- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

Thày Mạnh

26 Tháng Chín 201012:00 SA(Xem: 34117)

thuykhue_hl110_0_276x300_1Thế giới văn chương tuy bao la nhưng cũng giống như một xóm nhỏ, người viết thuộc lòng nhau. Thế giới phê bình còn bé hơn, nhiều "nhà", lắm "đại gia", nhưng những người đọc được đếm trên đầu ngón tay. Nghề phê bình cũng như nghề thợ trạm: phải ở trong mới biết thật, giả.

Tháng 9/1993 được gặp ông lần đầu, Nguyễn Đăng Mạnh không khác những gì tôi hình dung qua văn bản: ông đẹp, lối Bắc, da trắng, mắt đen. Long lanh thứ ánh sáng mà Nguyễn Du gọi là "anh minh phát tiết ra ngoài", báo hiệu một đời "nghìn thu bạc mệnh". May nhờ cái miệng kéo đi: miệng khi cười, rộng, tươi. Môi như hai cánh hoa chụm, lúc không cười vẫn chúm chím như sắp nở. Thoạt nhìn có thể xếp vào loại trai Bắc lém, xạo, mắt có đuôi, miệng chưa cười, mắt đã. Nhìn kỹ không phải thế: cặp mắt cười đánh tan cái "bạc mệnh" của ánh mắt "anh minh phát tiết"; khi nói, cảm tưởng lém và xạo tan đi, chỉ còn cái thật, cái thẳng. Thẳngthật nằm trong thanh âm tiếng nói, tiếng cười đọng lại như những yếu tố ngoài văn bản.

Bấy nhiêu ký hiệu ngoại hình xác định tư cách trí thức và văn học của nhà phê bình.

*

Nguyễn Đăng Mạnh là một nhà phê bình sắc sảo, ông nhận ra những gì người khác chưa thấy, và ông thấy được sợi chỉ đỏ trong tư tưởng và nghệ thuật của tác giả.

Nguyễn Đăng Mạnh là một nhà trí thức dám nói, trong môi trường ít người dám nói thật.

Ở một ngòi bút phê bình, tài năng và đạo đức là hai giá trị hàng đầu. Tài năng, thường hiếm nhưng dĩ nhiên phải có, không tài, xin miễn, nên chọn nghề khác. Đạo đức, lại càng hiếm hơn, là đạo sống, đạo làm người. Đạo đức gần với lương tâm: Con người ai cũng có lương tâm, nhưng mấy ai nghe lời lương tâm, phần lớn chỉ dùng lương tâm như ông toà, cắn rứt trước việc đã rồi.

Ở người phê bình, đạo đức và lương tâm là một, ngòi bút đạo đức cũng là ngòi bút có lương tâm: Không khoa trương, viết những điều mình không biết. Không dùng chữ nghiã vào những việc trái với lương tâm. Không viết theo chỉ thị, cũng không viết theo đơn đặt hàng. Không làm bồi bút. Nịnh trên là bồi bút vụ lợi. Nịnh bạn là bồi bút vụ tình.

Nguyễn Đăng Mạnh là nhà phê bình có lương tâm nghề nghiệp trong một môi trường ít người giữ được lòng trong.

Một điểm nữa mà Tạ Trọng Hiệp lúc còn sống thường hóm hỉnh gọi là tình trạng "chạy nước rút": người ta muốn học gấp trong vài ngày, vài giờ những điều đáng lý phải học cả đời. Người ta tung ra những kiến thức sống sượng vừa sao chép được trong thời buổi điện tử, chỉ cần ấn con chuột vài cái là có đến trăm ngàn kiến thức dọn sẵn. Loại kiến thức "nước rút" đầy rẫy trong các cuộc "tranh luận văn học" trong và ngoài nước, trên mạng cũng như trên giấy.

