quỳnh, đương kim Cơ Mật Viện trưởng—nổi tiếng về chính sách Pháp-Việt đề huề hay “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc,” mục tiêu đả kích của cả Cộng Sản lẫn phe Ki-tô giáo Ngô Đình Khôi-Ngô Đình Thục, và Huỳnh Thúc Kháng từ thập niên 1930, từng được Đại úy “Caille” [Paul Mus] dự định đưa sang India để “kháng chiến” —cũng có tin muốn hợp tác với Nhật. Ví thử Quỳnh có tâm ý chuyển buồm như Hoè tố cáo—suy diễn từ việc Quỳnh soạn sẵn tuyên ngôn độc lập ngày 11/3—chỉ là việc khó tránh của giới quan trường. Có lẽ Hoè không rõ cuộc tiếp xúc bí mật của Mus với Quỳnh nên việc đánh giá có phần vội vã. Hơn nữa, bản Tuyên Cáo độc lập với Pháp, so với Tấm Sự Vụ Lệnh cho Hoè rời Hỏa Lò Hà Nội vào Đà Lạt gặp Nam Phương Hoàng hậu năm 1947, cùng những cung văn Hồ Chí Minh như “Thánh Nam Đàn,” hay việc trịnh trọng đặt trái cam Hồ ban cho lên bàn thờ để kính báo tổ tiên, cùng lời nhục mạ chủ cũ tự chúng phản ánh đặc tính của giới quan lại dưới thời Pháp thuộc nói chung, và cá nhân Hoè nói riêng. (Souverains, 1943:71-2; Phạm Khắc Hòe, “Con Rồng An-Nam phun ra bản chất phản bội và tội ác tày trời của Bảo Đại [Le Dragon d’ Annam Lays Bare Bao Dai’s Traitorous Nature and Towering Crimes]; Tạp Chí Cộng Sản [Review of Communism], vol. XXVII, No.11 (Nov 1982), pp. 59-61)

 

Pham Khac Hoe, [henceforth, “Bao Dai”] ; Idem, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc [From the Hue Court to the North Viet Resistance Zone] (Hanoi: 1983), pp. 9-16 [henceforth Tu trieu dinh]. The true author of Bao Dai’s memoirs incorrectly states that this meeting took place at 11:00 AM on Sunday, March 11, 1945.

 

Giới thanh niên, sinh viên và trí thức trên dưới ba mươi bị khích động mãnh liệt nhất. Phong trào “Cách Mạng quốc gia” của Decoux và các tổ chức Thanh Niên, thể dục và thể thao của Maurice Ducoroy—cùng phong trào Đại Đông Á, châu Á của người Á châu—tạo nên một bầu không khí sống khoẻ, sống hùng một cách lãng mạn trong giới trẻ và thị dân. Hầu hết các lãnh tụ thanh niên, học sinh, sinh viên trong giai đoạn 1940-1945 đều trở thành nòng cốt trong cuộc chiến 30 năm sắp tới—phe này, hoặc phe kia.

 

Tại miền bắc, các đảng phái không Cộng Sản được khuyến khích thành lập một mặt trận liên hiệp để cai quản Hà Nội, Hải Phòng cùng các tỉnh lị, thị trấn. Ngày 22/2/1945, tại Hà Nội, các nhóm Đại Việt bí mật thành lập Đại Việt Quốc Gia Liên Minh. Gồm có nhóm Nguyễn Xuân Tiếu (Đại Việt Quốc Xã), Nguyễn Tường Long (Đại Việt Dân Chính), Trương Tử Anh (Đại Việt Quốc Dân Đảng), Ngô Thúc Địch, Bùi Như Uyên, Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Nhượng Tống (Việt Nam Quốc Dân Đảng), Nguyễn Đăng Đệ, Nguyễn Xuân Dương tức Lạc Long. Ngày Chủ Nhật, 11/3, báo Tin Mới đăng “Tuyên Cáo” của Đại Việt Quốc Gia Liên Minh. 5 giờ chiều, Đại Việt Quốc Gia Cách Mệnh Ủy Viên Hội ra mắt tại Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Đây là tên mới của ĐVQGLM. Tuyên bố đã thành lập Ủy Hội Hành Chính Lâm Thời lúc 9 giờ sáng, sau đổi thành Ủy Ban Chính Trị Bắc Kỳ. Nhưng ngày 19/3/1945, Ủy Ban Chính Trị Bắc Kỳ, tức Ủy Hội Hành Chính Lâm Thời, mới thành lập tám ngày trước, tự giải tán.

Nguyên văn “Tuyên Cáo Quốc Dân” trên như sau:

 

“Chúng tôi thuộc đảng Quốc Gia Liên Minh, nhân lúc giao thời đã ra đảm nhận mấy công việc cần cấp như trật tự, cứu tế, v.. v... Nay tình thế đã tạm yên, chúng tôi tự thấy nhiệm vụ đã hết, xin tuyên bố giải tán, để nhường các ngài có thực tài, thực đức ra cáng đáng những công việc quan hệ hơn.” (Tin Mới, 19/3/1945)

 

Các tổ chức thanh niên và võ thuật tại Hà Nội, Hà Đông, Hải Phòng—như Thanh Niên Ái Quốc của Võ Văn Cầm, Thanh Niên Cách Mạng Quốc Gia của Lê Ngọc Vũ—được tổ chức thành những toán cảm tử chịu trách nhiệm bảo vệ trật tự khi cuộc đảo chính bắt đầu. Vài ba lính heiho này bị thương vong khi tấn công trại binh Pháp ở Hà Nội đêm mồng 9 rạng 10/3/1945.

Nhóm Tự Lực Văn Đoàn cũng tham gia sinh hoạt chính trị, qua việc gia nhập Đại Việt Quốc Gia Liên Minh từ ngày 22/2/1945, tái bản báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới từ ngày 5/5/1945. Nguyễn Tường Long và Nguyễn Tường Bạch [hay Bách] cùng Khái Hưng còn tham gia đảng cầm quyền Tân Việt Nam Hội. Nhóm Thanh Nghị—qui tụ một số luật gia và trí thức cấp tiến như Vũ Văn Hiền, Vũ Đình Hoè, Phan Anh, v.. v.. —tích cực trong việc thành lập chính phủ độc lập đầu tiên, dưới khẩu hiệu “Dân Vi Quí,” rồi được giao hai ghế trong chính phủ Trần Trọng Kim, tái bản tạp chí Thanh Nghị từ ngày 5/5/1945 và vận động thành lập Tân Việt Nam Hội, để giữ gìn nền “độc lập từ trên giời rơi xuống.” (15)

 

Những thành phần nổi danh thân Pháp trong Hội đồng Tư Vấn Bắc Kỳ và Hội đồng Nghị viên thành phố cũng khăn áo tề chỉnh tham dự những buổi họp do Thống sứ Nhật triệu tập. Luật sư Trần Văn Chương—có vợ là nhân vật giao du rộng rãi với các viên chức Pháp và Nhật, cũng như trí thức Việt—được cử làm Chủ tịch Tòa Kháng Án Bắc Kỳ.