Nguyễn Đăng Mạnh không tham dự những cuộc chạy nước rút, ông không thích ăn xổi. Ông không hay lên mạng nên thoát được tình trạng nhiễm xạ kiến thức nổi. Nguyễn Đăng Mạnh là một "người hiền" thênh thang trên con đường "cổ lỗ sĩ" vắng teo của mình: ông là một trong những người Mohicans cuối cùng của dòng phê bình "trọng nghĩa khinh tài", bởi "quê mùa" nên giữ được tấm lòng trong sạch với chữ nghiã, sách vở.

 

*

Chẳng cần nhắc lại những bài lý thuyết văn học hay những trang viết về Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng... giọng mực thước, kiến giải sâu sắc, hiển nhiên ai đọc cũng thấy, tôi phục nhất ông ở tác phẩm «Mấy vấn đề về phương pháp tìm hiểu, phân tích thơ chủ tịch Hồ Chí Minh» được giải thưởng nhà nước năm 2000, và lại càng phục sự sáng suốt minh mẫn của hội đồng giám khảo, đã có mắt tinh đời, nhận ra cuốn sách đặc sắc của Nguyễn Đăng Mạnh.

Phục, vì những kẻ ngoại đạo như tôi thường không dám lạm bàn đến văn thơ bác Hồ. Muốn tìm hiểu văn chương của lãnh tụ, chúng ta đã có cả một ngân khố nghiên cứu phong phú về Bác Hồ học, đủ mọi nhà, từ Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, đến Chế Lan Viên,Tố Hữu, ... chẳng kém gì ngành Việt Nam học ở nước ngoài. Nhưng cuốn sách nhỏ của Nguyễn Đăng Mạnh vượt lên trên tất cả kinh điển của các vị tiền bối và hậu bối, nếu dùng lại chữ của Nguyễn Đăng Mạnh thì đó là những "tiếng mai sau": viết cho hiện tại và tương lai.

 

Vì cho rằng thơ bác Hồ sáng như ban ngày, nên văn ông khi bình thơ bác cũng sáng lắm. Đọc ông, ta thấy rõ tất cả những chất thơ, chất thép trong thơ bác, rạch ròi, đâu thơ, đâu thép, và những tư tưởng cô đọng nhất, trữ tình nhất của bác khi trong tù, khi Pác-Bó. Bình bài Tức cảnh Pác Bó, Nguyễn Đăng Mạnh đã vận dụng phương thức phê bình kinh điển một cách tài tình. Jakobson và Lévi-Strauss phân tích bài Les chats của Baudelaire cũng không thú vị bằng. Họ trí thức quá, kỹ thuật quá, bài viết của họ khô khan như những công thức toán học, trong khi Nguyễn Đăng Mạnh bù khú, uy-mua, bình dân hơn, rất hợp với tinh thần dân dã, công nông trong thơ bác, nói lên cái chí khí của bác.

Không chỉ bình thơ mà họ Nguyễn còn dựng lại cả khung cảnh sống của bác Hồ. Tại Pác-Bó, Nguyễn vẽ cái hang, đặt lại bài trí, Nguyễn đi lại, ra vào trong hang, Nguyễn bảo phải gọi nó là cái hốc mới đúng, rồi Nguyễn ra cửa phóng mắt, bách bộ vài trăm mét để có tầm nhìn xa, Nguyễn so sánh cảnh ở ẩn ngày xưa của các cụ với cảnh ở ẩn ngày nay của bác. Không một vị trí, mưu lược, chiến lược, giả thử, giả thiết, góc độ, tọa độ, nào mà Nguyễn không thử. Nguyễn nếm rau, nếm cỏ, đi vào cõi mộng hư hư thực thực của bác, Nguyễn đưa mỗi chữ của bác ra để nhìn, ngắm, cảm, hiểu, lũy, tích, phân -tôi cam đoan chưa một nhà ký hiệu học nào có thể đi xa đến thế- và cuối cùng, Nguyễn đã tóm kết thơ bác thành một tổng hợp vô cùng phong phú. Nguyễn cũng không quên trích dẫn các vị hàn lâm đã bình thơ bác như thế nào, thầm nói lên cái thiếu vắng trong ngôn ngữ phê bình của các bậc tiền bối.

Nguyễn Đăng Mạnh là nhà nghiên cứu bác Hồ một cách đầy đủ và chân thực nhất mà chúng tôi có dịp đọc từ trước đến giờ. Nhưng bí quyết tìm thấy sợi chỉ đỏ trong thơ bác Hồ đến từ đâu?

Có phải Nguyễn hơn người vì đã tự hoà mình trong sự vui vẻ phóng túng của vị nguyên thủ lúc làm thơ, thấm được được cái vui, cái phóng túng ấy, hay chính nhờ cái duyên thầm, nhờ đôi mắt sáng có đuôi, nhờ cái miệng mỉm, những ký hiệu của một thần thái khác thường, mà Nguyễn đã có thể cảm thông sâu sắc với thơ bác hơn các vị chức sắc, cao hàm kia, họ quá trịnh trọng, không biết cười, mắt không có đuôi, lại ít sáng, nên dù được ở gần mặt trời mà vẫn không lãnh hội được ánh sáng?

*

Lâm Ngữ Đường kể một chuyện về Kim Thánh Thán đại để như sau: ông này tự đặt hiệu là Thánh Thán (nghiã là tiếng thở dài của Thánh) vì theo ông (Thánh Thán), lúc ông sanh ra, ở miếu Khổng Tử trong làng bỗng phát ra một tiếng thở dài bí mật.

Chuyện của họ Lâm và họ Kim thì chịu không biết ai bịa. Nhưng có một điều rất lạ: khi đọc hồi ký của một số vị tiền bối, kể cả những bản "di cảo" với những lời xám hối rất lâm ly, hoặc khi đọc nhật ký của chư vị liệt sĩ, kể lại những cảnh sa trường máu lửa, với những hy sinh cao cả của liệt vị anh hùng, lắm chỗ bi đát, hùng tráng lắm, vậy mà - dù đang xúc động với những tang thương ngẫu lục như thế - bên tai chúng tôi bỗng lại nghe thấy tiếng thở dài bí mật của Khổng Tử... Còn khi đọc hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, tuyệt không nghe thấy tiếng Tử thở vắn thở dài. Té ra thày Mạnh không bịa tý nào (chúng tôi cũng đã thử điều tra hư thực bằng cách hỏi một vài bạn đồng nghiệp trong nước về những điều Mạnh viết, thì được khẳng định chắc nịch "trăm phần trăm"). Thế mới chết. Ở cái chỗ mình đang mong thày Mạnh nói bịa như thày Lâm, thày Kim, thì không. Thày Mạnh luôn đánh trúng chỗ mình đuối nhất, không ngờ nhất.

*

Nhiều nhà đạo đức chê Mạnh là nhà giáo nhân dân, đường đường một đấng... mà lại "hạ mình" viết "hồi ký", thứ hồi ký thấp kém, rặt chuyện thị phi, nghe người này kể, người kia mách, toàn chuyện tầm phào, không xứng miệng người... quân tử!

Chê như vậy là rành... luân lý nhưng không mấy sành... văn.

Bởi văn chương không có sang hèn, không phân giai cấp, không chiếu trên chiếu dưới. Văn chương khác y phục, càng không phải lễ nghiã, bài vị, mâm cao, mâm thấp, hạng nhất, hạng nhì: Kẻ bình dân, thậm chí ăn mày có thể làm thơ sang trọng, biếm vua. Bị bắt, có thể phải chết, nhưng vua chỉ cắt được đầu hắn, chẳng vua nào "sai bảo" được văn chương hắn. Những điều vua áp dụng trên thân xác hắn không có tác dụng gì trên văn chương hắn. Văn chương đích thực luôn nhởn nhơ bay. Chỗ nọ cấm, chỗ kia in. Chỗ này chôn, chỗ kia quật. Văn chương đích thực là một thực thể ngoài lằn ranh: kẻ đạo đức vẫn có thể viết truyện liêu trai, nhà giáo có thể kể chuyện thị phi, miễn sao "lọt tai độc giả".