Tại miền nam, nơi đặt Bộ Tư lệnh Lộ Quân miền Nam, các lãnh tụ phe nhóm thân Nhật cũng ráo riết hoạt động. Hồ Nhựt Tân, đảng trưởng Đảng Việt Nam Ái Quốc (từ 1943) tuyên bố vào ngày 10/3:

 

Trong lãnh thổ rộng mông mênh của Đại Đông Á dưới sự lãnh đạo của Đại Nhật Bản, dân tộc Việt Nam sẽ tận lực xây dựng một quốc gia mới dựa trên nguyên tắc bình đẳng và tự do. (16)

 

Như để thực hiện ước muốn này, ngày 10/3, Hồ Văn Ngà (1905-1945) ra mắt Việt Nam Quốc Gia Đảng, hậu thân Việt Nam Độc Lập Đảng. Tám ngày sau lại đổi tên thành Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, qui tụ đảng viên Phục Quốc từng hoạt động với Trần Văn Ân (1903-2002), và cựu đảng viên Việt Nam Nhơn Dân Thống Nhứt Cách Mạng Đảng, có chiều hướng khuynh tả—Trốt-kít, theo Mật thám Pháp—cùng Việt Nam Quốc Gia Chánh Đảng. (CAOM (Aix), 7F 27)

 

Các lãnh tụ tôn giáo cũng hoạt động mạnh. Cao Đài có nhóm Trần Quang Vinh (Nghĩa Đạo Thực Hành Đoàn), Trình Minh Thế, Cao Hoài Sang. Giáo chủ [Đức Thày] Huỳnh Phú Sổ (1919-1947) qui tụ dưới trướng nhiều nhân vật chọc trời khuấy nước của Hòa Hảo như Lương Trọng Tường, Năm Lửa Trần Văn Soái, Nguyễn Giác Ngộ, Lâm Thành Nguyên, Ba Cụt Lê Quang Vinh. Nhóm Bình Xuyên của Lê Văn “Bảy” Viễn cũng xuất hiện bên cạnh các tổ chức Nhựt-Việt Phòng Vệ Đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp, Võ Sĩ Đoàn của Đỗ Dư Ánh, Thanh Niên Ái Quốc Đoàn của Đinh Khắc Thiệt, Hắc Long của Huỳnh Chi (cha vợ Trần Phước An) và Huỳnh Khai, v.. v.. (CAOM (Aix), HCFI, CP 191) Từ tháng 5/1945, Lãnh sự Iida còn bảo trợ tổ chức Thanh Niên Tiền Phong của Phạm Ngọc Thạch, Kha Vạng Cân, Nguyễn Văn Thủ, Thái Văn Lung, Huỳnh Văn Tiểng, Thanh Nữ Tiền Phong của Hồ Vĩnh Ký, Nguyễn Thị Sương. Con số hơn 200,000 đoàn viên gia nhập TNTP sau ngày 1/7/1945 có lẽ đã được phóng đại, nhưng tinh thần dấn thân phục vụ đồng bào và cộng đồng là những đặc tính có thể chứng thực.

Các nhóm tự nhận là “Đệ tứ QTCS” hay “Trốt Kít” cũng thành hình, đòi hỏi “dân cày có ruộng.” giới lao động làm chủ xí nghiệp ở Sài Gòn và các thị trấn. Vì chỉ là thiểu số—suýt soát vài trăm người, bị nhóm Đệ Tam tìm đủ cách tận diệt trong dư luận cũng như thể xác—một số liên kết để khuynh đảo các lực lượng giáo phái, nhưng chỉ thành công rất giới hạn.

Tại Huế—sòng bạc quyền chức, danh lợi có nhiều thế kỷ tuổi đời—những mưu mẹo, tiểu xảo, phản trắc, lọc lừa lại thêm một lần mở chiếu bạc mới. Phạm Khắc Hoè—cựu Quản đạo Đà Lạt lừng danh với nghề vào luồn ra cúi, rất được lòng Nam Phương Hoàng hậu và Từ Cung Hoàng Thái hậu—âm mưu cùng phe Nghệ-Tĩnh đồng châu phổ muốn lũng đoạn triều đình. Như đã lược thuật, Hoè âm mưu với Trần Đình Nam và Tôn Quang Phiệt tìm cách loại Phạm Quỳnh—rồi vào tháng 7/1945, đề nghị Nam tống giam Quỳnh, nhưng Bảo Đại không chấp thuận. Mặt khác, Nam và Hoè muốn lợi dụng thế lực Ki-tô giáo của họ Ngô, đưa Ngô Đình Diệm ra làm con cờ thí ở thế cờ tàn Đại Đông Á. Nhưng người Nhật có sẵn một kế hoạch khác mà những “siêu trí tuệ” của Nghệ-Tĩnh đồng châu phổ khó thể thấu đáo. Và anh em Diệm-Khôi từng được Nguyễn Hữu Châu, anh rể Lệ Xuân, xếp hạng là loại người “được chim, bẻ ná.” Những nỗ lực của nhóm Phiệt, Nam hay Hoè chẳng thay đổi gì được đại thể.

 

Nói chung, sau khi loại bỏ khoảng 40,000 Pháp kiều trên đỉnh tháp xã hội, để đưa những người Việt lên thay thế, người Nhật biến những thuật ngữ như Việt Nam, độc lập, bình quyền trở thành thực đơn hàng bữa của mọi giai tầng thị dân. Một số cựu tù nhân được phóng thích hay tự động phá ngục—thuộc đủ khuynh hướng ý thức hệ—cũng thắp hồng ngọn lửa bạo lực. Sự thay đổi giai tầng thống trị này tự nó là một cuộc cách mạng từ trên xuống, lôi cuốn các giai tầng “tân sĩ phu,” thị dân và địa chủ vào một chuỗi phản ứng giây chuyền [chain reactions] chạy đua quyền lực, xóa bỏ đi những khuôn thước trật tự, an ninh và thế giá xã hội cũ. Bởi thế, các con đường dẫn về Huế bỗng tấp nập những nhân vật quan trọng trong Âu phục hay quan phục, được người Nhật mời hay tự mời, để giúp Việt Nam trở thành một nước độc lập trong khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á của Nhật.

Từ miền nam, Tạ Thu Thâu (1906-1945) thuộc nhóm La Lutte/Tranh Đấu rời bỏ chỗ chỉ định cư trú ở Long Xuyên, ngược ra Huế và Bắc Bộ. Hồ Hữu Tường (1910-1982), tự nhận là Đệ tứ Cộng Sản, cũng đi du thuyết từ trung ra bắc tìm đồng chí—phản ánh qua cuộc phiêu lưu của nhân vật “Phi Lạc sang Tàu” sau này. Có tin đồn Tường tiếp xúc cả với Chánh tổng Vũ Duy Đạo—một lãnh tụ Đại Việt nổi danh chống Cộng ở Bình Giang, Hải Dương, nhưng lại có cháu họ là một cán bộ tỉnh ủy Đảng CSĐD. Phái đoàn Nguyễn Thị Thập của Xứ Ủy Nam Bộ Đảng CSĐD trên đườngra họp Hội nghị Tân Trào—nhưng bị trễ—vẫn được Y sĩ Phan Huy Đán, chánh văn phòng Thủ tướng Kim—tiếp đãi.