 

*

Lại có người bảo viết hồi ký thì phải cho ra hồi ký, phải trúng cách hồi ký. Nói thế là hơi... chấp. Hồi ký chỉ có nghiã hồi tưởng lại quá khứ mà viết, tức là viết chuyện quá khứ có mình, có người. Còn cách viết hồi ký như thế nào, xưa nay chưa ai dám xác định.

Nguyễn Đăng Mạnh dựa trên những điều ghi được, nhớ được, đôi khi nghe người này người kia kể về một nhân vật, một hiện tượng. Có chỗ ông nói quá, ghi sai, nhưng hồi ký không nhất thiết phải đúng 100%. Bởi không ai xử dụng hồi ký làm tư liệu chính xác nghiên cứu mà nếu dùng cũng chỉ để so sánh với những nguồn tư liệu khác.

Hồi ký cũng không phải cứ lột mình ra viết mãi, hết cuốn này sang cuốn khác, mà xong. Viết như vậy là bán mình trong sự bịa. Người đọc hồi ký không ngu, tới mức nào đó thì người ta không tin nữa, vứt sách đi. Viết hồi ký cũng giống như viết truyện hư cấu: phải làm sao cho người đọc thấy được sự thật bật ra trong tác phẩm.

 

Sự thật ấy là gì trong cuốn hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh?

Sự thật ấy không phải là cái đúng, cái sai khi tả Xuân Diệu thích ăn ngon, khi kể chuyện ai đó đi giật lùi trước mặt Tố Hữu.

Sự thật mà chúng ta đòi hỏi là Nguyễn Đăng Mạnh có tái tạo được chân dung những vị quan lớn... qua những chuyện thị phi, những nét biếm, nét thậm xưng, mà người ta đồn nổi, đồn chìm đó không?...

Sự thật ấy là Nguyễn Đăng Mạnh có tái tạo được bối cảnh văn trường nửa sau thế kỷ XX với những luồn cúi, những tiến thân, những bầy nhầy, nhếch nhác.

Sự thật ấy là qua cách biếm họa chân dung những nhà văn nổi tiếng, Nguyễn Đăng Mạnh có phác thảo được bộ mặt văn học thời ông sống hay không?

Thích hay không thích, tùy quan điểm của người đọc, nhưng dứt khoát hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh là một phụ bản của đời sống văn học, là sự kết hợp giữa sáng tác và phê bình, giữa ánh sáng và bóng tối.

*

Người phê bình thường không mấy khi sáng tác, vì một số lý do:

Phê bình không sáng tác vì đã khen chê người khác, dại gì để người khác khen chê mình?

Phê bình và sáng tác là hai địa hạt khác nhau: viết phê bình phải học, đọc kiểu phê bình, phải nghiền ngẫm các lý thuyết văn học, triết học, ngôn ngữ học, ký hiệu học, v.v... toàn những học là học, rất khó nhai và không hứng thú. Trong khi viết văn không nhất thiết phải đọc những thứ khó tiêu này, nay lẩy dăm ba câu Kiều, mai vài điệu Xuân Hương... đại khái đọc gì cũng được, tùy sở thích.

Phê bình phải đọc những thứ khó nhai để dựng kiến thức "vĩ mô", nhưng cũng không thể bỏ qua mớ kiến thức "vi mô", tức là những chuyện "tầm phào", kiểu: nhà thơ X thích ăn gì? Có mấy cô bồ? Bài thơ này làm tặng ai?... nên, tuy bề ngoài phê bình có vẻ trí thức, đạo mạo, nhưng bên trong hắn bị nung nấu bởi những thông tin thượng vàng hạ cám, óc hắn rối bời như mớ bòng bong, không còn "tâm địa" để sáng tác. Nói trắng ra kẻ phê bình luôn luôn bị trói chân trói cẳng, hắn phải theo đúng "đường lối" của chính hắn đề ra: tức là phải tìm cho được cái sườn tư tưởng của nhà văn, theo quy định mỹ học mà hắn đã lựa chọn.