Người duy nhất vắng bóng là Ngô Đình Diệm—nổi tiếng là “người của Nhật,” thân cận với Cường Để, có “anh trai” làm Giám mục Vĩnh Long, thuộc một gia đình phong kiến, quan lại mới nổi. Tuy nhiên, cha con Ngô Đình Khôi-Ngô Đình Huân công khai ra mặt ủng hộ Nhật và Cường Để, duy trì liên hệ tốt đẹp với Kempeitai và gián điệp Nhật từ năm 1943. Một trong những lý do khiến Khôi không được chức thượng thư hàm mà còn bị ép phải về hưu là Khôi đã sử dụng tư dinh Tổng đốc Nam Ngãi để các em gặp gỡ những phần tử thân Nhật, đặc biệt là Trương Kế An và Phạm Đình Cương—mới được cử làm cố vấn cho các cựu tù nhân chính trị ở Hà Nội. Khoảng 50 thuộc hạ của Diệm trong Đại Việt Phục Hưng Hội bị bắt giữ từ mùa Hè 1944 cũng được phóng thích, tái bổ nhiệm vào ngạch quan lại, công chức hay quân đội. Tuần Vũ Trần Văn Lý được đặc cách lên kinh lược bốn tỉnh nam Trung Bộ, trị sở tại Đà Lạt. Phe đảng Ki-tô “6/6/1884” này rất tự hào về liên hệ chính thống với Nhật, qua Cường Để, ráo riết chuẩn bị cho Ủy Ban Kiến Quốc của Diệm lên cầm quyền, và tố cáo vai trò bù nhìn, tạm thời của Bảo Đại cùng những “tài đức” mới. Một trong những lý do khiến Yokoyama có mặt ở Huế trước 9/3/1945 là mối lo ngại Bảo Đại có thể không chịu hợp tác. Hơn nữa, không thể không đề phòng phản ứng của họ Ngô sau khi Cường Để và Diệm bị loại bỏ. Theo tình báo Pháp, hạ tuần tháng 8/1945, Diệm cũng lên đường ra Huế theo lời mời của Bảo Đại và Kim. Sau đó, có thể Diệm đã tị nạn trong một tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Canada [Gia Nã Đại] ở Huế cho tới đầu năm 1947. (SHAT (Vincennes), 10H xxx)

 

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, mặc dù Khôi từng nhờ Ngô Đình Nhu chuyển tới Paul Arnoux “lời thề trên thánh giá” là trung thành với Bảo hộ, anh em họ Ngô thực sự nương gió Nhật đổi buồm đã lâu, không nằm trong nhóm chưa chịu đổi buồm—như Nguyễn Văn Thinh, Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Tâm, Jean Leroy, v.. v... Dù rút vào bóng tối, hay tham gia các công tác xã hội cứu đói, giúp đỡ các nạn nhân bị phi cơ Đồng Minh oanh tạc, hoặc nghiền ngẫm niềm bất mãn và hận thù trong các nhà tù và trại tập trung của Nhật, những người “Pháp mũi tẹt” âm thầm mong đợi ngày Nhật bại trận. Ngoài ra còn những người tiếp tục bị giam cầm tại các nhà tù, hay tụ họp tại các mật khu trong rừng núi hay hải ngoại, quyết không đội trời chung với Nhật và/hay Pháp. Đó là Đảng CSĐD với cơ quan ngoại vi Mặt Trận Việt Minh, cùng một số lãnh tụ chống Cộng có khuynh hướng thân Hoa, hoạt động trong các toán tiền tiêu của các đơn vị “Hoa quân nhập Việt,” chuẩn bị cho ngày Đồng Minh đổ bộ. Đường ranh phân chia tim óc người Việt đã ươm mầm và nảy nở liên lũy trước khi cuộc chiến tranh lạnh Tư Bản-“Cộng” Sản khởi đầu. Cả hai phe đều tin ở sức mạnh của họng súng và thể chất—không ngừng gào thét đòi phanh thây, uống máu quân thù. Võ Giáp và các thành viên của Đoàn vũ trang tuyên truyền thành lập ngày 22/12/1944, hay các nhóm “Việt Hùng,” “xung phong, ám sát đoàn” đều mang theo họ những ngọn lửa hận thù mất cha mẹ, vợ con, anh em. Đáng lưu ý là hầu như đại đa số đều không phải là công nhân vô sản [proletariat]—mà chỉ những nông hay thị dân nghèo khổ, ăn bữa sáng, lo bữa tối—tự biến mình thành những âm binh chịu phù phép. Trong ống tay áo các tay phù thủy ngoại cường và tập đoàn cai thầu bản xứ. Một cấp chỉ huy OSS, Thiếu tá Allison K. Thomas, từng báo cáo rằng đại đa số bộ đội Việt Minh chưa nghe đến hay hiểu biết Cộng Sản là gì. Trong số những người chống Cộng như tín đồ Ki-tô và Hòa Hảo, họ chống bất cứ thứ gì liên hệ với Cộng Sản chỉ vì lệnh trên. Có những người tốt nghiệp Đại học Mỹ còn không hiểu nổi ý nghĩa và biên độ “chỉnh cán, chỉnh quân” của Mao Trạch Đông hay quyết tâm độc quyền yêu nước và cai trị của Marxist-Leninism trong đầu thập niên 1950—kiến thức sử không quá số vốn lớp đồng ấu hay tiểu học.

 

B. NẠN ĐÓI ẤT DẬU:

 

Sự bùng nổ chính trị nói trên trùng hợp với nạn đói Ất Dậu (1945), một biến cố bi thảm tại Bắc và Bắc Trung Kỳ. Nạn đói đã khởi đầu từ năm 1944; đó là sự oà vỡ cuối cùng của sự căng thẳng kinh tế liên lũy gia tăng dưới thời Pháp thuộc; và, dân chúng ngày thêm nghèo khổ, quẫn bức dưới thời Nhật chiếm đóng. Thông thường, nông dân Bắc và Trung Kỳ chỉ sản xuất vừa đủ số gạo cần dùng. Trường hợp có thiên tai, họ cần được tiếp tế bằng gạo miền Nam. Tuy nhiên, từ vụ mùa năm 1943 (khoảng tháng 11-12), chính quyền Decoux đã cho lệnh nông dân Bắc và Trung Kỳ phải bán số “thóc thặng dư” cho nhà nước. Điều này có nghĩa mỗi dân làng phải bán cho nhà nước một số lượng thóc nhất định, bất kể thu gặt được bao nhiêu. Ngoài ra, giá chính thức thu mua của nhà nước thấp hơn giá thị trường. Cùng với sự lộng quyền và âm mưu trục lợi của những đại lý thu mua thóc, chính sách trên vét sạch các vựa thóc dành dụm của nông dân, và khiến rất nhiều trung nông bị sạt nghiệp. (Vũ Như Trác, “Để cứu đói cho dân: Chính phủ mới cần biết những hà chính của Pháp còn để lại;” Tin Mới, 1/6/1945) [đại đa số từ 1 sào tới 5 mẫu: khổ nhất. Số vốn bỏ ra cầy cấy 1 sào là 42 đồng, thuế 12.$ 20, 1 sào thu được 6 thúng thóc x 20kg = 120kg x 0.$ 25 = 30 đồng. Nếu phải vay ăn để cầy cấy: 50% lãi trong 4 tháng]. Lấy thóc cả công điền, thần từ và Phật tự.)

 

Trong khi đó các cuộc oanh tạc và phong tỏa hải lộ của Liên Bang Mỹ và Bri-tên cắt đứt hầu hết việc chuyển vận lúa gạo từ Nam ra Trung hay Bắc. Trong những công điện cuối cùng từ Đà Lạt gửi về Vichy ngày 5/8/1944, Decoux báo cáo tình hình kinh tế Đông Dương như sau: Thăng bằng về kinh tế còn duy trì được cho tới cuối năm 1943. Từ đầu năm 1944, mất quân bình vì sự gia tăng oanh tạc và phá hoại của tầu ngầm Đồng Minh. Các tàu vận tải của Đông Dương hầu như tê liệt. 7 trên 13 tàu chạy ven biển (caboteurs) bị đắm. Tàu đáng lẽ cặp bến Hải Phòng phải lùi dần xuống phía Nam; Tourane, rồi Qui Nhơn; và, vào cuối tháng 8/1944, phải đổ hàng ở Nha Trang (Cable 11,270). Từ đầu năm 1944, bắt đầu dùng thêm thuyền buồm. Từ ngày 1/1 tới ngày 1/7/1944, chở ra được miền Bắc 3,672 tấn gạo ăn; và 4,506 tấn gạo để chế cồn (Cable 11,272). Vận tải bằng đường bộ, đang từ 4,000 tấn vào tháng 1/1944, xuống còn 660 tấn vào tháng 2/1944, và 230 tấn trong tháng 3/1944. Từ Bắc chở vào Nam chỉ được 660 tấn trong tháng 4/1944 (Cable 11,273). Trù tính chở 2,500 tấn trong tháng 8/1944, nhưng cơn bão trong hai ngày 10-11/7/1944 phá hủy mất 600 tấn muối. Kho muối ở Bắc chỉ còn 18,000 tấn, cần 17,000 tấn dùng cho tới cuối năm, và 40,000 tấn để dùng cho tới mùa muối vào tháng 4/1945 (Cable 11,273; Tels 11,268-11,278, 5/8/44, Dalat gửi Colonies Vichy; CAOM (Aix), FOM, Carton 272, Dossier 451).

Số lượng thóc gạo thỉnh thoảng chở được ra Bắc—25,884 tấn năm 1940, 118,752 tấn năm 1941, 110,000 tấn năm 1942, 99,099 tấn năm 1943, 68841 tấn năm 1944, 15222 tấn từ tháng 1 tới tháng 3/1945, và 7586 tấn từ tháng 4 tới tháng 8/1945—bị tồn kho để sử dụng tại các thành phố hay chế biến nhiên liệu cần thiết cho quân sự. (Cable 11,273; Tels 11,268-11,278, 5/8/44, Dalat gửi Colonies Vichy; CAOM (Aix), FOM, Carton 272, d. 451á; Tân Dân, 31/10/1946).

 

Từ vụ mùa năm 1943, nông dân miền Bắc và miền Trung phải trông cậy vào số thóc thu gặt mỗi mùa hoặc các loại hoa màu phụ mà họ có thể gieo trồng. (Liệu, Bích và Đạm 1957: tập II: 87-8).

Một loạt những thiên tai trong mùa Hè 1944 phá hủy gần hết vụ mùa tại vài tỉnh, đặc biệt là Thái Bình ở miền Bắc, nơi vấn đề nhân mãn và thiếu dinh dưỡng là những vấn nạn trường kỳ. Tệ hại hơn nữa, thời tiết lạnh khắc nghiệt của mùa Đông 1944-1945 làm hư gần hết hoa màu phụ. Nạn đói lan tràn khắp đồng bằng sông Hồng và sông Mã. Trẻ em, rồi người lớn, và cuối cùng toàn gia đình lâm vào cảnh chết đói. Đối diện tử thần, dân quê tại những vùng bị nạn đói hoành hành lên đường đi kiếm thực phẩm. Họ tràn vào các chợ lân cận, rồi kéo về các thị trấn và thị xã, ở đó theo lời đồn có rất nhiều kho thóc đầy ắp. Sự giúp đỡ nhỏ nhoi của các hội từ thiện tư nhân khó thể giải quyết cơn khủng hoảng quá trầm trọng. Những nông dân lang thang xin ăn âm thầm gục đổ xuống các mặt phố, hay không thể thức giấc sau một đêm ngủ đỗ trên lề đường của các thị trấn và thành phố. (17)

Trong khi đó, tại miền nam, nhiều công xưởng phải dùng thóc đốt thay cho than đá từ miền bắc. Ngày 28/9/1945, kiểm kê tổng số gạo Decoux tồn trữ được 230,000 tấn, tương đương với 391,000 tấn thóc. (CAOM (Aix), INF, carton 158, d.1362). Đầu năm 1946, R. H. Smyth, trong Combined Food Board [CFB = Hội đồng Thực Phẩm], báo cáo dân sự Pháp có 12,000 tấn gạo, và quân đội Nhật, 45,000 tấn. Linh mục/Cao ủy Georges Thierry d’Argenlieu đồng ý gửi ra Bắc 5,000 tấn để chứng tỏ thiện chí, trao đổi với việc quốc quân Trung Hoa mau rút khỏi miền Bắc vĩ tuyến 16. (Tel No. 1016 (27/5/1946), Haussaire Indo Saigon gửi Comité Indochine; CAOM (Aix), AE, carton 14).

 

C. VIỆT MINH & ĐƯỜNG GIÂY OSS:

Chính phủ “quân sự chỉ huy” của Nhật, và lá bài vương giả bản xứ “độc lập” gặp sức chống đối mãnh liệt của Đảng Cộng sản Đông Dương [CSĐD], dưới chiêu bài Mặt Trận Việt Minh. Khối sử văn cổ điển cho rằng Mặt Trận Việt Minh xuất xứ từ tên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, do Hồ Chí Minh, tức Nguyễn Sinh Côn, thành lập ngày 19/5/1941, tại Hội nghị trung ương thứ 8 nhóm họp ở biên giới Cao Bằng và Quảng Tây. Sự thực, đây là một tổ chức “hồn Trương Ba, da hàng thịt,” do Côn tái sinh năm 1941 tại Hoa Nam. Tổ chức này đã do nhóm Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần đăng ký tại Nam Kinh từ năm 1936, nhưng chỉ hoạt động được ít lâu rồi chìm vào quên lãng. Sau khi trực tiếp nắm Ban Chỉ Huy Ở Ngoài của Đảng CSĐD ở Côn Minh, Côn giao cho Phạm Văn Đồng (1908-2000) làm Phó Chủ tịch Việt Minh với hy vọng xâm nhập tổ chức Hoa quân nhập Việt của quan tướng Trung Hoa. Bị lộ mặt Cộng Sản, Đồng và Giáp phải trốn chạy về vùng biên giới Cao Bằng. Tháng 5/1941, giữa lúc Đảng CSĐD tại nội địa thêm một lần bị Pháp tắm máu trong chiến dịch “khủng bố trắng” 1939-1941 mà Côn trực hay gián tiếp trách nhiệm—khi mở đường giây liên lạc với Ban Chấp Ủy Trung Ương ở Sài Gòn, sau ngày rời Mat-scơ-va về Trung Hoa—Côn và thuộc hạ chính thức cướp đoạt danh hiệu Việt Minh như một cơ quan ngoại vi, hay mặt trận thống nhất [united front] theo chỉ thị của QTCS. (18) [7]