Tất nhiên nếu bí quá, không nghĩ được gì độc đáo, hắn sẽ ba hoa chích choè, viện dẫn mớ lý thuyết học lóm hoặc "chạy nước rút", để lòe bịp độc giả, nhưng không bao giờ hắn có thể qua mắt được bọn thức giả, bọn đồng nghiệp đích thực.

Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh phối hợp cả hai tầm kiến thức "vi mô" và "vĩ mô" ấy trong cùng một ngòi bút, là cuốn sách bình dân thông tục do một trí tuệ quen lập luận bác học viết ra. Đó là điểm lạ và hấp dẫn của tác phẩm. Và vì thế nó được đồng nghiệp nể.

 

*

JP Sartre ví kẻ phê bình như một tên gác nghiã địa. Nghèo đói, vợ con nheo nhóc, luôn luôn bị vợ chửi vì kiếm không đủ tiền nuôi gia đình. Mụ chửi vì mụ chẳng thấy những xâu chữ rủng rỉnh của hắn bán được đồng xu nào, chỉ đem lại những phiền nhiễu, khốn nạn. Mụ xỉa xói, đôi khi thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Mụ hát như hát hay, những lý lẽ của mụ, hắn không bao giờ cãi lại được, mặc dù hắn là kẻ chuyên biện luận. Muốn thoát cõi trần ai khổ ải, hắn chỉ có cái thú duy nhất: trốn vào thư phòng, lật vài trang sách, tìm sự cứu rỗi: bao nhiêu con chữ nằm chết khô trong sách, chỉ đợi đôi mắt sáng của hắn rọi vào là chúng sống dậy, nhẩy múa tung lên, chúng cho hắn niềm vui và hạnh phúc, chúng đưa hắn phiêu lưu hết tinh cầu này đến vũ trụ khác, bọn bạn ma chữ ấy lai tỉnh, nói chuyện với hắn như gạo rang, và như thế hắn thoát khỏi cõi đời phiền toái...

 

Người Pháp rất hóm hỉnh, khi muốn nói xỏ kẻ nào đó, là khùng, họ không chỉ thẳng mặt kẻ đó mà bảo mày khùng, làm thế vô phép và dễ gây án mạng; họ dùng ngón trỏ, chỉ vào thái dương mình, xoáy tít mấy cái. Nếu xoáy trước mặt đối phương như thế sẽ không ổn, họ bèn đợi lúc kẻ kia quay đi, mới dí tay lên lên trán mình, chỉ có "cử tọa" thấy mà thôi. Cái lối gây sự kín đáo, nhã nhặn, lịch sự, như thế, người Pháp tuyệt hảo. Người mình chắc chắn không thèm làm như vậy, vì mình vốn được tiếng là một dân tộc anh hùng, mà đã anh hùng thì không thể làm cái cử chỉ ám lậu, lén lút, sau lưng như thế. Người mình tuyên chiến với nhau đường đường chính chính, ba mặt một nhời, dân ta đầy ắp chiến thắng trên khắp mình mẩy đất nước, nhiều vết sẹo để đời. Còn Pháp, may ra có vài trận đánh tép riu trên lãnh thổ, Napoléon cả đời đánh giặc trên đất người, chẳng để lại vết sẹo to nào trên giải đất lục lăng. Cá tính các dân tộc khác nhau là như thế.

 

Léo Spitzer, một nhà phê bình lớn của Đức kể lại một chuyện lý thú: hồi còn là sinh viên khoa bác ngữ học (philologie) ông bị nhồi nhét nhiều thứ lý thuyết, nhưng rút cục, về môn Pháp văn, ông chỉ biết đại khái là nếu tiếng la tinh có a, ta thay e vào thì ra tiếng Pháp... chứ còn bao năm học, thày chẳng dạy gì về người Pháp cả. Mãi đến khi một đoàn kịch Pháp qua diễn tại thành Vienne, Spitzer đi xem: mở màn ra thấy một tay Majordome (quản gia nô trong các nhà quyền quý) trịnh trọng nện cán gậy xuống sàn ba cái, cất giọng rổn rang hô "Madame est servie!" (Rước Bà Lớn nhập tiệc!). Spitzer mới ngộ ra cái dí dỏm khôi hài trong tính tình người Pháp, và từ đó ông dẹp tiệm ba cái bác ngữ học lôi thôi vô bổ để đọc thẳng tiểu thuyết Pháp và nghiên cứu Rabelais, nhà văn cự phách, đặc biệt khôi hài. Như vậy đủ biết tiếng cười hiếm quý như thế nào.