Có tác giả như Huỳnh Kim Khánh còn đi xa hơn nữa, cho rằng ngày 19/5 kết thúc hội nghị 8 này sau được Hồ nhận làm sinh nhật của mình. Suy diễn trên có lẽ không đúng. Nếu muốn cho “Ngày sinh nhật 19/5” một kỷ niệm nhớ đời, ngày 19/5/1910 đáng ghi nhớ hơn nhiều—ngày này 35 năm trước, sau khi bị cách chức tri huyện Bình Khê, chờ tra cứu, Phó bảng Nguyễn Sanh Huy bị giáng 4 cấp, phạt 100 trượng, đầy 3000 lí vì tội “say sưa và tàn ác với dân chúng” (tra tấn một nông dân trong cơn say, khiến nạn nhân bị ốm chết), đưa đến cảnh anh em Côn phải bỏ học, rời Huế ra đi. (“Biographie de Ho Chi Minh (1949);” CAOM (Aix), GGI, 19 PA, c. 4, d. 62; Trần Văn Giàu & Trần Bạch Đằng, Vàng Trong Lửa (TP/HCM: Ban KHXH Thành Uy, 1990), tr. I-30. Các tác giả đã lầm lẫn cho Nguyễn Sinh Côn (mà họ ghi là Cung) vào trường Quốc Học trước khi xảy ra cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế (9-15/4/1908), Ibid. I-29. Mãi tới ngày 7/8/1908, ban giám đốc trường Quốc Học mới báo cho Phòng 2 Tòa Khâm sứ Huế là Côn được nhận vào trưòng QH; CAOM (Aix), Annam, R-1)

Gần sự thực hơn nữa là việc đón lễ sinh nhật 19/5/1946 của Hồ đi kèm lời kêu gọi dân chúng Hà Nội và khắp miền bắc vĩ tuyến 16 treo cờ đỏ, sao vàng trong thời gian d’Argenlieu ra thăm Hà Nội từ 18 tới 21/5/1946 (Cứu Quốc (Hanoi), 17/5/1946)—một danh dự lớn cho Linh mục/Cao Ủy Pháp, để đáp lại chuyến mời Hồ và Nguyễn Tường Tam ra Vịnh Hạ Long gặp mặt thân hữu. Đồng thời để biểu dương sức mạnh chính trị của Hồ. Trước đó gần hai tháng, sau buổi gặp mặt đầu tiên với Hồ, D’Argenlieu đã ghi trong nhật ký:

 

Sinh năm 1889, 56 tuổi. Hiện nay chưa phải là nhà lãnh đạo quốc gia mà chỉ là một thủ lĩnh cách mạng Cộng Sản. Đây là một người tinh tuyền [pur], về đạo đức: không có sự đút lót [concussion] hay sai vạy [dérèglement] nào có thể khiến ông ta đáng bị chỉ trích [reprocher]. Về phương diện tri thức, ông ta thu thập được khá nhiều; ông ta biết cách làm mình nhỏ lại, khiêm tốn và ... người thích ca ngợi người khác [un flatteur]. Ông ta thật ấm áp. Ông ta bén nhậy về vấn đề đối xử. Ông ta tự nguyện sử dụng những thuật ngữ tình cảm: tình bạn [amitié], tình hữu nghị [tình bác ái] [fraternité], chung thủy [loyauté], sự ngay thẳng [thật thà] [franchise], v.. v...

Nhưng ông ta biết rõ những gì mình muốn [Mais, il sait ce qu’il veut]. Ông ta muốn một qui chế biến Đại Nam thống nhất thành một dominion, theo trình độ tiến hóa hiện tại. Giáo điều và lý tưởng, ông ta không đo lường được nếu sự trưởng thành chính trị đã cho phép điều đó hay chưa.

Sức mạnh của ông ta là sự thành thật kế tục [Sa grande force est la sincérité successive].[ 239]

Có thể nào thay đổi ông ta mà ông ta không thấy đó là sự bội phản? Ông ta không tin tưởng ở ý định của chúng ta, dù ông ta ngưỡng mộ và chấp nhận sự ngay thẳng của chúng ta [la droiture de tel ou tel de notres].

Ông ta chỉ tin tưởng ở những gì phục vụ kế hoạch [desseins] của ông ta. Ông ta lắm mưu kế [Il sait ruser]. Ở lúc mà người ta ngỡ rằng có thể đạt thỏa thuận, ông ta khiến mọi sự trở lại từ đầu [Remettre tout en cause quand l’on croit être arrivé à un accord]. Ông ta không thể, ông ta không muốn hủy bỏ những điều có lợi của hiệp ước sơ bộ và phụ ước quân sự mà ông ta phải miễn cưỡng ký kết. Ông ta muốn rút ra từ nó nhiều hơn nữa. Giữ lại những gì ông ta thích, và quên lãng tất cả những thứ khác. Ông ta biết cách khéo léo ràng buộc những người thiếu thẩm quyền và không trách nhiệm hứa hẹn một cuộc thương thuyết ở Paris. Ông ta bám cứng vào đó [Il s’y cramponne]. (D’Argenlieu, Chronique, 1985:239-40)

 

Dưới bảng hiệu mới là “đấu tranh chống Phát-xít Nhật và Đế quốc Pháp,” Mặt Trận Việt Minh nín thở qua sông trong giai đoạn cai trị gián tiếp của Nhật (9/1940-3/1945). Việt Minh thành lập được hai đội du kích ở Cao Bằng và Lạng Sơn, nhưng những nỗ lực tái lập Đảng tại đồng bằng miền Bắc và miền Trung rất hạn chế, trong khi mọi nỗ lực đánh thông liên lạc với Nam Kỳ trước Meigo đều thất bại.

Trong kế hoạch thanh niên vận và trí vận, từ mùa Hè 1944, Đảng CSĐD thành lập Đảng Dân Chủ, với Dương Đức Hiền làm Tổng Thư Ký, Hoàng Minh Chính Bí thư Đảng đoàn, để gia nhập Việt Minh [30/6/1944]. (Vũ Đình Hoè, 2004:821) Những người gốc nam quen biết Dương Đức Hiền cũng qui tụ quanh nhóm Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, sau này hóa thân thành Đảng Tân Dân Chủ, dưới ảnh hưởng và sự chỉ huy của Xứ Ủy Nam Kỳ gồm Trần Văn Giàu, Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn “Bảy” Trấn, v.. v.. Qua năm 1944, nhóm này hoạt động dưới bảng hiệu truyền bá chữ quốc ngữ để hoạt động trí vận tại Sài Gòn/Chợ Lớn và các thị trấn.

Chiến dịch Meigo giúp Đảng CSĐD được tăng gia nhân sự từ các nhà giam và trại cải tạo, kể cả một số tù Côn Đảo, xâm nhập các tổ chức do Nhật tài trợ, như Thanh Niên Tiền Phong [TNTP] hay Bình Xuyên, Hòa Hảo. Y sĩ Phạm Ngọc Thạch—công dân Pháp và vợ Pháp—trở thành một cán bộ CSĐD, đưa đảng viên xâm nhập TNTP, và cải hóa thành phần lãnh đạo như Kỹ sư Kha Vạng Cân, Nha sĩ Nguyễn Văn Thủ, Luật sư Thái Văn Lung, tráng trưởng Huỳnh Văn Tiểng v.. v.. Nạn nhân của nhóm Stalinist sau này là Luật sư Huỳnh Văn Phương, tân Phó Giám đốc Cảnh Sát Sài Gòn, từng phóng thích một số cán bộ cốt cán như Bùi Văn Dự, “Thắng” tức Trần Văn Trà, cung cấp vũ khí và tuyển dụng một số cán bộ CS trong TNTP vào ngành Cảnh Sát. (19)

Sau một thời gian hoạt động với Kempeitai Nhật, Trần Văn Soái, Lê Văn “Bảy” Viễn cùng Dương Văn Dương của tổ chức tội phạm Bình Xuyên trở thành lãnh tụ chống Pháp. Tháng 10/1945, Bảy Viễn được phong làm Chỉ huy trưởng Mặt Trận Sài Gòn/Chợ Lớn. (CAOM (Aix), CP 161)

Chiến dịch Meigo của Nhật, tưởng nên nhấn mạnh, còn mở cửa dư luận thế giới cho Việt Minh. Mặc dù từ năm 1942, các cơ quan tình báo Trung Hoa và Liên Bang Mỹ bắt đầu chú ý đến Hồ và tổ chức Việt Minh—qua Ban Chỉ Huy Ở Ngoài Đảng CSĐD, và nhóm Hội Giải Phóng chống Nhật của Nguyễn Văn Cơ, tức Lê Tùng Sơn hay Anh tại Côn Minh—nhưng họ chỉ âm thầm theo dõi. Sau đó, đồng ý cho Trương Phát Khuê, một lãnh chúa quân phiệt Quảng Tây, thuê mướn Việt Minh thu thập tin tức về quân Nhật, qua hệ thống Hoa quân nhập Việt. Lê Tùng Sơn và một số cán bộ CS được cử vào Ban Chỉ Đạo của tổ chức Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội tại Liễu Châu. Nhưng các sĩ quan tình báo Mỹ không dấu sự nghi ngờ về Hồ—“một cán bộ QTCS thứ thực,” theo nhận định của Đại úy OSS Archimedes L. A. Patti tại Hoa Nam. Cuối tháng 2/1945—sau khi Việt Minh đã cứu thoát Trung úy William Shaw, một phi công Mỹ bị bắn rơi ở Cao Bằng—Tướng Claire L. Chennault, Tư lệnh Không đoàn Cọp Bay, vẫn chưa đồng ý tiếp kiến “ông Hoàng,” mới cùng hai thuộc hạ “đi bộ mười một ngày” từ Pác Bó sang Vân Nam đề nghị hợp tác. (20)

Chiến dịch Meigo của Nhật khiến viên chức Mỹ bỗng thay đổi hẳn thái độ. Sự thay đổi này do nhu cầu tình báo về quân lực Nhật tại Đông Dương. Cuộc tổng tấn kích ngày 9-10/3/1945 đã cắt đứt hầu hết hệ thống tình báo mà trước đó người Pháp và Hoa tại nội địa cung cấp. Nhân viên OSS biệt phái cho Bộ Tư lệnh “lực lượng kháng Nhật” của Tướng Sabattier tại Điện Biên Phủ cũng bắt buộc phải theo tàn quân Pháp rút khỏi Đông Dương—mặc dù de Gaulle đã gửi cả Tổng thư ký Comindo là Francois de Langlade và Paul Mus tới Điện Biên, chuyển lệnh phải ở lại nội địa Đông Dương bằng mọi giá. (SHAT [Vicennes], Indohine, 10 H xxx; Patti 1980:75-80; Spector 1983: 39-40)

Ngày 17/3, Charles Fenn, một nhân viên OSS tại Đội Yểm Trợ Không Lực Dưới Đất (AGAS) tại Trung Hoa, được lệnh tiếp xúc Hồ, và đặt cho Hồ bí danh “Lucius,” trước khi nhờ Hồ đưa hai nhân viên AGAS vào nội địa, thiết lập đài truyền tin. (Fenn 1973:76-80). Sau đó, Patti bay sang Liễu Châu gặp Hồ. Vì nể trọng sự lương thiện của Hồ và thái độ dửng dưng với ngân quĩ của OSS, Patti đã tảng lờ liên hệ giữa Hồ với Quốc Tế Cộng Sản, sử dụng Hồ đồng loạt với các nhân viên Pháp. (Patti 1980:83-7,104-5) Quyết định của Patti cực kỳ quan trọng. Những ngày sau đó, nhờ vũ khí Mỹ, thuốc men, trang cụ và đặc biệt là bề ngoài được Mỹ công nhận và yểm trợ, Đảng CSĐD—dưới chiêu bài Việt Minh—sớm hồi phục khỏi tình trạng bị vỡ nát dưới tay Pháp trong giai đoạn 1939- 1944. (Liệu 1964; CAOM (Aix), CP, hộp 161 và 192; 7F 27).

Cơ quan tuyên truyền của Việt Minh cũng ra sức tự đánh bóng như một tổ chức duy nhất đang hợp tác với phe chiến thắng Đồng Minh và gay gắt tố cáo tuyên ngôn độc lập của Bảo Đại là thứ “độc lập bánh vẽ” (Liệu 1945). Cán bộ Việt Minh còn tích cực lợi dụng nạn đói để khích động đám đông hầu tạo cơ hội thuận tiện cho một cuộc nổi dậy, dự trù khi quân Đồng Minh đổ bộ ở Trung Hoa và Đông Dương trong khoảng mùa Thu 1945 và mùa Xuân 1946.