*

Dông dài như vậy là để giải thích tại sao tôi phục ông Mạnh. Ông dạy học suốt đời, ông là nhà giáo nhân dân. Ở địa vị cao quý như thế trong nước Việt Nam, chắc chắn ông phải đạo mạo, phải đứng đắn như... Khổng Tử. Nhưng ông lại không vậy, ông lại biết ... cười.

Tôi thấy thầy Mạnh không mấy thầy, mà lại rất... pháp.

Khi ông sang Pháp, tôi có được tiếp, nghe chuyện ông cả ngày không chán. Mà không phải nghe chuyện ai mình cũng thú đâu, nhiều người nhạt như nước ốc mà lại thích thao thao, ta đành chịu trận.

Nghe chuyện thày Mạnh khoan khoái cả "tinh thần" lẫn "vật chất", bởi ông là một nhà giáo chính hiệu xã hội chủ nghiã mà lại pha trộn cái duy tâm với cái duy vật một cách tài tình. Thí dụ về Xuân Diệu, ông đang mô tả Xuân Diệu làm cơm như thế nào, thích món gì, thèm món gì, "đột xuất" ông quẹo sang thơ Xuân Diệu, sang cuộc đời tình ái của Xuân Diệu, không thèm "chuyển đoạn" gì cả. Lối kể của ông luôn luôn như đánh du kích. Ông kể chuyện Trần Dần bị bắt, bí mật giật gân như xem phim trinh thám.

Trong suốt thời gian ở Pháp, ông không hề "tâm sự" về vụ hồi ký hồi kiếc gì. Có lẽ vì ông dư biết người ta viết chán ra rồi, bấy lâu nay đang có sự lạm phát hồi ký, loạn di cảo, nên ông chả dại đem con đi bán chợ giời.

Nhưng đùng cái ông đổi ý. Một hôm, tôi nhận được cuốn... hồi ký của thày Mạnh qua Email học trò ông gửi. Lần thử vài trang, không ngờ bị "ông bắt" đọc một mạch đến hết, vẫn còn ngẩn ngơ, giật mình. Hoá ra những mảnh chuyện ông kể như chuyện tầm phơ, như chuyện tiếu lâm, bây giờ đã "lên sách" "trăm phần trăm". Lại một lần nữa ông "đột xuất" vào những chỗ mình không ngờ nhất. Thế mới phục. Điện thoại hỏi ông: Anh viết để dành sau khi quá cố hả ? Ông cười bí mật không trả lời.

 

*

Trong hơn 40 năm ở Pháp, tôi có đọc ít nhiều tiểu thuyết Pháp, nhưng phục họ thì không bao nhiêu, bởi ngẫm lại nước mình cũng nhiều nhà văn hay lắm, chẳng kém gì Pháp. Thơ Hugo sao bằng thơ Nguyễn Du. Le Clézio, giải Nobel 2008, cũng vào loại "thường thường bậc trung" thôi: ông du lịch nhiều, thế giới Trung Mỹ dẫn ông vào những nền văn minh da màu bị người da trắng tiêu diệt, ngòi bút ông trăn trở một thứ "tự vấn đớn đau" (conscience malheureuse, chữ của Sartre) và ông muốn trở thành cái "lương tâm tự hối" của người da trắng trước các nền văn minh da màu bị phá huỷ. Tư tưởng cao đẹp ấy xứng đáng lãnh Nobel. Nhưng đọc kỹ ông, vẫn thấy như có một cái gì đó chưa thật: ông vẫn chỉ là người đứng ngoài, nhìn cái khổ đau của thổ dân da màu.