Các toán vũ trang tuyên truyền và ám sát đoàn—dưới sự chỉ huy của cán bộ từng được tình báo Bri-tên huấn luyện như Lê Giản (Giám đốc Công An Trung Ương), Hoàng Đình Rong, Dương Công Hoạt (Bí thư Cao Bằng), Pallat Nguyễn Văn Minh (cựu Bí thư Bắc Kỳ), Nguyễn Văn Ngọc (Giám đốc Công An Trung Bộ), Vũ Văn Địch (Cục trưởng tình báo quân đội), Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam), v.. v... —hoạt động hầu như công khai ở Hà Nội và các vùng ven thị trấn. Chu Văn Tấn và “đồng chí Văn”—tức Võ Giáp—thành lập an toàn khu ở vùng Tuyên Quang-Bắc Kạn, trải tới Cao Bằng. Tháng 5/1945, sau khi nhận lời hợp tác với tình báo Mỹ, Hồ di chuyển từ Pác Bó xuống Kim Lộng [Luông], huyện Sơn Dương, Tuyên Quang. Toán Con Nai [Deer Team] của Thiếu tá Thomas từng nhảy dù xuống Kim Lộng, giúp huấn luyện khoảng 100 “bộ đội Việt-Mỹ” và cứu Hồ thoát khỏi cơn bệnh mười chết một sống. Thomas còn hành xử như Ban Ngoại Giao của Hồ, chuyển ra ngoài lập trường kháng Nhật và tranh đấu cho độc lập của Việt Minh. Việc cơ quan tình báo Mỹ và Trung Hoa chấp thuận sử dụng Việt Minh để thu thập tin tình báo về Nhật còn tạo cho Việt Minh sức mạnh tinh thần và một vũ khí tuyên truyền sắc bén. Ngày 7/8/1945, Bảo Đại từng ra Dụ mời Việt Minh tham gia chính quyền, nhưng cả hai thượng thư khâm sai ra Hà Nội và vào Quảng Ngãi đều bị bắt giữ. (21)

Năm 1944-1945, cán bộ tuyên truyền [agitprop] của Đảng CSĐD xâm nhập, tổ chức các nhóm thanh niên, sinh viên, trí thức. Từ tháng 8/1945, Pehznef Trần Đình Long (1904-1946)—từ Nga về năm 1931, được Văn phòng Đông Dương của Ban Phương Đông Quốc Tế Cộng Sản dự trù sẽ thay Lê Hồng Phong nếu có chuyện bất trắc; cuối thập niên 1930, tham gia mặt trận báo chí ở miền Bắc (“Báo cáo của LHP tại Đại Hội VII QTCS (15/1/1935);” Lê Hồng Phong, 2002: 685 [685-697], & “Thư ngày 7/2/1932, Vera I. Vasilyeva gửi Litvinov [LHP];” LHP, 2002:742-43)—thực sự nắm Đảng Dân Chủ, cố vấn cho Ủy Ban Khởi Nghĩa Hà Nội. Nhân vật tích cực khác là Lê Trọng Nghĩa (Đoàn Xuân Tín), cán bộ tình báo, tham dự những cuộc thảo luận với Khâm sai Toại và Y sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Chủ tịch Ủy Ban Chính Trị Bắc Bộ. Do đề cử của những người này, Dương Đức Hiền rồi Vũ Đình Hoè—linh hồn nhóm Thanh Nghị—được đại diện Đảng Dân Chủ trong chính phủ lâm thời ngày 28/8/1945. (22)

Các nhóm thân Nhật tại Việt Nam chẳng coi trọng gì Bảo Đại. Thực ra, quyết định duy trì Bảo Đại của Nhật khiến mọi người đều ngạc nhiên, kể cả chính Bảo Đại. (Bao Dai 1980: 101). Nước Nhật đã từng cho Hoàng Thân Cường Để (1882-1951), bác họ của Bảo Đại và thuộc dòng trưởng của vua Gia Long (1802-1820), tị nạn nhiều thập niên. Năm 1939, Nhật khuyến khích Cường Để thành lập Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội, thường gọi tắt là Phục Quốc. Tổng Hành Dinh Lộ Quân Miền Nam của Nhật tại Quảng Châu (Canton, hay Guangzhou) cũng từng tổ chức Việt Kiều tị nạn ở Trung Hoa thành một lực lượng võ trang, với khoảng 2,000 Việt Nam Kiến Quốc Quân, được trang bị từ 300 tới 400 vũ khí. (CAOM (Aix), INF, hộp 133, hồ sơ 1120), và giao cho Trần Phước An (bí danh Shibata) cùng Trần Trung Lập, hai cộng sự viên thân cận của Cường Để, chỉ huy. Tháng 9/1940, Kiến Quốc Quân đã theo Sư đoàn 5 Ngự Lâm Quân Nhật tấn chiếm Lạng Sơn, một tỉnh sát ranh giới Hoa-Việt. Tháng 10/1940, sau khi Decoux chấp thuận cho quân Nhật đồn trú phía bắc Bắc Kỳ, Sư đoàn 5 Ngự Lâm Quân triệt thoái khỏi Lạng Sơn. Trần Trung Lập định duy trì vùng giải phóng được, nhưng bị quân Pháp đả bại. Lập bị bắt và xử tử vào tháng 12/1940. (23)

Tuy nhiên, việc Nhật bỏ rơi Kiến Quốc Quân hay hợp tác với chính quyền Pháp trong thế chiến thứ II không đủ ngăn cản một số người Việt tham gia tổ chức Phục Quốc của Cường Để: Không đủ khả năng rời nước, bị Cảnh sát Pháp truy lùng, và do áp lực kinh tế, số người Việt trên xin hợp tác với Nhật để đổi lấy sự an toàn và miếng ăn. Sau 1943, người Nhật bắt đầu đánh bóng Cường Để trở lại và tăng cường sức mạnh của Phục Quốc tại nội địa.

Tháng 2/1943, Vũ Đình Dy được Hiến Binh [Kempeitai] Nhật đưa qua Đông Kinh để tổ chức Ủy ban Kiến Quốc, một loại chính phủ phôi thai dưới trướng Cường Để. (Cuong De 1957: 138; Thông Tin, 10/6/1945; Nguyễn Xuân Chữ 1996) Đồng thời, tại nội địa Việt Nam, người Nhật khuyến khích các đoàn thể tham gia tổ chức của Cường Để. Trong số này có các nhóm Đại Việt ở miền Bắc, nhóm Đại Việt Phục Hưng (Ki-tô giáo) do Ngô Đình Diệm và các anh em cầm đầu ở miền Trung, cùng các giáo phái và những nhóm tự nhận là Đệ tứ Cộng sản (Trốt-kít) miền Nam. (24)

Tháng 7/1943, một nhân vật Nhật Bản có uy tín là Tướng Matsui Iwane tuyên bố tại Sài Gòn rằng ông ta là bạn Cường Để và, “Tốt nhất là người Pháp nên rời Đông Dương một cách êm ả; bằng không, họ sẽ thấy người Nhật hành động.” (25) Ảnh hưởng cá nhân Matsui tại Nhật ra sao đi nữa, vào tháng 1/1945 người Nhật đã qui tụ khá nhiều người Việt đủ để điều hành một nước Việt Nam độc lập dưới quyền Cường Để, với Diệm làm Thủ Tướng. (26)

Nhưng Tướng Tsuchihashi không muốn đưa Cường Để lên ngôi, có lẽ hy vọng lợi dụng tối đa hệ thống hành chính hiện hữu. Khi bị Tokyo áp lực nhận Cường Để hồi hương, Tsuchihashi nóng giận tuyên bố với các thuộc hạ: “Cứ đưa hắn về đây. Ta sẽ lập tức tống cổ hắn ra Côn Đảo.” (“Let them send him here. I'll at once put him in Poulo Condore”) (27)

Quyết định này—cùng với những yếu tố khác, như kế hoạch hậu chiến của các đại cường, sự phân hóa giữa các đảng phái và phe nhóm, và bầu không khí hỗn loạn—tạo nên một cuộc khủng hoảng chính phủ ở Huế. Trong tháng 3/1945, như đã lược nhắc, Bảo Đại hai lần gửi điện mời Diệm lập chính phủ, nhưng không thấy hồi âm. Mãi sau này Yokoyama mới cho Bảo Đại biết rằng người Nhật không muốn chọn Diệm. (28)

Từ phía họ Ngô, mùa Thu 1945, Giám mục Thục khai với mật thám Pháp là sở dĩ Diệm không nhận lời mời của Bảo Đại vì thấy chế độ do Nhật lập nên khó tồn tại lâu dài; hơn nữa quanh Bảo Đại có những thành phần tả phái và franc-macon [Tam điểm]. (CAOM (Aix), CP 125) Lời chứng này khó tin. Bức công điện thứ nhất từ Huế gửi đi trước ngày Kim về nước. Công điện thứ hai gửi đi lúc Kim vừa âm thầm trở lại Sài Gòn, không được đón tiếp linh đình như báo chí Pháp hay trưởng phòng tuyên truyền Paul Mus của Leclerc truyền tụng. Có thể Thục tảng lờ hoặc không biết đến quyết định của Tsuchihashi. Dù gặp Kim ở trụ sở của Dainan Koosi [Konsi?] trước ngày ra Huế, Diệm cũng không nói gì về việc được Bảo Đại mời. Ngoài ra, mục đích của Thục là biện minh cho sự hợp tác với Nhật của Diệm, một hình tội chiến tranh ở thời điểm đó.

Năm 1954, an ninh quân đội Pháp lại ghi rằng Diệm từ chối lời mời lập chính phủ vì Nhật không chịu cho thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam. Robert Shaplen cũng suy đoán theo chiều hướng này: Diệm từ chối không vì chống Nhật mà vì cảm thấy khó thiết lập một chính phủ tự do—trong số những yếu tố quan trọng có việc Nam Kỳ bị tách biệt với Huế. [“Diem refused, not because he objected to the Japanese but because he did not feel he would be able to establish a free government–among other things, the southernmost area of Cochin China was initially be excluded from it. Furthermore, he now saw the handwriting on the wall and did not want to put himself in the position of being declared a collaborator when the war was over. He returned to Saigon and waited.” (SHAT (Vincennes), 10H xxx; Shaplen. 1966:110)

Tuy nhiên, tất cả chỉ là suy diễn nhằm mục đích tô hồng, chuốt lục cho Diệm. Yếu tố tận dụng sức mạnh người bản xứ đang có mặt trong nước của quan tướng Nhật cho trận đánh cuối cùng mới là yếu tố chủ động. Lá bài Cường Để, cũng như Diệm và Chữ, đã bị loại bỏ trước khi phát động chiến dịch Meigo. Riêng Chữ được đích thân Kim và quan chức Nhật mời tham gia chính quyền, từ trung tuần tháng 8/1945 chấp thuận hợp tác. Điều Kim, Chữ và ngay cả quan tướng Nhật khó ngờ là việc sử dụng bom nguyên tử của Truman. (Nguyen Xuan Chu, Hoi Ky, pp. 244-49).

Thay vào đó, Nhật chọn Trần Trọng Kim (1883-1952), một học giả nổi danh và cũng nhà giáo, lúc ấy đã lưu vong [sang Thái Lan] từ năm 1944, dưới sự che chở của Nhật.

 

Vũ Ngự Chiêu (*)
© 2010, Copyright by Chieu N. Vu & Van Hoa Publishing.
All Rights Reserved.© 2010, Copyright by Chieu N. Vu & Van Hoa Publishing.

 

 (Xem tiếp phần 2)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 23459)
Do thực tại địa lý, do hoàn cảnh nhân văn và lịch sử và do những quan niệm về chính trị, vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc là một vấn đề vô cùng phức tạp và tế nhị. Vấn đề này đã được đặt ra ngay từ những ngày đầu của lịch sử dân tộc ta và luôn tuôn tồn tại cho đến tận ngày nay. 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83369)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 82416)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 74764)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
28 Tháng Chín 201012:00 SA(Xem: 31839)
Lý Công Uẩn làm vua gần 20 năm. Trong buổi đầu lập quốc vô vàn khó khăn, gian khổ, ông đã cùng triều đình và thần dân thiết lập nên một vương triều thực sự vững mạnh, ổn định lâu dài, chẳng những đặt nền móng vững chắc cho chế độ phong kiến Việt Nam, mà còn mở ra thời đại độc lập tự chủ của dân tộc. Đóng góp của ông thể hiện trên nhiều lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá và tư tưởng...
26 Tháng Chín 201012:00 SA(Xem: 34116)
Thế giới văn chương tuy bao la nhưng cũng giống như một xóm nhỏ, người viết thuộc lòng nhau. Thế giới phê bình còn bé hơn, nhiều "nhà", lắm "đại gia", nhưng những người đọc được đếm trên đầu ngón tay. Nghề phê bình cũng như nghề thợ trạm: phải ở trong mới biết thật, giả.
02 Tháng Chín 201012:00 SA(Xem: 35050)
Kính dâng vong linh những người đã nằm xuống trong cuộc chiến 1945-1975 Thứ Hai, 23/8/2010, vô tình vào mạng lưới điện tử Việt Nam–như Tuổi Trẻ (Sài Gòn), Sài Gòn Giải Phóng–được biết Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh của Đảng Cộng Sản Việt Nam [CSVN] mới đến thăm chúc thọ 100 tuổi [ta] Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôi trạnh nhớ đến một tựa truyện ngắn nổi danh thời “đổi mới”–“Tướng Về Hưu,” một thứ anh hùng ca về vị tướng xa rời chiến trận, đối mặt thực trạng xã hội hậu chiến nhem nhuốc như cô con dâu y sĩ nuôi lợn bằng nhau thai nhi, hay “đầu đường Đại tá vá xe,” ...
13 Tháng Tám 201012:00 SA(Xem: 83891)
III. TUYÊN CÁO CHUNG 16/6/1963: Do áp lực Mỹ, từ giữa tháng 5/1963, Diệm đã gặp lãnh tụ Phật Giáo để thảo luận về 5 đòi hỏi ngày 10/5. Tuy nhiên, chế độ chỉ muốn kéo dài thời gian để vô hiệu hóa dần cuộc tranh đấu.
13 Tháng Tám 201012:00 SA(Xem: 95432)
IV. GIỌT NƯỚC LÀM TRÀN LY: Sau khi Nolting rời Việt Nam, anh em Diệm-Nhu quyết chào đón tân Đại sứ Lodge bằng vài món quà ngoạn mục. Hai món quà lớn nhất là cuộc tổng tấn công các chùa trên toàn quốc và công khai tiếp xúc với sứ giả Hà Nội.
13 Tháng Tám 201012:00 SA(Xem: 91899)
Cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm 1963 là đề tài còn gây nhiều xúc động và tranh cãi. Tuy nhiên, tới nay vẫn chưa có nghiên cứu sử đích thực nào về đề tài này. Một trong những lý do là thiếu sử liệu. Tài liệu văn khố chưa hoàn toàn giải mật, và số người được tiếp cận tư liệu văn khố Đệ nhất Cộng Hòa không nhiều.