Cho nên, tuy Le Clézio viết về những huyền thoại của họ một cách rất thơ mộng, nhưng không thể bằng Asturias (Nobel 1967) kể lại huyền thoại ngô của người Mayas, không thể bằng Phạm Duy Khiêm viết truyện Trương Chi, kể truyện Trầu Cau, không thể bằng Nguyễn Tiến Lãng viết Thiếu phụ Nam Xương được, bởi Le Clézio chưa đi sâu vào da thịt của các nền văn minh ấy, vì muốn thấm nhuần một nền văn minh, xem chừng phải sống đến... ba đời. Trường hợp mới học tiếng Pháp mấy năm mà đã viết văn bằng tiếng Pháp như các ông Kundera, Cao Hành Kiện, đều không mấy thành công: Những gì họ viết tiếng Pháp không thể bằng những tác phẩm viết tiếng mẹ đẻ; kịch phi lý của Cao Hành Kiện rất nhạt vì thiếu uy-mua Pháp.

Rabelais là bậc thày hài hước, là tinh anh của uy-mua Pháp.

Nguyễn Đăng Mạnh cũng rất có uy- mua, uy-mua Việt. Không chơi chữ, không vòng vo tam quốc, ông vẽ chân dung. Khôi hài. Trực tiếp. Biếm hoạ. Giao thoa con người và tác phẩm như một hình thức mới kết hợp phê bình và sáng tác, ngoại trường quy, trên húy kỵ, đánh đổ thần tượng. Ông đi vào sáng tác như một phù thủy cao tay, nhào lộn phê bình trong hồi ký qua ngả hài hước. Bất cứ nhà văn nào trong đám tác giả ông đã nghiên cứu, sống lại, đọc hồi ký của ông cũng phải giật mình, thấy mình bị cướp cờ, bởi ông đã vẽ được bộ mặt "nhếch nhác" của họ và của môi trường họ đã sống, với nụ cười rất hóm, rất Pháp.

Ở đấy Nguyễn Đăng Mạnh chính là thày Mạnh, dẫn đường cho lớp trẻ đi sau, dám viết, dám làm.

Thụy Khuê

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 23459)
Do thực tại địa lý, do hoàn cảnh nhân văn và lịch sử và do những quan niệm về chính trị, vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc là một vấn đề vô cùng phức tạp và tế nhị. Vấn đề này đã được đặt ra ngay từ những ngày đầu của lịch sử dân tộc ta và luôn tuôn tồn tại cho đến tận ngày nay. 
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 83370)
Phụ Chú: 1. Thuật ngữ Việt Nam hoá [Vietnamization] được dùng để mô tả những diễn biến thu nhập và thực thi những biến đổi xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị do chế độ bảo hộ Pháp cưỡng bách áp đặt từ 1861 tới 1945, sau khi chế độ thực dân Pháp bị soi mòn dần từ năm 1940-1941 rồi cuối cùng bị xóa bỏ từ tháng 3/1945. Dù trong Anh ngữ, từ này còn một hàm ý khác — như chính sách Việt nam hóa cuộc chiến tranh Việt Nam của Liên bang Mỹ (1964-1973) — chúng tôi nghĩ thuật ngữ Việt Nam hoá chính xác hơn Việt hóa [Vietism hay Vietnamism].
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 82418)
III. ĐOẠN KẾT KHỦNG HOẢNG Trong tháng 8, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, trên bối cảnh chính trị quốc tế. Một mặt, phe Đồng Minh bắt đầu thực thi các kế hoạch hậu chiến đối với Việt Nam, từ giải giới quân Nhật tới chia chác vùng ảnh hưởng; mặt khác, ngay tại Đông Dương, người Nhật bị tê liệt không những chỉ vì lệnh đầu hàng đột ngột vô điều kiện mà còn vì viễn ảnh bị Đồng Minh trừng phạt. Với người Việt, các quan tướng Nhật bị phân chia theo yếu tố tâm lý và ý thức hệ.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 74773)
II. CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4 - 25/8/1945) Mặc dù chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là một thứ “tai nạn lịch sử,” được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật, chính phủ được Nhật bảo trợ này soi sáng mặt trái của đồng tiền cách mạng 1945 tại Việt Nam, mà cho tới năm 2010 còn bị che phủ bởi đủ loại tài liệu tuyên truyền.
04 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 79908)
(*).LTG: Bài này rút ra từ Phần II, “The End of An Era” [Đoạn Kết của Một Thời Đại], của Luận án Tiến sĩ [Ph.D.] sử học “Political and Social Change in Viet Nam between 1940 and 1946” đệ trình tại Đại học Wisconsin-Madison vào tháng 12/1984, dưới sự hướng dẫn của cố Giảng sư John R. W. Smail; và đã in trên Journal of Asian Studies [Tạp chí Nghiên Cứu Á Châu] vào tháng 2/1986, XLV: 2, pp. 293-328, với cùng tựa “The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945).” Phần tư thế kỷ sau, nhân dịp sinh nhật thứ 68, và kỷ niệm 65 năm cách mạng 1945, hiệu đính lại lần chót hầu phổ biến rộng rãi hơn trong giới người trẻ Việt muốn đi tìm sự thực lịch sử.
28 Tháng Chín 201012:00 SA(Xem: 31839)
Lý Công Uẩn làm vua gần 20 năm. Trong buổi đầu lập quốc vô vàn khó khăn, gian khổ, ông đã cùng triều đình và thần dân thiết lập nên một vương triều thực sự vững mạnh, ổn định lâu dài, chẳng những đặt nền móng vững chắc cho chế độ phong kiến Việt Nam, mà còn mở ra thời đại độc lập tự chủ của dân tộc. Đóng góp của ông thể hiện trên nhiều lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá và tư tưởng...
02 Tháng Chín 201012:00 SA(Xem: 35052)
Kính dâng vong linh những người đã nằm xuống trong cuộc chiến 1945-1975 Thứ Hai, 23/8/2010, vô tình vào mạng lưới điện tử Việt Nam–như Tuổi Trẻ (Sài Gòn), Sài Gòn Giải Phóng–được biết Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh của Đảng Cộng Sản Việt Nam [CSVN] mới đến thăm chúc thọ 100 tuổi [ta] Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôi trạnh nhớ đến một tựa truyện ngắn nổi danh thời “đổi mới”–“Tướng Về Hưu,” một thứ anh hùng ca về vị tướng xa rời chiến trận, đối mặt thực trạng xã hội hậu chiến nhem nhuốc như cô con dâu y sĩ nuôi lợn bằng nhau thai nhi, hay “đầu đường Đại tá vá xe,” ...
13 Tháng Tám 201012:00 SA(Xem: 83894)
III. TUYÊN CÁO CHUNG 16/6/1963: Do áp lực Mỹ, từ giữa tháng 5/1963, Diệm đã gặp lãnh tụ Phật Giáo để thảo luận về 5 đòi hỏi ngày 10/5. Tuy nhiên, chế độ chỉ muốn kéo dài thời gian để vô hiệu hóa dần cuộc tranh đấu.
13 Tháng Tám 201012:00 SA(Xem: 95435)
IV. GIỌT NƯỚC LÀM TRÀN LY: Sau khi Nolting rời Việt Nam, anh em Diệm-Nhu quyết chào đón tân Đại sứ Lodge bằng vài món quà ngoạn mục. Hai món quà lớn nhất là cuộc tổng tấn công các chùa trên toàn quốc và công khai tiếp xúc với sứ giả Hà Nội.
13 Tháng Tám 201012:00 SA(Xem: 91910)
Cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm 1963 là đề tài còn gây nhiều xúc động và tranh cãi. Tuy nhiên, tới nay vẫn chưa có nghiên cứu sử đích thực nào về đề tài này. Một trong những lý do là thiếu sử liệu. Tài liệu văn khố chưa hoàn toàn giải mật, và số người được tiếp cận tư liệu văn khố Đệ nhất Cộng Hòa không nhiều.